Tìm bài viết

Vì Bài viết và hình ảnh quá nhiều,nên Quí Vị và Các Bạn có thể xem phần Lưu trử Blog bên tay phải, chữ màu xanh (giống như mục lục) để tỉm tiêu đề, xong bấm vào đó để xem. Muốn xem bài cũ hơn, xin bấm vào (tháng....) năm... (vì blog Free nên có thể nhiều hình ảnh bị mất, hoặc không load kịp, xin Quí Bạn thông cảm)
Nhìn lên trên, có chữ Suối Nguồn Tươi Trẻ là phần dành cho Thơ, bấm vào đó để sang trang Thơ. Khi mở Youtube nhớ bấm vào ô vuông góc dưới bên phải để mở rộng màn hình xem cho đẹp.
Cám ơn Quí Vị

Nhìn Ra Bốn Phương

Thứ Tư, 5 tháng 6, 2024

TIẾNG CHUÔNG GỌI HỒN - TRƯƠNG CÔNG HẢI


Niềm tin thuộc về phạm trù của bản năng trí tuệ. Bản năng này chỉ có ở con người, bởi vì “con người là một cây sậy biết suy nghĩ.” (Pascal) nên chỉ con người mới có văn hoá, mới có niềm tin. Khi bạn tin theo một điều gì mà tư duy không đi theo hệ thống logic thì niềm tin đó gọi là mê tín. Người thiếu bản lĩnh văn hoá thường hay mê tín,gặp gì có chút khác thường mà không giải thích được thì tự cho là linh thiêng rồi vái lạy cầu xin được ban tài phát lộc. Mê tín là sự mê muội tin theo, họ là Con Nhang của chủ nghĩa đa thần, tàn tích của một thời đại cách đây mấy ngàn năm, khi chưa có ánh sáng giáo lý của Thiên Chúa và ánh Đạo vàng của Phật Pháp.
<!>
Người không mê tín thường gởi niềm tin vào chánh giáo, gọi là đức tin. Họ không cầu xin mà chỉ cầu nguyện.
Cầu xin và cầu nguyện khác nhau cả về mặt bản chất và phẩm chất. Cầu nguyện lúc nào cũng chính đáng và cao đẹp hơn.
Nguyên lý triết học Đông Phương đặt nền tảng trên học thuyết Nhị Nguyên: Âm dương, thực ảo, thiện ác song hành… Mọi sự việc luôn có hai mặt của một vấn đề.
Ta đang sống, đồng thời cũng là đang mơ. Sắc Không, một kiếp trong cõi vô thường.
Tô Đông Pha đã từng nói : “Bạn nghèo ư, hãy ngủ sớm đi một chút (cho lòng thanh thản) và ăn muộn một chút( để ăn ngon miệng )”. Bản thân tôi trong thời bao cấp đói kém thường hay đi ngủ sớm, để mơ thấy được ăn. Đời sống trong giấc mơ tuy ảo nhưng cũng đem lại cho đời những phút giây hạnh phúc, nhiều khi tỉnh lại, thấy tiếc. Trừ khi gặp ác mộng.
Điều này cho thấy chúng ta luôn sống cùng một lúc với hai mặt đối nghịch nhưng song hành, một hiện thực Ta Bà và một An Nhiên mộng tưởng.
Chúng ta chủ động trong cõi Ta Bà, còn Đạo Pháp hướng dẫn chúng ta cách chủ động về mặt tinh thần.
Đạo (way) là lối đi, không phải là tôn giáo (religion). Tôn giáo có Thần, Đạo không có Thần. Người Việt ta có ba lối đi chính của Đạo, đó là ba hệ thống tư tưởng nhân văn từ ba con người có thực, ảnh hưởng sâu đậm trong sinh hoạt đời sống xã hội, đó là Khổng Tử, Chúa Jesus và Đức Phật.


Khổng tử tập hợp và san định Nho giáo vốn có từ lâu đời bên Trung Hoa, lâu dần quen gọi là đạo Khổng.
Thiên Chúa Giáo vào nước ta theo con đường thực dân, phát triển từ đầu triều đại nhà Nguyễn.

Đạo Phật có mặt tại Trung Quốc từ đời Đường, sau khi Đường Tăng thỉnh kinh về từ Tây Tạng qua ngõ Đôn Hoàng.
Nhận thấy Pháp của Phật có nhiều điều phù hợp với Nho giáo nên khi vào Trung Hoa các Đại Tăng truyền giáo đã hội nhập giáo lý của Phật vào Nho nhằm dễ truyền bá rộng rãi vào đại chúng, gọi là nhánh Bắc Tông.
Nhằm tạo thuận lợi cho việc hội nhập, người Trung Hoa chuyển đổi biểu tượng hình tướng Phật theo dáng người Hoa, chuyển đổi giới tính Bồ Tát Quán Thế Âm từ nam sang nữ. Ngay cả ở nước ta cũng có xu hướng Việt Nam hoá Bồ Tát Quan Âm bằng truyền thuyết Thị Mầu.
Từ Trung Quốc, Phật Giáo Bắc Tông truyền qua ba quốc gia, là Việt Nam, Nhật bản và Triều Tiên, hợp thành một nhóm bốn dân tộc có cùng một nền văn hoá gọi là”Đồng văn đồng chủng” (cùng một sắc thái văn hóa và cùng một chủng tộc).
Phật giáo ở ta được truyền bá rộng rãi thông qua Khổng Giáo, nên người Lương theo đạo ông bà, nghiễm nhiên thành người theo Phật. Đạo Phật là chính nên ta Không có đền thờ Khổng Tử, cũng có thể là một ẩn ý tạo tập quán bài xích văn hoá Tàu.
Sau 75, vì sợ bị liệt vào dân nghiện xì ke, do biết Lenin cho tôn giáo là thuốc phiện, nên dân Miền Nam khi khai lý lịch về mục tôn giáo ai cũng né, khai trại ra là đạo Lương, đạo ông bà cho chắc cú.
Chính vì Lương Phật là một, mới sinh ra Thầy tụng niệm đám ma đám cúng. Pháp Phật nguyên thủy làm chi có.


Chúa là Đấng Sáng Tạo, Phật là Đấng Giác Ngộ, Cả hai bậc nầy đều dẫn ta đi đến chân lý làm người, nhưng đường đi thì lại khác nhau.
Các buổi đọc kinh trong nhà thờ, Đức Cha thường hay nói : Ấy là lời Chúa dạy! Đức Cha giáo dục con chiên tin vào Chúa để được đi về Nước Chúa.
Tây Phương tôn thờ Chúa nên dương lịch được tính sau công nguyên tức sau khi Chúa giáng sinh ( AC ).
Mỗi tuần đều có ngày nghỉ để con chiên đi nhà thờ, đọc kinh và cầu nguyện, đó là ngày Chúa Nhật. Phần đông ta theo đạo Phật nên đọc trại là ngày chủ nhật.


Còn Pháp của Đạo Phật thì khác, không giáo dục, mà dùng Pháp như một ngón tay chỉ đường cho chúng sanh tự chuyển hóa, bằng cách tu tâm, tự giải thoát mình ra khỏi tham ái, buông bỏ tất cả để có được một cuộc sống an nhiên, hạnh phúc.
Đạo Phật, mỗi người có thể tự tu và không bắt buộc phải đến Chùa như con chiên đi nhà thờ.
Từ hai cách dẫn dắt khác nhau nên đều có sự khác nhau về thanh âm và ý nghĩa giữa hai tiếng chuông của Giáo Đường và Phật Tự.
Từ trên nóc nhà thờ, tiếng chuông sớm mai thánh thót, rộn ràng, giục giã như là một tín hiệu báo thức, sắp đến giờ Thánh Lễ.
Từ dưới mái hiên chùa, một hồi chuông trầm mặc ngân dài trong sương sớm, tiếng u hoài vang vọng, sâu lắng lòng người.
Âm diệu trầm mặc, sâu thẳm vào hồn, gợi niềm u uẩn, làm cho ta trút hết nỗi lòng, nhẹ nhàng buông bỏ. Ta như được đưa về lại cội nguồn nguyên sơ của bản thể. Một thoáng mơ hồ ta thấy rõ ta, để cơ hồ cảm nhận được chính mình trong vô thức, giữa những bước tỉnh, mê, hư, thực trong cuộc mộng du đời.
Tiếng chuông chùa trầm mặc sâu lắng là tiếng chuông gọi hồn, thức tỉnh lòng người. Còn âm vang thánh thót trên nóc Giáo Đường là tiếng chuông nguyện hồn ai, là lời gọi nguyện cầu trong ngày Thánh Lễ.
Sau năm mươi năm dâu biển một cuộc người, tình cờ tôi gặp lại nàng, người có nét đẹp liêu trai đã ám ảnh tôi một thời trai trẻ, tất nhiên chỉ là một chuyến tình câm, vì tôi biết rõ, cỡ mình không làm chi có cửa.
Nàng đứng trước sân chùa, vẫn dịu hiền như thuở nào trong màu áo Ni Cô.
Một thoáng ngẩn ngơ lòng, cùng với tiếng chuông trầm mặc gọi hồn, tôi dường như đã bỏ quên chính mình, để cảm xúc đi hoang theo một ý tưởng trong đoạn kết của bài “Thơ Phai Hồn Ma Nữ.”

“ Ni cô hỡi!
Em đi mô mà vội
Nán lại đây
Chờ nghe lời kinh anh sám hối
Vì đã có lần anh lỡ gọi
Em là người Ma Nữ của hồn thơ Trầm hương thoang thoảng
Theo làn gió
Hồi chuông trầm mặc lặng từ lâu
Có một mảnh hồn tâm còn vọng động
Trong bể trầm luân
Chưa tỉnh cuộc mê sầu
Thân Vô Sở Trụ
Em duyên về nơi Mô Phật
Chút phận đời tàn
Anh đi tìm Phật nơi mô?”

TRƯƠNG CÔNG HẢI
6/2024.

Không có nhận xét nào: