Tìm bài viết

Vì Bài viết và hình ảnh quá nhiều,nên Quí Vị và Các Bạn có thể xem phần Lưu trử Blog bên tay phải, chữ màu xanh (giống như mục lục) để tỉm tiêu đề, xong bấm vào đó để xem. Muốn xem bài cũ hơn, xin bấm vào (tháng....) năm... (vì blog Free nên có thể nhiều hình ảnh bị mất, hoặc không load kịp, xin Quí Bạn thông cảm)
Nhìn lên trên, có chữ Suối Nguồn Tươi Trẻ là phần dành cho Thơ, bấm vào đó để sang trang Thơ. Khi mở Youtube nhớ bấm vào ô vuông góc dưới bên phải để mở rộng màn hình xem cho đẹp.
Cám ơn Quí Vị

Nhìn Ra Bốn Phương

Thứ Hai, 17 tháng 6, 2024

Buổi nói chuyện của chương trình Từ Cánh Đồng Mây với TIẾN SĨ ĐINH KIM PHÚC


Chính trị hôm qua là lịch sử hôm nay
Chính trị hôm nay là lịch sử ngày mai
"Thất trảm sớ" và nhân cách của một con người
Đinh Kim Phúc
Chu Văn An (1292–1370), tên thật là Chu An, hiệu là Tiều Ẩn, tên chữ là Linh Triệt. Quê ông ở làng Văn Thôn xã Quang Liệt huyện Thanh Đàm (nay thuộc phường Hoàng Liệt quận Hoàng Mai, Hà Nội). Là người chính trực, đã từng đỗ Thái học sinh (danh hiệu tiến sĩ đời Trần) nhưng không ra làm quan mà mở trường dạy học ở làng Huỳnh Cung, bên kia sông Tô Lịch. Học trò nhiều nơi tìm đến theo học rất đông. Trong số môn đệ ông có nhiều người thành đạt, thi đỗ ra làm quan to trong triều như Phạm Sư Mạnh, Lê Quát khi về thăm thầy vẫn giữ lễ, được thầy nói chuyện ít lời thì rất lấy làm mừng. 
<!>
Có những học trò cũ không tốt, ông thẳng thắn quở trách, thậm chí quát mắng không cho gặp. Tính nghiêm nghị, tư cách thanh cao và học vấn sâu rộng làm cho tiếng tăm ông ngày càng lan xa. Đức độ và uy tín của ông như vậy, khiến cho học trò đến theo học càng nhiều.

Vua Trần Minh Tông (1314–1329) vời ông ra làmTư nghiệp Quốc tử giám, dạy cho Thái tử Trần Vượng (sau là vua Trần Hiển Tông).

Sống trong hoàng cung và được làm bạn với quan Tư đồ Trần Nguyên Đán, ông đã cùng với Mạc Đĩnh Chi, Phạm Sư Mạnh, Nguyễn Trung Ngạn tham gia vào công việc củng cố triều đình lúc đó đang đi dần vào con đường khủng hoảng, suy thoái.Và, nhìn lên từ đời Anh Tông, Minh Tông thấy trong triều đã nảy sinh những cận thần hèn kém, chuyên nghĩ cách làm thỏa mãn những thị hiếu của vua, còn những người thẳng thắng can ngăn thì bị cách chức (Anh Tông cách chức Phạm Mai, Minh Tông cách chức Nguyễn Trung Ngạn...) khiến ông ngao ngán.

Ban đầu, Dụ Tông còn ít tuổi, quyền bính đều do Thượng hoàng Minh Tông điều khiển. Bởi thế, dù có mất mùa dân đói nhưng việc chính trị vẫn còn nền nếp. Từ năm 1358 trở đi, Thượng hoàng mất, các cựu thần như Trương Hán Siêu, Nguyễn Trung Ngạn cũng không còn, triều đình bắt đầu rối loạn.

Trần Dụ Tông chẳng những bỏ bê triều chính mà còn ra lệnh cho xây cung điện, tạo sưu cao, thuế nặng làm cho nhân dân vô cùng khổ sở và ca thán. Trong nước, giặc giã nổi lên khắp nơi. Trong khi đó tại triều đình, các bọn gian thần kéo bè kết đảng và trở nên lộng hành vô cùng. Các quan ngự sử vốn chuyên lo việc can ngăn vua nhưng cũng không làm theo. Vua Champa là Chế Bồng Nga mấy lần đem quân đánh phá kinh thành Thăng Long khiến triều Trần nhiều phen khốn đốn.

Vốn là người chính trực, có uy tín cao trong triều, sau nhiều lần can ngăn Dụ Tông không được, Chu Văn An đã soạn Thất trảm sớ và dâng lên Dụ Tông để đề nghị chém 7 người mà ông cho là gian thần. Đó là Thất trảm sớ nổi tiếng trong lịch sử.

Hiện Thất trảm sớ bị thất truyền nên chúng ta không rõ nội dung của nó thế nào, ngay đương thời cũng không ai được biết ông đã xin chém những ai, chỉ biết thời Dụ Tông có những tên gian thần nổi tiếng như Trâu Canh, Bùi Khoan, Trần Ngô Lang... Thế nhưng vua chỉ xem qua và im lặng.

Do Thất trảm sớ không được thực hiện, Chu Văn An đã “treo mũ ở cửa Huyền Vũ”, lui về ở ẩn tại tại núi Phương Sơn thuộc làng Kiệt Đắc, huyện Chí Linh (Hải Dương).

Theo ông, là người làm quan phải mạnh dạn nói lên sự thật, cốt sao cho nhân dân được no ấm, thiên hạ thái bình, triều đình vững mạnh. Hãy đem hết lòng trung nghĩa để phụng sự nhân dân. Cái quan trọng của người làm quan không phải là chức tước mà là ở phẩm cách. Giữ một chức quan nhỏ mà có ích cho đời thì đáng quý còn hơn chức tước cao trọng mà không làm gì có lợi được cho dân, cho nước thì chức tước ấy có nghĩa lý gì.

Về Chí Linh, ngoài việc dạy học, Chu Văn An còn viết sách, làm thơ. Ông viết “Tứ thư thuyết ước” tổng kết bài giảng cùng phương pháp dạy học. Về thơ có “Quốc âm thi tập”, “Tiều ẩn thi tập”, “Tiều ẩn quốc ngữ thi tập”. Thời gian ông ở Chí Linh xảy ra việc Dương Nhật Lễ giữ ngôi nhà Trần. Nhưng ít lâu sau, dưới sự chỉ huy của Trần Phủ và chị gái là công chúa Thiên Ninh, lại được sự ủng hộ của Trần Nguyên Đán, Trần Ngạc… đã lấy lại được ngôi vua. Trần Phủ lên ngôi tức Trần Nghệ Tông, lúc này Chu Văn An đã gần 70 tuổi, ông vẫn chống gậy về Thăng Long để bày tỏ tấc lòng của mình với đất nước, bởi hơn ai hết, Chu Văn An kỳ vọng vị vua này có thể thay đổi thời cuộc, cứu vãn cơ đồ nhà Trần. Thế mới biết tấm lòng yêu nước sâu nặng của ông như ngó sen đã đứt mà tơ còn vương vậy. Một năm sau, ngày 28 tháng 11 năm Canh Tuất (năm 1370) ông mất tại làng Kiệt Đắc (nay là xã Văn An, Chí Linh, Hải Dương), thọ 78 tuổi.

Trân trọng tài năng, nhân cách và sự cống hiến của ông, vua Nghệ Tông đã ban tên thuỵ là Văn Trinh, cho người mang lễ vật đến viếng và cho thờ ông ở Văn Miếu.

Ngô Thế Vinh, nhà văn học nổi tiếng thế kỷ 19 trong bài văn bia ở đền Phương Sơn đã thích nghĩa hai chữ “Văn Trinh” như sau: (Văn, đức chi biểu dã; Trinh, đức chỉ chính cổ dã. Văn là sự bên ngoài (thuần nhất )của đức; Trinh là tính chính trực, kiên địch của đức). Tên thụy như vậy nhằm biểu dương một người đã kết hợp được hai mặt của đạo đức: bên ngoài thuần nhã, hiền hòa với bên trong chính trực, kiên định. Trong lịch sử giáo dục nước nhà, ông cũng đã giành được địa vị cao quí bậc nhất, xứng đáng đứng đầu các nhà giáo từ xưa tới nay. Ông đã vượt qua ngưỡng cửa: làm thầy giáo giỏi của một đời để đạt tới làm thầy giáo giỏi của muôn đời như Phan Huy Chú đã ngợi ca ông: “học nghiệp thuần túy, tiết tháo cao thượng, làng Nho nước Việt trước sau chỉ có mình ông, các ông khác không thể so sánh được”.

Thay lời kết:
Trần Dụ Tông đã im lặng trước “Thất trảm sớ”. Có lẽ sự im lặng khủng khiếp đó đã một phần nào đẩy nhà Trần, một triều đại lừng lẫy chiến công trong lịch sử nhanh chóng suy thoái mà không thể nào cứu vãn được./.

Đinh Kim Phúc
****************************************************
LỊCH SỬ
TRUNG QUỐC VỚI BIỂN ĐÔNG
"Láng giềng hữu nghị" hay "Chủ quyền thuộc ngả"
Đinh Kim Phúc

Trong bối cảnh quốc tế và ý đồ của nhà nước Trung Quốc, vấn đề chủ quyền trên biển Đông hiện nay của Việt Nam đang gặp nhiều bất lợi nếu không tìm giải pháp hữu hiệu để đối phó. Không nước nào có thể khai thác tài nguyên ở thềm lục địa Trường Sa nếu chủ quyền các đảo tại đây chưa được xác định và được nhìn nhận bởi các bên liên quan. Vấn đề “gác tranh chấp, cùng khai thác” đã được phía Trung Quốc đưa ra, nhưng sẽ rất khó thực hiện mỗi khi Trung Quốc khăng khăng yêu sách chủ quyền trên biển Đông theo “chiếc lưỡi bò”. Vả lại, nếu thực hiện thì phía chịu nhiều thiệt thòi vẫn là Việt Nam. Việc tranh chấp, đôi co có thể kéo dài thêm nhiều thập niên, vẫn giữ “nguyên trạng”, nếu các bên tranh chấp vẫn tôn trọng Qui tắc ứng xử biển Đông (DOC) đã được các nước ASEAN ký với Trung Quốc năm 2002. Với thời gian, chỉ cần một, hai thập niên nữa, sự lớn mạnh về kinh tế và quân sự (hải-không quân) của Trung Quốc không những chỉ dễ dàng thâu tóm biển Đông mà còn đặt được ảnh hưởng của mình đến các nước trong khu vực là một nguy cơ, đe dọa đến hòa bình, an ninh và ổn định của khu vực và thế giới.

Vì thế cần có một giải pháp ngăn ngừa khả năng xấu nhất xảy ra. Việt Nam cần làm như thế nào, trước tình trạng căng thẳng hiện nay, để có thể khai thác, ít ra một phần, ở những vùng biển thuộc khu vực kinh tế đặc quyền của nước mình? Giải pháp nào có lợi nhất cho Việt Nam trong việc bảo vệ chủ quyền các đảo và hải phận biển Đông?
Theo các chuyên gia về luật pháp quốc tế và quan hệ quốc tế ở Đông Nam Á, các yếu tố xét ra có lợi cho Việt Nam, đó là:

1 Việt Nam tôn trọng các công ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết.

2 Vận động quốc tế ủng hộ lập trường về biển và thái độ hiếu hòa của Việt Nam trong những cuộc tranh chấp về vấn đề chủ quyền và khai thác dầu khí trên biển Đông.

3 Trong trung hạn là hợp tác khai thác vùng biển và thềm lục địa của VN đã được quốc tế công nhận (hay không phản đối) với các nước.

4 Về dài hạn là củng cố quốc phòng, liên minh chiến lược, diễn tập chiến thuật chung với các nước trong khu vực và quốc tế có cùng chung quyền lợi để đối trọng với Trung Quốc.

5 Tiến đến việc đưa vấn đề chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa ra tòa án quốc tế để ngăn ngừa trường hợp Trung Quốc sử dụng vũ lực để giải quyết tranh chấp.

6 Gìn giữ quan hệ Việt-Trung hòa bình, hữu nghị, ổn định, bình đẳng và hợp tác để cùng phát triển lâu dài theo đúng nghĩa mà lãnh đạo Trung Quốc đã cam kết. Yêu cầu phía Trung Quốc chấm dứt mọi hành động đe dọa, khiêu khích và bắt giữ ngư dân Việt Nam, không có hành động gây phức tạp và căng thẳng thêm tình hình hiện nay.
Trong vấn đề biển Đông chúng ta cần phải phân biệt các mối quan hệ tranh chấp sau đây:
- Thứ nhất, tranh chấp chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa là tranh chấp giữa Việt Nam và Trung Quốc (hiện nay Trung Quốc đang chiếm đóng trái phép toàn bộ quần đảo này bằng cuộc chiến tranh xâm lược vào tháng 1 năm 1974).
- Thứ hai, tranh chấp chủ quyền trên quần đảo Trường Sa là tranh chấp đa phương: giữa Việt Nam với Trung Quốc, Đài Loan, Philippines, Malaysia, Brunei (chỉ có duy nhất Brunei lên tiếng về chủ quyền nhưng không có chiếm đóng).
- Thứ ba, việc tuyên bố đường lãnh hải lưỡi bò của Trung Quốc ở biển Đông (chiếm 80% diện tích trên biển Đông) là một yêu sách vô lý, bất chấp luật pháp quốc tế, hòng độc chiếm biển Đông

Do đó để giải quyết vấn đề biển Đông chúng ta cần phải xác định nội dung và lộ trình cho các biện pháp đấu tranh theo thứ tự ưu tiên sau đây:Đầu tiên cần phải đấu tranh về mặt luật pháp quốc tế để bác bỏ chủ trương lãnh hải theo đường lưỡi bò của Trung Quốc là bất hợp pháp.

Ngoài việc Việt Nam đã cung cấp hồ sơ về lãnh hải của Việt Nam cho Ủy ban Ranh giới thềm lục địa của Liên Hiệp Quốc (CLCS) đúng thời hạn, bên cạnh đó chúng ta cần tổ chức nhiều cuộc hội thảo quốc tế vận động các nước Philippines, Malaysia, Indonesia, Brunei cùng thống nhất quan điểm công bằng và hợp lý về việc phân định lãnh hải.

Về mặt địa lý lẫn luật pháp quốc tế, Trung Quốc không có lý do gì để kéo dài thềm lục địa của họ ra đến đây. Các đảo họ chiếm của Việt Nam thì đang trong vòng tranh chấp, vả lại, các đảo này không thể có vùng kinh tế độc quyền hay thềm lục địa. Việt Nam cần phải liên minh chặt chẽ với các nước trong khu vực để phản đối, gây sức ép bằng cách đặt vấn đề tranh chấp nầy trong các cuộc đàm phán trong quan hệ song phương lẫn diễn đàn đa phương, tạo tiền đề cho việc đưa vấn đề ra tòa án quốc tế.
Các quan chức cao cấp của Hoa Kỳ đã nhiều lần phát biểu về quan điểm của chính phủ Hoa Kỳ trong vấn đề biển Đông là không can dự nhưng luôn luôn nhấn mạnh đến việc tuân thủ Luật Biển quốc tế 1982. Quan điểm quan trọng nhất của Hoa Kỳ trong vấn đề biển Đông là cam kết của nguyên Tổng thống Hoa Kỳ G.Bush về sự toàn vẹn và thống nhất lãnh thổ của Việt Nam. Cũng như trước đây khi phát biểu về quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc liên quan đến Hoàng Sa và Trường Sa, Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam, Micheal Michalak nói: “Về vấn đề ở Biển Đông, Hoa Kỳ không có lập trường nào về những vụ tranh chấp lãnh thổ trong vùng biển này. Chúng tôi tin tưởng vào quyền tự do hàng hải và sự khai phóng của các thủy lộ, và chúng tôi hành xử quyền tự do hàng hải của mình qua việc đưa tàu bè đi qua các thủy lộ này. Chúng tôi đã gặp phải sự can thiệp trái phép của tàu bè Trung Quốc đối với tàu Impeccable.Tôi nghĩ rằng chúng tôi đã có phản ứng thận trọng và thỏa đáng trong vụ này. Chúng tôi cũng đã áp dụng thêm những biện pháp để bảo đảm quyền tự do hàng hải và kiên quyết thể hiện quyền này".
Mới đây, trong cuộc tiếp xúc với báo chí tại Malaysia(4), Đô đốc Robert F. Willard, tư lệnh Bộ chỉ huy Thái Bình Dương của Hoa Kỳ đã nói: “Trong năm 2010, toàn bộ khu vực đã trở nên quan ngại về khả năng các vụ đụng độ ở Biển Đông”, “Vâng, tôi thấy lo lắng bất cứ khi nào chứng kiến căng thẳng gia tăng và va chạm diễn ra ở khu vực rất chiến lược và rất quan trọng với tất cả chúng ta”.

Tư lệnh Mỹ Robert F. Willard tiếp tục tuyên bố: “Hoa Kỳ không đứng về phía nào trong một cuộc tranh chấp. Đó là cam kết mạnh mẽ để thấy rằng các bên tranh chấp giải quyết vấn đề hòa bình và thông qua hội đàm, không đối đầu trên biển hay trên không”.

Khái niệm “tự do hàng hải”mà nhiều lần Hoa Kỳ đề cập đến cũng chính là Luật Biển Quốc tế 1982. Đây là lợi thế của Việt Nam trong việc đấu tranh khẳng định chủ quyền của mình trên biển Đông.

Hy vọng rằng đây là một tín hiệu tốt cho tương lai khu vực Đông Nam Á và sẽ được phía Trung Quốc thể hiện bằng hành động cụ thể.

TRẬN CHIẾN HOÀNG SA 1974


49 năm đã trôi qua, những người lính có mặt trong trận hải chiến Hoàng Sa 1974 giờ cũng đều bước qua mùa xuân 70 của cuộc đời, nhưng với họ, mùa xuân tủi hận 1974 vẫn luôn in dấu trong lòng bởi lẽ không chỉ mất chủ quyền đảo thiêng Hoàng Sa mà họ còn bị cầm tù cách quê nhà hàng ngàn cây số.

KHIẾU NẠI VỀ LÃNH THỔ


Các tranh chấp ở Biển Đông liên quan đến cả các yêu sách về đảo và biển giữa một số quốc gia có chủ quyền trong khu vực. Các xung đột được kích hoạt bởi lợi ích về trữ lượng nguyên liệu thô, ngư trường phong phú và quyền bá chủ ở Biển Đông.

Trung Quốc, Việt Nam, Philippines, Đài Loan, Malaysia và Brunei đều có lợi ích riêng và yêu sách các khu vực vượt xa Vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) 200 hải lý.

Theo Điều 55 của Công ước Liên hợp quốc về Luật biển (UNCLOS), vùng đặc quyền kinh tế được định nghĩa là vùng biển nằm ngoài lãnh hải. Trong vùng EEZ, quốc gia ven biển có thể thực thi các quyền chủ quyền và quyền chủ quyền ở một mức độ hạn chế

Một chi tiết thú vị là Trung Quốc đã ký và phê chuẩn Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển, trong khi Mỹ đã ký nhưng chưa bao giờ phê chuẩn.
Dù sao đi nữa, Trung Quốc ít nhiều tuyên bố quyền kiểm soát gần như toàn bộ Biển Đông. Họ cố gắng củng cố các yêu sách của mình bằng 'quyền lịch sử', xây dựng đảo nhân tạo và mở rộng quân sự. “Đường chín đoạn” (lưỡi rồng; xem bản đồ) bao trùm toàn bộ của nó, dài hơn 2.000 km (1.300 dặm) sâu vào Biển Đông, bất kể vùng biển quốc tế trung lập hay vùng đặc quyền kinh tế của các quốc gia khác .

Vào tháng 7 năm 2016, tòa án quốc tế ở The Hague đã bác bỏ yêu sách của Trung Quốc ở Biển Đông và phán quyết rằng Trung Quốc “không có quyền lịch sử” dựa trên bản đồ “đường chín đoạn”. Tòa án cũng phán quyết rằng Trung Quốc, thông qua việc xây dựng các công trình và đảo nhân tạo tại Đá Vành Khăn (Quần đảo Trường Sa) mà không có sự cho phép của Philippines, đã vi phạm Điều 60 và 80 của công ước quốc tế.

 

Tôi Có Một Tổ Quốc

THƠ

ĐỨC HỒNG Y NGUYỄN VĂN THUẬN

(1928-2002)

https://www.youtube.com/watch?v=nVjaZFngwr0

 

https://www.youtube.com/watch?v=3H1Q2fthw3o

(KARAOKE)

 

NHẠC

PHAN ĐÌNH MINH

Không có nhận xét nào: