Cờ bay!
Cờ bay oai hùng trên thành phố thân yêu
Vừa chiếm lại đêm qua bằng… máu�
Vào cuối tháng 9/1972, thời tiết luôn thay đổi, mây xám bao phủ đầy trời, tầm quan sát từ trên cao bị hạn chế. Mưa nhiều nên di chuyển và tiến quân khó khăn. Địch thường xuyên sử dụng pháo binh tầm xa (130 ly, 122 ly nòng dài) bắn vào các vị trí đóng quân của Dù.Từ căn cứ Barbara, đài quan sát của Tiểu Đoàn 8 Nhảy Dù cho biết ban đêm các đoàn xe địch di chuyển ở sườn Tây khá nhiều; đèn xe chiếu sáng một đoạn dài.
<!>
Giữa tháng 10/1972, Lữ Đoàn 2 Nhảy Dù được lệnh tái chiếm căn cứ Ann ở phía Tây tỉnh Quảng Trị 12 cây số đường chim bay (căn cứ Ann trong bản đồ gọi là vùng Động Ông Đô).
Nỗ lực chính là Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù của Thiếu Tá Trần Đăng Khôi, cánh trái có Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù của Trung Tá Nguyễn Chí Hiếu – Khoá 14 Đà Lạt, (sau đó Thiếu Tá Bùi Quyền lên thay); đoàn quân trực chỉ về căn cứ Ann.
Hai Tiểu Đoàn của Thiếu Tá Mễ và Thiếu Tá Đồng trấn giữ mặt Bắc không cho địch xuống tiếp viện; đồng thời có nhiệm vụ bảo vệ sườn phải cho Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù.
Thời tiết lúc nầy mưa giông gió lốc liên miên, nước sông dâng lên do nguồn cao từ núi đổ xuống. Việc tiếp tế và tản thương rất khó khăn; trực thăng phải bay rà thấp ngọn cây mỗi khi vào vùng các Tiểu Đoàn. Khu vực động Ông Đô (căn cứ Ann) là vùng đồi núi trọc, chỉ có cỏ và rất ít bụi cây. Đứng trên đỉnh căn cứ có thể nhìn thấy Ái Tử (ở phía Nam Đông Hà và phía Bắc cầu Thạch Hãn). Tại đây cùng có thể quan sát vùng Nam Cam Lộ và Hưng Hoá. Trên căn cứ có một Pháo Đội 155 ly, trước do quân Mỹ đóng căn cứ hoả lực nầy, sau bàn giao lại cho quân đội Việt Nam Cộng Hoà trấn giữ.
TÁI CHIẾM CỔ THÀNH
Trên đường tiến quân, khi vừa vượt qua Ngã Ba Long Hưng, phía Đông Quốc lộ 1, Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù đã chạm địch nhiều lần, đa số là các đơn vị pháo binh và phòng không của địch.
Theo phóng viên Chad Huntley của UPI, các vị Tư Lệnh chiến trường đã đưa ra 3 kế hoạch khác nhau để tái chiếm Cổ Thành Đinh Công Tráng. Kế hoạch thứ nhất là các lực lượng Dù và Thủy Quân Lục Chiến sẽ tấn công chính diện. Kế hoạch thứ hai là cho Không Quân san bằng Cổ Thành ra bình địa. Kế hoạch chót là bao vây để địch đói khát sẽ đầu hàng.
Cuối cùng, để khỏi bị trì hoãn đợi ăn pháo địch, kế hoạch thứ nhất được thi hành, đôi bên sẽ đối mặt phân tài cao thấp và thử gan anh hùng. Dưới con mắt của hàng chục phóng viên chiến trường từ khắp nơi trên thế giới, rồi đây hàng triệu người khác sẽ biết tới trận thử lửa để đánh giá khả năng và tinh thần chiến đấu của chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà.
Theo sử liệu, Cổ Thành được xây lên từ thời vua Gia Long nhà Nguyễn. Thành xây bằng đất, chung quanh có hào sâu. Tới triều vua Minh Mạng năm 1838, thành được phá đi và xây lại bằng gạch dầy và cao 5 thước. Người ta ước lượng có chừng một Trung Đoàn địch với vũ khí, đạn dược, và lương thực đầy đủ đang trú ẩn kỹ trong những lô cốt kiên cố chung quanh tường thành và các công sự chắc chắn bên trong Cổ Thành.
Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù được vinh dự nhận trách nhiệm tiến chiếm Cổ Thành Đinh công Tráng, Trung Tá Tiểu Đoàn Trưởng Nguyễn Chí Hiếu – Khoá 14 Đà Lạt, và Thiếu Tá Tiểu Đoàn Phó Bùi Quyền – Khó 16 Đà Lạt, là hai sĩ quan giàu kinh nghiệm chiến trường từ trận Mậu Thân 68, Kampuchia 69, Hạ Lào 71, đến trận nổi tiếng An Lộc, Bình Long năm 1972. Bây giờ trên chiến trường sôi động Trị Thiên nầy, hai anh đang hướng dẫn Tiểu Đoàn thiện chiến Nhảy Dù trên đường tiến chiếm Cổ Thành.
Địch quân phục sẵn để chào đón những chiến sĩ Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù, mặc dầu phi pháo yểm trợ tối đa, nhưng vừa đánh vào là dội ra ngay, quân ta bị cắt ra làm ba, mỗi Đại Đội phải chiến đấu riêng rẽ. Các binh sĩ Dù vừa đánh vừa đào hầm trú ẩn, đôi khi phải gọi pháo bắn ngay trên đầu mình vì địch và ta đang cài răng lược, nhưng cộng quân bị thiệt hại nhiều vì quân số đông hơn và không có hầm trú ẩn cấp thời như quân ta.
Với sự yểm trợ hữu hiệu của phi pháo, Đại Đội 51 của Trương Đăng Sĩ – Khoá 21 Đà Lạt, cùng Đại Đội 52 của Hồ Tường – Khoá 26 Thủ Đức, Đại Đội 53 của Lê Hữu Chí – Khoá 20 Đà Lạt, và Đại Đội 54 của Nguyễn Tiến Việt – Khoá 23 Đà Lạt, đã đập tan các chốt địch, tiến thẳng lên Tri Bưu, Đông Bắc Cổ Thành Quảng Trị. Các Đại Đội tịch thu được nhiều vũ khí nặng, khoảng 10 đại bác 130 ly và 122 ly.
Đối diện với Cổ Thành, các Đại Đội Trưởng của Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù cảm thấy khựng người. Một mục tiêu vô cùng kiên cố, chung quanh có hào sâu chừng gần 10 thước. Cổ Thành nguyên là doanh trại của Tiểu Khu Quảng Trị, tháng 4/72 vừa qua, Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 3 Bộ Binh từ căn cứ Ái Tử đã dời về đây. Tướng Vũ Văn Giai, Tư Lệnh Sư Đoàn 3, đã cho tu bổ và xây dựng thêm nhiều hệ thống phòng thủ kiên cố mới. Khi lọt vào tay địch, nơi đây trở thành một khối đá to được bao bọc bởi những hoả tập cận phòng bằng 130 ly và 122 ly từ bên kia sông Thạch Hãn và bằng những súng đại bác 57 ly, 75 ly, B40, và thượng liên đặt trên bờ thành do những xạ thủ đã bị xích chân vào súngs sử dụng.
Sau hơn 2 tuần đối trận, Tiểu Đoàn 5 hao khoảng 100 người vừa chết và bị thương, cuối cùng Tiểu Đoàn quyết định chọn toán cảm tử để dựng cờ làm khí thế cho cuộc chiến đấu cam go nầy.
Nhiều người tình nguyện, nhưng 8 chiến sĩ được chọn, họ là những chiến sĩ trước đây đã ở trong Lực Lượng Đặc Biệt, từng nhảy toán vào lòng địch. Trung Tá Hiếu quyết định làm một việc ngoài quyền hạn của mình, anh đã thăng cho mỗi người hai cấp để 8 chiến sĩ hiểu rằng, mọi người đều kính trọng các anh, những tráng sĩ Kinh Kha thời nay.
Buổi chiều ngày 24/7/1972, sau khi chiếc oanh tạc cơ cuối cùng rời vùng, hoàng hôn cũng vừa phủ xuống trên Cổ Thành. Tiếng súng thưa thớt rồi im hẳn làm cho chiến trường bỗng nhiên chìm trong khung cảnh tĩnh mịch. Nhưng chính trong những giây phút người lính tưởng sẽ được nghỉ ngơi giây lát sau một ngày dài đột pháo nhích lên từng tấc đất, thì thật ra đây là khoảng thời gian nguy hiểm nhất, vì địch thường lợi dụng đêm tối mò vào đánh đặc công. Bởi vậy khi màn đêm phủ xuống, đó là thời gian “Thân ai nấy lo, hồn ai nấy giữ”.
Nhưng buổi tối hôm nay, 8 chiến sĩ Dù trong toán “Quyết tử” đang chuẩn bị vượt qua đoạn đường cam go nhất trong đời, đoạn đường từ điểm xuất phát đến chân bờ thành, một đoạn đường mà hơn 2 tuần nay, ngày nào các chiến sĩ Dù cũng đổ máu để thâu ngắn từng tấc đất, nhưng mà bờ tường của ngôi thành cổ kia vẫn còn sừng sững như ngạo nghễ như thách đố!
Cái khoảng trống 300 thước đó là vòng đai của tử thần. Một màn lưới hoả lực dày đặc bao phủ vòng đai nầy, giả thử nếu một con bò sút chuồng chạy vào thành, lập tức nó sẽ bị hàng chục viên đạn ghim vào mình trước khi đến dưới bờ thành. Lại thêm những toán đặc công hoặc tiền đồn địch “Độn thổ” bên ngoài để kịp thời phát hiện những toán xâm nhập.
Khi được giao phó nhiệm vụ tái chiếm Quảng Trị, các lực lượng ta đã chuẩn bị sẵn những lá cờ để dựng lên Cổ Thành, và đêm nay, toán cảm tử của ta sẽ thực hiện công tác thiêng liêng đó. Tại điểm xuất phát, 8 chiến sĩ Dù đều sẵn sàng. Hạ Sĩ Trần Tâm làm trưởng toán, Hạ Sĩ Hồ Khang được chỉ định giữ lá cờ để sẵn sàng cắm lên trên Cổ Thành.
Khoảng 4 giờ sáng, trong bóng đêm, tám dũng sĩ lặng lẽ khởi hành; sau lưng họ, cấp chỉ huy, bạn đồng đội dõi mắt nhìn theo, gửi gắm nơi họ những lời chúc bình an, những niềm tin và niềm hy vọng. Họ ra đi như Kinh Kha sang Tần ngày xưa, sông Dịch Thủy tuy rộng nhưng vẫn dễ qua hơn 10 thước hào sâu trước mặt. Chín bậc thềm rồng của vua Tần thủy Hoàng tuy cao nhưng dễ lên hơn 5 thước tường thành cổ nầy.
Tám người mất hút trong bóng đêm rất nhanh. Những người ở lại theo dõi trông chờ, họ cầu mong đêm nay vẫn liên tục yên tĩnh. Thời gian như ngừng lại, không có tiếng người, không có hoả châu, không có tiếng súng, chỉ có tiếng côn trùng vọng lên giống như đêm nay là đêm thanh bình của những ngày chưa xảy ra cuộc xâm lấn của quân Bắc phương.
Trong bóng đêm dày đặc, các đồng đội đang gườm súng ứng chiến sẵn sàng, họ đếm từng phút và lắng tai nghe từng tiếng động. Chưa có tiếng súng nổ nghĩa là toán cảm tử vẫn chưa bị lộ. Nhưng nếu hỏi giờ nầy họ tiến tới đâu thì không ai có thể trả lời. Có thể 100 thước, 200 thước, đang vượt hào sâu, đang đứng dưới chân thành, cũng có thể đã bị bắt sống một cách nhẹ nhàng để chờ toán khác tiếp tục tiến vào?
Mọi người chỉ biết chờ đợi, đoán mò. Bỗng ngay hướng họ vừa đi, trên mặt thành, một bóng đen đột nhiên nhô lên giữa bầu trời mờ sáng, bay phất phới theo chiều gió: Lá cờ!
Cùng lúc đó, trong sự tĩnh mịch của chiến địa, những tiếng hô dõng dạc vang lên: “Nhảy Dù cố gắng, Nhảy Dù chiến thắng, Việt Nam Cộng Hoà muôn năm!”
Tiếng hô lồng lộng trong đêm khuya vang dội cả Cổ Thành. Lúc ấy trời sắp sáng, Trương Đăng Sĩ và Hồ Tường dẫn quân vượt qua hào sâu, tiến theo chỗ 8 dũng sĩ đã chiếm góc thành làm đầu cầu. Bỗng một loạt đại bác 57 ly trực xạ vào nơi dựng cờ, cả chục cây thượng liên cùng châu mũi vào nhả đạn như mưa. Ánh sáng của màn lửa đạn làm nổi lên một lá cờ vàng ba sọc đỏ đang cắm trên mặt thành, mới vừa tung bay trước gió nay đã rơi xuống phủ trên mình Hạ Sĩ Hồ Khang, người chiến sĩ cắm cờ trên bờ thành đã vĩnh viễn ra đi, bỏ lại vợ và 3 con còn thơ dại!
Trương Đăng Sĩ và Hồ Tường là 2 Đại Đội Trưởng trẻ tuổi, gan dạ, đã lập nhiều chiến công oanh liệt tại Hạ Lào và An Lộc. Hai anh chỉ huy anh em Đại Đội, lợi dụng toán Quyết Tử chiếm được đầu cầu ở bờ thành, vượt qua “Vòng đai tử thần”, vượt qua hào sâu dưới chân thành với sự yểm trợ tối đa của Pháo Binh và Không Quân. Khi những khinh binh đi đầu đã dựng trở lại ngọn cờ thì một tai nạn thảm khốc xảy ra: hai phi tuần khu trục của ta, không biết vì một sự lầm lẫn nào, đã chúi xuống trút bom ngay trên đầu 2 Đại Đội, Trương Đăng Sĩ la lên thất thanh trong máy truyền tin, bom nổ, cả 2 Đại Đội tan nát: gần 40 bị thương, 4 hy sinh trong đó có Hồ Sĩ Thơ và Trung Sĩ Hồ Con,… là những chiến sĩ kiên cường! Bây giờ ở Úc Châu, với thân hình đầy thương tích, mỗi lần nhớ lại cơn ác mộng nầy, Sĩ cảm thấy ngậm ngùi thương cho số phận người chiến binh Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, binh chủng Nhảy Dù, và Đại Đội 51 của anh.
Ngày 27/7/72, lực lượng Dù được lệnh bàn giao Cổ Thành lại cho Thủy Quân Lục Chiến, sự thay đổi nhiệm vụ đột ngột nầy có một số người thắc mắc, nhưng lệnh hành quân là nhiệm vụ chung của tất cả, danh dự cũng là danh dự chung của quân nhân Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà.
Ngày nào cũng có tù binh giải giao về Ban 2 Lữ Đoàn, tù binh đa số là Trung Đoàn 141 và 165 thuộc Sư Đoàn 324 cộng sản bắc việt.
Hai Đại Đội của Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù do Thiếu Tá Nguyễn Lô – Khoá 18 Đà Lạt, trên đường tiến quân gặp nhiều trở ngại hơn, vì quân số bộ binh địch tập trung dài từ bờ Bắc sông Nhung tới đồi 24, nhiều nhất là ở dưới chân núi căn cứ Ann. Cộng quân có pháo binh và chiến xa yểm trợ; vì là vùng đồi trọc nên công binh địch đã lập các con đường dọc ngang, để vận chuyển tiếp liệu và đồng thời dễ dàng điều động chiến xa. Bộ Binh địch thường đào hầm khoét sâu vào các đồi núi để tránh bom đạn của Không Quân và Pháo binh của la. Thời tiết mưa gió triền miên đã ảnh hưởng đến sự yểm trợ của Không Quân và tiếp tế tản thương của các Tiểu Đoàn; những trở ngại thiên nhiên cũng làm chậm bước tiến quân của Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù.
Cuối tháng 10/72, Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù cũng tiến được tới sát căn cứ Ann; và sau các cuộc đụng độ đẫm máu, Tiểu Đoàn đã chiếm được đồi yên ngựa, đồi 24 ở phía Đông, và các đồi ở mặt Nam căn cứ Ann. Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù đã tiêu diệt được một số chiến xa ở chân đồi. Ba Đại Đội đi đầu, mỗi Đại Đội được cung cấp một toán tiền sát viên pháo binh để sử dụng hoả lực tiêu diệt các chiến xa, các vị trí phòng không, và vị trí súng cối, súng cộng đồng của địch.
Hai Pháo Đội 105 ly của Tiểu Đoàn 1 Pháo Binh Dù đã yểm trợ cho Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù rất hữu hiệu. Khi trời sáng tỏ, Không Quân cũng được dành ưu tiên cho Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù. Xác địch nằm la liệt trên đường tiến quân.
Đầu tháng 11/1972, sau những đợt phi pháo, Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù rốt cuộc đã chiếm được căn cứ Ann; 6 khẩu pháo 105 ly của Thủy Quân Lục Chiến trước khi rút đã phá hủy và bỏ lại trên căn cứ nầy nay càng bị hư hại hoàn toàn.
Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù bắt sống khoảng 30 tù binh thuộc Trung Đoàn 66 và 165 của Sư Đoàn 324 cộng sản bắc việt; tịch thu khoảng 300 vũ khí trong đó có cả súng cối 160 ly do Liên xô chế tạo. Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù cũng bị tổn thất (vừa chết và bị thương) khoảng một Đại Đội! Có 2 Đại Đội Trưởng và 10 sĩ quan bị thương!
Chính Tướng Ngô Quang Trưởng khi nghe tái chiếm được căn cứ Ann cũng đã thừa nhận là căn cứ Ann vùng động Ông Đô rất khó đánh, ông đã hết lời khen ngợi chiến sĩ Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù.
Sau khi ổn định vị trí, Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù được Tiểu Đoàn 6 Nhảy Dù ra thay thế để rút về tuyến sau tái bổ sung quân số và làm lực lượng trừ bị.
Từ lúc mất vị trí quan trọng (căn cứ Ann), địch tập trung nỗ lực định chiếm lại căn cứ nầy và các điểm tựa vừa mất. Cộng quân pháo kích dữ dội vào vị trí các Đại Đội của Tiểu Đoàn 6 Nhảy Dù bằng đủ loại: hoả tiễn 107 ly và 122 ly; rồi ồ ạt tấn kích với chiến xa yểm trợ. Binh sĩ Tiểu Đoàn 6 Nhảy Dù đã đào hầm sâu vào sườn đồi để tránh pháo địch. Lúc địch tấn công thì họ nhô ra khỏi miệng hầm, sử dụng súng cá nhân, lựu đạn, và súng cộng đồng chống trả.
Phía Bắc căn cứ Ann khoảng 1 cây số rưỡi có một ngọn đồi yên ngựa, tuy hơi thấp nhưng có thể chế ngự và kiểm soát được đường tiến quân từ sườn Đông và sườn Tây căn cứ Ann. Tại đó có một số tử giác mà địch có thể lợi dụng được. Vì vậy một Đại Đội Tiểu Đoàn 6 Nhảy Dù đã trấn giữ, nên việc phòng thủ căn cứ Ann được bảo đảm hơn.
Suốt 2 tuần lễ, cộng quân luân phiên tấn công căn cứ và điểm tựa nhiều lần; nhưng địch đều bị thất bại phải chạy tháo lui bởi hoả lực cùng sự chống trả quá kiên cường của chiến sĩ Tiểu Đoàn 6 Nhảy Dù và của Pháo binh yểm trợ cận phòng.
Khi truy kích, Tiểu Đoàn 6 Nhảy Dù của Trung Tá Nguyễn Văn Đỉnh tịch thu được hàng trăm súng đủ loại, xác địch nằm ngổn ngang dưới chân đồi, không bắt giữ được một tù binh nào cả.
Pháo đài bay B-52 đã dội hàng trăm tấn bom xuống phía Bắc và sườn Tây của căn cứ, gây cho địch tổn thất rất nặng nề. Có thể nói Tiểu Đoàn 6 Nhảy Dù với tài chiến đấu dũng cảm của binh sĩ, cùng sự yểm trợ dồi dào của phi pháo, nên đã loại ra khỏi vòng chiến ít nhất 2 Tiểu Đoàn thuộc Sư Đoàn 308 cộng sản bắc việt. Tiểu Đoàn 6 Nhảy Dù có 3 Đại Đội Trưởng bị thương, khoảng 150 quân nhân vừa chết và bị thương.
Để hỗ trợ cho cuộc tấn công vào căn cứ Ann, địch đã tung một Trung Đoàn thọc sâu vào thung lũng phía Đông căn cứ giữa Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù và Tiểu Đoàn 6 Nhảy Dù để tấn công đồi 90 và các đồi khác do Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù trú đóng nhằm mục đích cắt đứt đường tiếp viện cho Tiểu Đoàn 6 Nhảy Dù. Cộng quân đưa vào rất nhiều hoả tiễn 107 ly (loại 12 nòng do Liên Xô chế tạo), cùng súng cối 82 ly, đại bác 75 ly, và súng phòng không 12 ly 8, 37 ly để bắn chận các trực thăng tiếp tế và tản thương; đồng thời liên lục pháo kích vào chỗ trú quân của ta.
Trận chiến giằng co ngọn đồi chiến thuật 90 giữa hai bên xảy ra nhiều lần. Ban ngày binh sĩ Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù chiếm thì ban đêm địch phản công lấy lại. Thấy vậy Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn Nhảy Dù đưa Tiểu Đoàn 8 Nhảy Dù lên tăng cường cho Lữ Đoàn 2 Nhảy Dù.
Tiểu Đoàn 8 Nhảy Dù được lệnh thọc sâu tiến đánh địch tại vùng thung lũng gọi là mục liêu 18 (giữa Tiểu Đoàn 6 Nhảy Dù và Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù). Đang khí thế hăng hái sau thời gian chỉ chỉnh bị và bổ sung, Tiểu Đoàn 8 Nhảy Dù đã hoàn thành nhiệm vụ một cách xuất sắc. Với rất ít thiệt hại mà chỉ trong 2 ngày đã làm chủ mục tiêu 18, lấy được kho đạn gồm súng cối 61 ly, 82 ly, hoả tiễn 107 ly, do địch vội vã rút chạy nên không kịp phá hủy… Cộng quân bỏ lại trạm xá với những thương binh còn quấn băng đầy người, đang nằm chết tại các hầm cứu thương.
Binh sĩ Dù tung ra lục soát, đào xới các ụ đất khả nghi và tịch thu được súng cối, đại bác không giật 57 ly, máy truyền tin, súng đại liên, và nhiều súng cá nhân.
Tháng 11/1972 thì toàn vùng chạy dài từ Bắc căn cứ Ann xuống đến phía Nam qua căn cứ Barbara trong dãy Trường Sơn đều hoàn toàn yên tĩnh. Các đơn vị Dù tiếp tục bung rộng vùng kiểm soát, đã tịch thu thêm được nhiều xe vận tải chở quân và trang cụ chiến đấu, cùng lương thực (gạo) của địch.
Ngoài ra ta còn phát giác hàng đoàn xe tiếp tế đã bị bom B52 đánh trúng, nằm nghiêng ngửa đổ tung toé trên đường xâm nhập.
Giữa tháng 12/1972, khi hoà đàm Ba Lê sắp đến hồi kết thúc quan trọng, Sư Đoàn Dù cho lệnh các đơn vị mở rộng ra hướng Tây. Tiểu Đoàn 8 Nhảy Dù chiếm đánh căn cứ Suzie ở phía Tây căn cứ Ann khoảng 3 cây số, và thọc sâu tới sát bờ sông Thạch Hãn. Chỉ trong 10 ngày Tiểu Đoàn đã hoàn thành nhiệm vụ.
Tiểu Đoàn 2 Nhảy Dù được lệnh chiếm vùng “Động Tiên” ở Tây Nam căn cứ Suzie khoảng 4 cây số. Tiểu Đoàn 2 Nhảy Dù chiếm được vùng nầy sau một tuần lễ giao tranh lẻ tẻ; binh sĩ lục soát tịch thu rất nhiều lương thực gồm: gạo, thịt, và cá hộp, cùng lương khô do Trung cộng cung cấp. Địch bỏ chạy vì các kho nầy do hậu cần canh giữ, không đủ khả năng chống đỡ lại các binh sĩ thiện chiến của Tiểu Đoàn 2 Nhảy Dù.
Tháng 3/1973, sân bay Hoà Mỹ (tức căn cứ Evan cũ), do Lữ Đoàn 2 Nhảy Dù trách nhiệm, được dùng để các máy bay C130 Hoa Kỳ chở tù Phiến Cộng đáp xuống, rồi dùng GMC chở chúng ra bờ sông Thạch Hãn trao đổi tù binh theo Hiệp Ước Ba Lê quy định.
Hàng ngàn tù binh cộng sản bắc việt đã được trao trả cho phía bên kia, và ta cũng đã nhận về một số rất ít những chiến sĩ Việt Nam Cộng Hoà do địch bắt trước kia (quân cộng sản bắc việt thường giết hại tù binh).
Tháng 9/1972, khi Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu ra thăm Quảng Trị, đã đến tận bản doanh Sư Đoàn Nhảy Dù ở Hiệp Khánh. Tại đây, sau khi nghe Tư Lệnh Sư Đoàn Nhảy Dù và các sĩ quan tham mưu trình bày diễn tiến hành quân, và kết quả các trận đánh, Tổng Thống đã ra sân trước coi các chiến lợi phẩm tịch thu được của địch gồm: chiến xa T-54, PT-76, BTR-85, các đại bác 122 ly, 75 ly nòng ngắn và nòng dài, 130 ly,… các súng hoả tiễn và đạn 1071y, 122 ly, SA7, AT3; các loại súng cối: 61 ly, 82 ly, 120 ly, và 160 ly (do Liên sô chế tạo); máy truyền tin, các xe vận tải Zin và Molotova sắp hàng đầy sân. Cùng nhiều trang cụ chiến đấu và quân trang quân dụng.
Tổng Thống cũng bước lên đứng cạnh pháo tháp xe tăng T-54 và bảo tài xế lái chạy 1 vòng sân; rồi ngồi trên ghế giàn phòng không 37 ly, sử dụng tay quay điều khiển súng lên, xuống, và quay vòng 360 độ.
Các đơn vị thuộc Sư Đoàn Nhảy Dù đã hoàn thành được nhiệm vụ giao phó, vì chúng ta có những binh sĩ gan dạ, chịu đựng, và thiện chiến; các Hạ Sĩ Quan ưu tú nhiều kinh nghiệm chiến trường; các sĩ quan Trung, Đại Đội Trưởng tài giỏi, đa năng, đa hiệu; các Tiểu Đoàn Trưởng điều quân rất xuất sắc, phản ứng lanh lẹ, ước tính chính xác, và sử dụng hoả lực yểm ượ hữu hiệu…
Trong một thời gian hạn định, Tướng Ngô Quang Trưởng đã điều động 2 đơn vị Tổng Trừ Bị tái chiếm lại được Quảng Trị, nơi địch quân đã dồn hết lực lượng chủ chốt để thách đố quân lực Việt Nam Cộng Hoà. Tướng Trưởng đã diệt địch không phải bằng một cuộc phản công đại quy mô, mà bằng những cuộc tấn kích nho nhỏ và liên tục, mỗi ngày một khác và ở những địa điểm không giống nhau, nhằm mục đích tiêu hao để rồi diệt gọn địch. Ông tiếp tục cho hành quân phản công lấn đất lần về đến Thị xã Quảng Trị. Sau đó chiếm lại thành phố và bao vây rồi trương cờ lên Cổ Thành Đinh Công Tráng.
Ông cho lệnh bố trí quân phòng thủ phía Nam sông Thạch Hãn, dùng phía Bắc bờ sông như vùng trái độn để củng cố và tổ chức các tuyến phòng ngự, sử dụng trọng pháo tối đa để ngăn chận địch quân tiến gần bờ sông (Ngũ Giác Đài và các danh tướng ngoại quốc hết sức khâm phục sự chiến đấu dũng cảm của Quân lực Việt Nam Cộng Hoà nói chung, Sư Đoàn Nhảy Dù và Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến nói riêng).
Sau trận nầy, địch quân hoàn toàn mất khả năng chiếm giữ thị trấn Quảng Trị, vì Cổ Thành đổ nát, Thị xã tan tành bởi bom, đạn pháo; nên chánh quyền lập thị trấn mới tại quận Triệu Phong, phía Bắc sông Mỹ Chánh. Địch quân núp vào dãy núi Trường Sơn ở phía Tây, thỉnh thoảng pháo vài quả khuấy rối, như để chứng tỏ còn hiện diện tại đây. Vì vậy các đơn vị Dù thay phiên nhau lên các đỉnh núi cao trong dãy Trường Sơn, lập căn cứ đóng đồn giống như Địa Phương Quân.
Điều đáng buồn là Đại Tá Nguyễn Trọng Bảo, Tham Mưu Trưởng Sư Đoàn Nhảy Dù, đi quan sát bằng trực thăng, chẳng may máy bay bị địch bắn trúng và rớt xuống vùng phía Đông Bắc cầu Mỹ Chánh, ông bị tử thương cùng Trung Tá Huỳnh Long Phi, Chỉ Huy Trưởng Pháo Binh Sư Đoàn Nhảy Dù. Đại Úy Lang bị thương chân và phỏng nặng cấp ba, còn Đại Úy Công Binh Nguyễn Thanh Nhàn thì thật may thoát khỏi nạn vì vợ ra thăm nên Đại Úy Lang đi thế. Tin nầy làm Tướng Đống rất đau buồn vì bị mất đi một vị Tham Mưu Trưởng tài ba, mưu lược, và tận tụy, đã từng giúp ông rất đắc lực trong nhiều năm qua.
Để kết thúc loạt ghi nhận nầy, chúng tôi xin nghiêng mình ghi ơn quân nhân các cấp của Sư Đoàn Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến, Biệt Động Quân, Bộ Binh, Biệt Cách Dù, Pháo Binh, Công Binh, Thiết Giáp, Không Quân,… đã đem xương máu ra hiến dâng cho Tổ Quốc… Có những chiến sĩ đã nằm xuống vĩnh viễn, có những người đã thành phế nhân; có những người đã thành tù nhân trong các trại tập trung… tất cả đã xả thân bảo vệ đất nước sống còn, mong cho nhân dân miền Nam được tự do no ấm, hạnh phúc hơn mấy chục năm dài…
Vận nước đến lúc suy vi! Những biến cố bất lợi đã xảy ra liên tiếp, khiến mọi người ly tán, nhà tan, nước mất! Hàng triệu người phải lưu vong…
Nhưng chúng ta tin rằng, rồi đây sẽ có những ngày tươi sáng, thanh bình. Thế hệ chúng ta đã không được hưởng, thì thế hệ con cháu chúng ta sẽ hưởng… Theo lịch sử, không một chế độ bạo tàn nào, chỉ biết dùng vũ lực để trấn áp dân chúng, mà có thể sống lâu (Vương Mãng, Tần Thủy Hoàng bên Tàu và Hồ Quý Ly, Hồ chí Minh của Việt Nam); chúng sẽ phải sụp đổ trong nay mai.
Gương sáng trước mắt đã thấy đó: Chế độ cộng sản Liên sô đã gãy đổ tan nát; các nước Đông Đức, Ba Lan, Tiệp Khắc, Hung Gia Lợi. Cộng sản đã phải gục nhường bước cho nền dân chủ Tự Do đi lên.
Hãy tin đi, chúng ta sẽ có ngày nầy.
Trương Dưởng
(Trích trong "Đời Chiến Binh" của Trương Dưởng)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét