Tìm bài viết

Vì Bài viết và hình ảnh quá nhiều,nên Quí Vị và Các Bạn có thể xem phần Lưu trử Blog bên tay phải, chữ màu xanh (giống như mục lục) để tỉm tiêu đề, xong bấm vào đó để xem. Muốn xem bài cũ hơn, xin bấm vào (tháng....) năm... (vì blog Free nên có thể nhiều hình ảnh bị mất, hoặc không load kịp, xin Quí Bạn thông cảm)
Nhìn lên trên, có chữ Suối Nguồn Tươi Trẻ là phần dành cho Thơ, bấm vào đó để sang trang Thơ. Khi mở Youtube nhớ bấm vào ô vuông góc dưới bên phải để mở rộng màn hình xem cho đẹp.
Cám ơn Quí Vị

Nhìn Ra Bốn Phương

Thứ Hai, 3 tháng 11, 2025

NHÌN THẤY VÀ THẤY ĐƯỢC: TỪ THỊ GIÁC ĐẾN TRI KIẾN - Ngô Viết Quyền

                         (hình minh hoạ)  




<!>
Khi ý thức biết nhìn thì trăm sự nên, biết nghe thì trăm sự ổn và tri kiến thực sự chỉ xuất hiện khi ta chủ động lắng nghe và nhìn nhận thế giới bằng cả tâm hồn và trí tuệ. Khi chúng ta chỉ “nhìn thấy”, giống như lướt qua một bức tranh mà không dừng lại để cảm nhận những nét vẽ, sắc màu, hay ý nghĩa ẩn sâu bên trong. Để thực sự “thấy được”, mỗi người cần rèn luyện khả năng quan sát tinh tế, kết hợp giữa cảm xúc và lý trí để thật nhìn xa trông rộng, thấy sâu hiểu rộng. Chính sự chuyển hóa này giúp ta không chỉ tiếp nhận thông tin mà còn chạm đến chiều sâu của cuộc sống, mở rộng tâm thức mình trước muôn vàn sắc thái nhân sinh.


Lời mở đầu: Kể từ năm 2020 cho đến nay, người dân Mỹ nói chung và cộng đồng Việt Nam nói riêng, đã xảy ra nhiều tranh cãi chính trị một cách vô bổ; khiến cho gia đình xào xáo, bạn bè xa lìa nhau, cộng đồng chia cách v. v... Cho nên, tác giả mới bỏ thời gian viết ra bài này; để giải bày tâm sự. Độc giả nào đọc xong: Đồng ý hay không đồng ý cũng xin miễn chấp cho tác giả. Đây là một đề tài khảo luận về sự khác biệt tinh tế giữa hai cấp độ nhận thức: “nhìn thấy” (seeing) và “thấy được” (perceiving with understanding), qua hai lăng kính của triết học - hiện tượng học và nhân văn học Đông Phương; với tính chất thâm sâu nhận thức - nhân sanh. Tác giả viết theo phong cách khảo luận triết học - nhân văn, mang hơi hướng tư tưởng về nhân cách và minh triết trong đời sống thực tiễn. Vì thế, bài khảo luận này đặt trọng tâm vào sự chuyển hóa từ thị giác cảm quan sang “tri kiến” tâm thức. Điều này cho thấy con đường “từ nhìn đến thấy”: Từ thị giác đi đến tri kiến. (Phật học). Đây chính là hành trình của con người đi từ cảm xúc của Thân-Tâm-Ý đến Minh Triết, từ tri giác vật lý đến tri thức nhân bản và văn hóa. Bởi vì: “Nhìn thấy” thì khác biệt với “thấy được”. Đây đích thực là một vấn đề tinh tế của nhận thức học (epistemology) và hiện tượng học (phenomenology) trong ngôn ngữ Việt. Để diễn giảng một cách rõ ràng hơn, ta cần phân tách cả ngữ pháp - triết học - tâm lý từ tri giác của hai cách nói…Song từ Tri thức thuộc phạm trù Trí của sự vận hành não bộ tới Tâm thức có cảm ứng trạng huống trực ngộ đối tượng là thể nhập Đạo, thật không dễ cho phàm nhân chấp trước vào vạn cảnh vật chất luôn trôi lăn theo chiều thời gian và hiện tại không có thật vì “nó” đã là quá khứ ở khoảnh khắc phần ngàn triệu của “cái” chớp mắt. Do vậy, từ Tâm thức tới Tuệ là “thực thể” vi tế “thấy” vạn pháp vận hành sinh diệt và qui luật nhân – quả như nhiên thật là thành quả của pháp hành Tuệ quán…Thật là không phải thứ chấp Trí, chấp Thức, chấp Đạo như loài côn trùng mùa hạ chỉ biết, sống chết trong giới hạn của mùa thôi.


Có hai cách nhìn đời và nhìn người trong đời sống, “Nhìn thấy” là phản xạ tự nhiên của mắt. Nhưng “Thấy được” là phản ảnh và tỉnh thức của tâm linh. Hai cấp độ này phản ảnh sự khác biệt giữa kinh nghiệm cảm tính và ý thức tâm linh có nội dung mang nặng tính suy tư. Bởi khi ta “nhìn thấy”, ta chỉ đối diện với hiện tượng của sự vật, nhưng khi ta “thấy được”, ta đã để cho sự vật nói ra bản thể của chính nó. Cái nhìn trở thành cuộc đối thoại giữa người quan sát và thế giới vật thể. Nhưng có ai bàng quan thoạt nghe thì tưởng như chỉ khác nhau ở hai chữ nhỏ nhoi, thật ra, nếu ta suy nghiệm đến nơi đến chốn; thì đó là hai cấp độ tồn tại của nhận thức, là hai bậc thang giữa cảm quan và trí giác, bởi con mắt giữa kẻ đứng ngoài và giữa tấm lòng, giao thoa với tâm linh cùng lý trí của người đã đi vào bên trong của đời sống.




Ngược lại, “thấy được” là một hiện tượng của ý thức phản ảnh sự tỉnh thức, nơi con người không chỉ nhận ra “cái gì” đang hiện hữu, mà còn hiểu được “vì sao” nó như thế. Khi ấy, tri giác sinh học đã chuyển hóa thành “tri kiến” tinh thần khai sáng: Tức là cái biết được soi sáng bằng tâm linh và trí tuệ. “Thấy được” không cỏn thuộc về đôi mắt nữa; mà nó thuộc về tâm linh, nơi lý trí và cảm xúc của thân-tâm-ý hòa nhập làm một trong trực giác minh triết. Đó là cái “thấy được” vượt khỏi lăng kính vị kỷ, khi con người cảm nhận thế giới như một phần của chính mình; mà không còn là đối tượng bên ngoài để quan sát; mà là thực thể để giao cảm. Nguyễn Duy Cần từng viết: “Người quân tử không chỉ học để biết, mà học để thấy, thấy cái lẽ sống, để hiểu cái đạo làm người.”[3] Câu nói ấy xác lập ranh giới giữa tri thức và minh triết: “biết” là ghi nhận, còn “thấy được” là thấu hiểu. Ở cấp độ này, tri giác không còn đơn thuần là hình ảnh với hình tướng (nhìn thấy hình sắc) nữa; mà nó trở thành có ý nghĩa, trở thành tự nhận thức. Cái “thấy được” ấy chính là khi con người nhìn thấy bằng tâm linh với lý trí, mang một năng lực làm cho thế giới trở nên sâu sắc, sống động, đầy tinh thần nhân bản và văn hóa hơn.



Nhưng “Thấy được”, tức là ý thức và tâm linh đã chạm tới bản thể của hiện tượng ấy. Thí dụ, một người “nhìn thấy” một đóa hoa hồng , người đó chỉ ghi nhận rằng nó có màu hồng, với nhiều cánh, có mùi thơm và gọi tên nó bằng khái niệm: hoa hồng. Nếu người “thấy được” đóa hoa sẽ nhận ra chu kỳ: sinh - trụ - hoại - diệt trong từng cánh hoa đang dần úa tàn. Đó là cấp độ “nhìn thấy” của hiện tượng qua hình tướng (nhìn thấy hình sắc), thấy được quy luật sinh diệt, thấy được sự mong manh của đời sống nơi đóa hoa kia. Họ nhận ra trong đó sự mong manh của kiếp sống, sự hữu hạn của thời gian và cả nỗi khát vọng được tồn tại giữa vô thường. Ví như giòng đời nơi cõi ta-bà. Khi ấy, tri giác không còn dừng ở mức mô tả nữa; mà đã chuyển hóa thành “tri kiến”. Tức là cái “biết” mang tính tự phản ảnh tỉnh thức thành cái “hiểu” và đồng cảm cộng sinh. Người ấy không còn chỉ “biết hoa là hoa”; mà đã “thấy đóa hoa là chính đời mình” trong hành động nhận thức, ý thức không chỉ phản ảnh thế giới bên ngoài; mà còn phản ảnh chính mình trong thế giới ấy. Vậy khi con người “thấy được”, tức là ý thức đã vượt qua hiện tượng; để chạm đến bản thể, nơi sự vật bộc lộ ý nghĩa sâu xa của chính nó trong mối tương quan với đời sống. Đó chính là khoảnh khắc mà ý thức tự nhận ra mình trong thế giới muôn loài, nơi chủ thể và khách thể hòa tan, không còn tách rời. Cái “thấy” ấy không còn là nhìn bằng mắt nữa; mà người nhìn và vật được nhìn trở nên tương thông trong một khoảnh khắc của “liễu ngộ”. Cũng là nơi thế giới vật chất được thấm đẫm bằng ý nghĩa tinh thần. Cái “thấy được” đó chính là năng lực tri nhận bản thể trong hiện tượng, là bước chuyển từ tri giác sang minh triết, từ “nhìn bằng mắt” đến “thấy bằng tâm”.


Con người thời hiện đại đang sống trong một kỷ nguyên thừa mứa thông tin, nhưng lại thiếu vắng sự thấu hiểu. Mỗi ngày, ta “nhìn thấy” vô số hình ảnh, dữ kiện, con số và lời nói từ mạng xã hội, màn hình LCD, bảng quảng cáo cho đến tin tức trực tuyến. Nhưng giữa khu rừng dữ kiện ấy, rất ít người thật sự “thấy được” bản chất và ý nghĩa ẩn sau chúng. “Nhìn thấy” chỉ là hành vi tiếp nhận bề mặt, còn “thấy được” đòi hỏi một chiều sâu của tâm thức: Nơi lý trí và cảm xúc cùng hòa hợp để hiểu được “vì sao nó là như thế”. Khoa học, với kính hiển vi hay viễn vọng kính, đã mở rộng thị giác của con người, cho phép ta thấy được cái rất nhỏ hoặc cái rất xa. Nhưng chính nhân văn học mới giúp ta mở rộng “tri kiến”; để hiểu được cái gần gũi và hiện diện trong chính cái ta. Một nhà khoa học có thể nhìn thấy cấu trúc xoắn kép của DNA (Deoxyribonucleic acid is an organic chemical of complex molecular structure found in all prokaryotic and eukaryotic cells. It codes genetic information for the transmission of inherited traits: là một hợp chất hữu cơ có cấu trúc phân tử sinh học phức tạp, được tìm thấy trong tất cả các tế bào nhân sơ và nhân thực. Nó mã hóa thông tin di truyền dùng để truyền đạt các đặc tính di truyền giống.) Nhưng chỉ người có lòng nhân mới “thấy được” trong đó là sự mong manh và thiêng liêng của sự sống liên quan đến con người. Một nhiếp ảnh gia có thể ghi lại vẻ huy hoàng của hoàng hôn, nhưng chỉ hai người đang quyến luyến tiễn biệt nhau mới “thấy được” nỗi buồn chảy dài trong ánh ráng chiều ấy.



Trong đời sống hàng ngày hiện nay, phần lớn chúng ta đang sống bằng cái “nhìn”, chứ chưa sống bằng cái “thấy được”. Ta nhìn người đối diện qua màn hình, qua dáng vẻ, qua hành động; mà không thấy được nỗi niềm, căn nguyên, hay tâm cảnh của nỗi lòng họ. Ta nhìn cảnh vật như một bức tranh trước mắt; mà không thấy hay cảm nhận được linh hồn của bức tranh vẽ, cảnh vật thiên nhiên, không nghe được tiếng thở dài của gió, hay nỗi trầm mặc của đá. Ta nhìn vào thời đại; mà không thấy được con người trong thời đại ấy đang lạc hướng hay thâm độc ra sao. Chính do vậy, xã hội hiện đại vì thế đầy rẫy những “người nhìn thấy”, nhưng lại hiếm hoi những “người thấy được.” Bởi lẽ “nhìn” chỉ cần đôi mắt, còn “thấy” đòi hỏi một trái tim biết rung cảm và một trí tuệ biết soi rọi. Khi ta “nhìn bằng mắt”, thế giới chỉ là tập hợp của những hình tướng (nhìn thấy hình sắc) và khác biệt, nhưng khi ta “nhìn bằng tâm”; thì thế giới trở thành một mạng lưới liên đới, nơi mọi sự vật phản chiếu, hổ tương và nuôi dưỡng lẫn nhau.

Chúng ta có thể chỉ “nhìn thấy” lỗi lầm của kẻ khác; nên dễ sinh ra phán xét sai lạc, nhưng ít khi ta “thấy được” căn nguyên đau khổ, sự hối hận của họ bởi lỗi lầm đó. Ta “nhìn thấy” sự khác biệt, nhưng không “thấy được” sự tương thông đồng cảm với nguyên nhân của lỗi lầm ấy; khởi đi từ nỗi sợ hãi, tổn thương hay vô minh của kẻ gây ra tội ác. Tất ta sẽ khởi tâm cảm thông. Tương tự, ta có thể “nhìn thấy” tội ác, nhưng chỉ người “thấy được” cội nguồn của tội ác mới thật sự hiểu con người và có khả năng chuyển hóa. Sự chuyển hóa từ “nhìn thấy” sang “thấy được” là bước chuyển tiếp từ hiện tượng (phenomenon) sang bản thể (noumenon): Tức từ hình ảnh bên ngoài qua hình tướng (nhìn thấy hình sắc) chuyển sang chân chất nghĩa bên trong: “Tri kiến”. Khi ta “nhìn” hời hợt bằng mắt, khiến thế giới trở nên một bức tường chia cắt, nghi kỵ và đầy bạo lực. Nhưng khi ta “thấy được” bằng tâm, mở ra một cái nhìn dung hợp: Nơi bản ngã không còn là trung tâm và con người sẽ nhìn nhau bằng ánh sáng của lòng nhân, bằng lý trí. Khi ấy, thế giới không còn là một tấm gương phản chiếu bản ngã nữa; mà trở thành một tấm gương phản chiếu sự sống. Chỉ khi con người đạt đến cái “thấy bằng tâm”, đạt đến “kiến tánh,” (thấy được bản tánh). Họ mới thật sự chạm đến chiều sâu của nhân loại tính. Nơi mọi sinh thể trên thế giới cùng chung một giòng chảy cảm thông nối liền hiểu biết và hòa ái.


Tất cả các truyền thống minh triết Đông phương đều dẫn con người đi trên cùng một hành trình: Từ “kiến sắc” (nhìn thấy hình sắc) đến “kiến tánh,” (thấy được bản tánh). Chính là từ “nhìn thấy” đến “thấy được.” Trong Kinh Lăng Nghiêm, đức Phật dạy: “Phản văn tự tánh, tánh thành vô thượng đạo.” Nghĩa là, hãy quay cái nhìn từ bên ngoài trở vào nội tâm; khi ấy, cái “nhìn thấy” không còn bị sự vật che khuất; mà nó tự sáng lên từ chính bản thể tâm linh. Bởi vì “Nhìn thấy” là hành động vật lý, còn “thấy được” là trải nghiệm qua nhận thức. Một người có thể “nhìn thấy”; mà chưa chắc người đó “thấy được”. Vì “thấy được” đòi hỏi sự thấu hiểu; mà không chỉ là cảm giác. Thí dụ: “Tôi thấy được nỗi buồn trong ánh mắt em”. Hay “Mỗi khi nhìn thấy hoa sen. Tôi thấy được ý nghĩa thanh tịnh trong đóa sen”. Chính cái “nhìn” ấy không còn là tri giác thông thường nữa; mà là “kiến tánh,”(thấy được bản tánh) tức là nhận ra bản thể của người đang “nhìn”, nơi “tâm” và “cảnh” không còn phân biệt.


Nguyễn Duy Cần gọi đó là “cái thấy chơn chất” (chân kiến): Một cái thấy trong sáng, không bị tham, sân, si làm vẩn đục [3] . Khi cái thấy đạt đến mức ấy, tri thức không còn là sự tích lũy của lý trí, mà trở thành minh triết của tâm linh. Người “thấy được” không chỉ hiểu thế giới; mà còn hiểu thấu chính hành động “nhìn thấy” của mình. Nguyễn Duy Cần còn phân biệt rõ giữa “biết nhiều” và “thấy được”: “Biết là của trí năng; thấy là của tâm linh. Người biết nhiều chưa chắc thấy được, nhưng người thấy được thì bao giờ cũng biết đúng.”[4] Đó chính là khoảnh khắc; mà tâm thức tự soi sáng, khi con người thoát khỏi vòng lệ thuộc của bản năng và vọng tưởng; để sống trong trạng thái tỉnh thức tuyệt đối là nơi cái “biết” và cái “thấy được” trở thành một.


Tóm lại, “Nhìn thấy” là phản xạ tự nhiên của giác quan qua con mắt, trong khi “thấy được” là kết quả của sự khai ngộ nội tâm. Một bên thuộc về cơ năng sinh học của con mắt; bên kia thuộc về chiều sâu của tâm linh và nhân tính với bản chất văn hóa. “Nhìn thấy” chỉ dừng lại ở bề mặt hiện tượng, nơi hình sắc, màu mè, ánh sáng được tiếp nhận như dữ kiện cảm giác của hình tướng. Nhưng còn sự “thấy được” mở ra tầng cao bản thể: Nơi con người không chỉ nhận biết sự vật; mà còn nhận ra ý nghĩa hiện hữu của chính mình trong mối liên hệ với vũ trụ. Con người chỉ “nhìn thấy” thì học hỏi được thế giới vật thể: Họ hiểu cấu trúc, hình dạng, chuyển động của sự vật. Nhưng người “thấy được”; thì thấu hiểu chính mình, bởi trong mỗi cái thấy chơn chất (chân kiến) ấy, họ khám phá ra mối tương quan giữa chủ thể và đối tượng; giữa “người thấy” và “vật bị thấy.” Chính trong khoảnh khắc con người nhận ra điều này, ý thức vượt khỏi giới hạn tri giác; để bước vào cõi tự tri và tự phản ảnh tỉnh thức. Thông thường, một người có thể “nhìn thấy” mọi thứ, mà vẫn chưa thấy được gì. Nếu chưa có sự tĩnh lặng trong tâm hồn, qua tri thức và cảm thấu. Vì thế, “thấy được” chính là tầng cấp thăng hoa sâu sắc của sự thấy thông qua lý trí và tấm lòng. Như Nguyễn Duy Cần nói: “Thấy được, tức là sống thực trong tỉnh thức.”[5] Đó là “tri kiến”, là điểm khởi đầu và lần hồi chuyển thành minh triết. Đồng thời, cũng chính là nơi tri thức được thăng hoa thành trí tuệ nội quán.

Những ai biết tự lực cánh sanh, dám đi theo con đường riêng; thì càng đi con đường càng rộng mở. Con đường tu đạo cũng vậy. Nếu thoạt nhìn, chúng ta có thể nghĩ: Thế giới này có vẻ bất công: có người vươn lên chót vót đỉnh cao, có người âm thầm lặng lẽ sống đời bình dị. Nhưng nếu nhìn xa hơn, ta sẽ thấy thiên đạo luôn hiện hữu và thực ra rất công bằng. Bí mật của trời đất âm thầm phơi tỏ: “Cuộc đời dẫu thăng trầm, muôn vàn biến hóa, dù cơ hội tốt đến đâu, con người có tài giỏi đến mấy, cũng không thể vượt qua thiên đạo và quy luật tự nhiên.” Dù thế nào đi nữa, cuối cùng mỗi người đều phải trở về với chính con người chân thật của riêng mình. Đó chính là Thiên đạo.

Vì thế, nếu ta muốn thật sự - sống một đời sống có ý nghĩa, con người trước hết phải học “nhìn” cho rõ hình tướng của sự vật qua “kiến sắc” (nhìn thấy hình sắc); để rồi dần dà sẽ “thấy được.” Bởi “thấy được” không chỉ là hành động của cái “nhìn”; mà là trạng thái của sự thể được soi chiếu bởi tâm linh. Nơi con người trở nên trong suốt trước chính mình, được chiếu rọi bởi ánh sáng của lý trí và linh hồn; rồi đạt đến “kiến tánh” (thấy được bản tánh). Khi ấy, “thấy được” cũng là “được thấy”. Nghĩa là được sống bằng năng lượng tỉnh thức, bằng sự hợp nhất giữa trí tuệ và cảm xúc của thân-tâm-ý, giữa tri thức và niềm tin. Cho nên, ta có thể tạm kết luận rằng: Con đường đi từ “nhìn thấy” đến “thấy được” không chỉ là tiến trình của nhận thức; mà còn là hành trình của khai minh nhân tính, phát triển văn hóa; hầu đạt đến giác ngộ là một tiến trình từ cá nhân đến toàn thể. Trong đó, thông qua ba bậc giác ngộ phản ảnh ba cấp độ phát triển của ý thức nhân loại:










Không có nhận xét nào: