Tìm bài viết

Vì Bài viết và hình ảnh quá nhiều,nên Quí Vị và Các Bạn có thể xem phần Lưu trử Blog bên tay phải, chữ màu xanh (giống như mục lục) để tỉm tiêu đề, xong bấm vào đó để xem. Muốn xem bài cũ hơn, xin bấm vào (tháng....) năm... (vì blog Free nên có thể nhiều hình ảnh bị mất, hoặc không load kịp, xin Quí Bạn thông cảm)
Nhìn lên trên, có chữ Suối Nguồn Tươi Trẻ là phần dành cho Thơ, bấm vào đó để sang trang Thơ. Khi mở Youtube nhớ bấm vào ô vuông góc dưới bên phải để mở rộng màn hình xem cho đẹp.
Cám ơn Quí Vị

Nhìn Ra Bốn Phương

Thứ Năm, 13 tháng 11, 2025

TÀN CƠN BINH LỬA - ĐẠI ÚY LÊ ĐẮC LỰC




Rặng Trường Sơn chạy dài từ Bắc xuống Nam, như cái xương sống của nước Việt Nam. Núi Mây Tào và các ngọn núi nhỏ hơn quanh đó, là những ngọn núi cuối cùng của rặng núi nầy. Từ đó đi tuốt về phía Nam, không còn ngọn núi cao nào nữa.Về Thu Đông, đỉnh Mây Tào thường có mây bao phủ. Nên nó mới có tên là “Mây” chăng? Tuy nhiên, đối với vùng Miền Đông Nam Phần, Mây Tào có một vị trí chiến lược quan trọng. Người Sĩ Quan, cấp càng cao, càng có nhãn quan đặc biệt về vùng đất chiến lược nầy.Trong Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất, miền Đông Nam phần là vùng Việt Minh hoạt động mạnh, tạo ra những trận đánh lớn. 
<!>
Không chỉ riêng gì mật khu Mây Tào của núi Mây Tào, mà ngay vùng Long Đất, Đất Đỏ, cũng được coi như An Toàn Khu (ATK) của bọn chúng

Khu vực Mây Tào liền với khu Rừng Lá trên Quốc Lộ 1, vùng thung lũng Võ Đắt – Võ Xu về hướng Bắc, vùng Định Quán, Trị An, chiến khu D hướng Tây Bắc, và nối dài lên tận Đồng Xoài, Bình Long, Phước Long qua tới biên giới Việt Miên. Vùng Bình Giả, Xuyên Mộc hướng Tây Nam.

Trong Chiến tranh Đông Dương lần thứ 2, Quân Đội VNCH từng đụng độ lớn với quân cọng sản ở Bình Giả, do đó mà cái tên Bình Giả đi vào lịch sử quân sự chống cọng của quân dân Miền Nam, và trong một câu hát của cố Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn.

Quốc Lộ 20, đoạn từ ngã ba Dầu Giây trở lên Định Quán, là vùng định cư của đồng bào Miền Bắc di cư 1954, nhờ đó, quân cọng sản không thể thực hiện được một chiến thắng nào ở Định Quán, như trong cuộc chiến tranh trước.

Những nhà chiến lược quân sự của Việt Nam Cộng Hòa thấy rõ tính chiến lược của vùng núi non cuối dãy Trường Sơn. Để hạn chế hoạt động quân sự của phe địch ở đây, một số Quận được nâng lên cấp Tỉnh. Quận Xuân Lộc nâng lên thành Tỉnh Lỵ của Tỉnh mới là Long Khánh. Hàm Tân thành Tỉnh Lỵ Tỉnh Bình Tuy, Bà Rịa thành Tỉnh Lỵ Tỉnh Phước Tuy.

Ba Tỉnh mới nầy nằm ở chung quanh Núi Mây Tào.

Núi Mây Tào Núi Mây Tào

Cọng sản biết như thế, không những biết mà biết rất rõ, nhưng nếu muốn hoạt động quân sự ở Miền Đông Nam Phần, miền đất sinh tử để có thể giữ cho công cuộc xâm lăng Miền Nam của cọng sản Bắc Việt được tồn tại và phát triển, bọn chúng phải cố sống cố chết thành lập và xây dựng mật khu Mây Tào.

Khi quân Mỹ và Đồng Minh tham chiến ở Việt Nam, quân cọng sản yếu thế, không quấy phá được ba Tỉnh mới nói trên, và cũng không dám xâm phạm Quốc Lộ 1 ở đoạn Rừng Lá. Cũng trong đoạn Rừng Lá nầy, phía Quân Đội Đồng Minh và VNCH thành lập hai vị trí quân sự quan trọng: “Căn cứ 4 và Căn cứ 5”. Hai căn cứ có bố trí súng đại bác, để yểm trợ hỏa lực cho Quân Đội ta, hoạt động ở các khu vực chung quanh.

Rừng Lá, nơi Quốc Lộ 1 chạy ngang qua, là vùng Việt cọng dễ xâm nhập và phá hoại. Khúc đường có chỗ cong gần như 90 độ, hai bên đường, nhất là phía Núi Mây Tào, toàn loại Cây Cọ, có tàng lá lớn, che kín mọc đầy dẫy, quân Việt cọng thường ẩn núp, di chuyển bên dưới rất an toàn và khó bị phát hiện. Mặt đất tương đối bằng phẳng, chỉ có tre và các cây chồi hoang mọc xen lẫn, nên một số đồng bào đã vào đây khai phá để trồng lúa. Gần tới núi Mây Tào, rừng rậm, cây cao, nhiều dốc đồi, vách đá, khe nước, nên di chuyển khó khăn hơn.

Sau Hiệp Định Paris 1973, lợi dụng tình hình ngưng bắn, Việt cọng gia tăng hoạt động trong toàn khu vực các Tỉnh Miền Đông Nam Phần.

Khoảng đầu tháng 5 năm 1974, Việt cọng tung quân chiếm cứ đồn điền cao su nằm gần ngã ba Dầu Dây, đắp mô trên đường đèo lên Thị Trấn Bảo Lộc, cắt đứt giao thông Quốc Lộ 20. Bọn chúng chiếm đóng trên đỉnh Đèo Mẹ Bồng Con, tấn công vào các Căn cứ Hỏa lực 4 và 5, đắp mô, giựt mìn phá hoại ngay trên trục lộ giao thông ở khu vực Rừng Lá, cắt đứt thông thương Quốc Lộ 1. Tất cả mọi xe cộ, nguồn cung cấp thực phẩm, rau quả, hải sản, từ Đà Lạt, Lâm Đồng, từ Bình Thuận, Phan Thiết đều bị tắc nghẽn, ứ đọng, nằm trải dài hơn hai ba cây số trên Quốc Lộ 1 trong suốt 20 ngày liền.

Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu Long Khánh do Đại Tá Mạch Văn Trường, nguyên Trung Đoàn Trường Trung Đoàn 8, Sư Đoàn 5 Bộ Binh, từng bị trọng thương tại chiến trường An Lộc, vừa mới đáo nhậm chức Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng, đã điều động các lực lượng tăng phái, bao gồm: một Tiểu Đoàn của Sư Đoàn 18 Bộ Binh, Tiểu Đoàn Trưởng là Thiếu Tá Nguyễn Hữu Chế và một Tiểu Đoàn Biệt Động Quân đến tấn công, tiêu diệt và bắt sống hầu hết địch quân, chiếm lại toàn bộ các khu vực trên. Riêng tại Rừng Lá, Tiểu Đoàn Địa Phương Quân cơ hữu của Tiểu Khu, suốt mấy ngày liền đã mở các cuộc hành quân giải tỏa, thông đường cho xe cộ vận chuyển qua lại được, nhưng chỉ trong một khoảng thời gian ngắn, đến chiều tối, thì đâu lại vào đấy. Địch quân từ mật khu Mây Tào, đưa quân tràn ra đánh chiếm và đắp mô trở lại. Tiểu Đoàn Địa Phương Quân phải rút về phòng thủ, án ngữ tại mặt Bắc Căn cứ Hỏa lực 4.

Trước tình hình thực tại này, không thể để Quốc Lộ 1, con đường huyết mạch bị bế tắt kéo dài thêm. Bây giờ, như đã từng xảy ra, Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn III cuối cùng cũng phải giao phó cho Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù nhận lãnh trách vụ giải tỏa, truy lùng, tiêu diệt đám giặc cọng đã và đang hoành hành tại khu Rừng Lá, mật khu Mây Tào này.

Lực lượng giải tỏa gồm Bộ Chỉ Huy I Chiến Thuật và hai Biệt Đội 811, 814 Biệt Cách Nhảy Dù. Tôi là Biệt Đội Trưởng Biệt Đội 814, Trung Úy Trương Việt Lâm, Biệt Đội Trưởng Biệt Đội 811. Toàn bộ từ Biên Hòa, di chuyển bằng xe GMC, đến đóng phía ngoài Phi Trường Quân Sự dã chiến Long Khánh, sát bên hông Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu, đồng thời là Tòa Hành Chánh Tỉnh Long Khánh, chuẩn bị vào chiến trường.

Buổi sáng ngày hôm sau, Trung Tá Vũ Xuân Thông, Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ Huy I Chiến Thuật, và hai Biệt Đội Trưởng đến họp tại Trung Tâm Hành Quân Tiểu Khu Long Khánh cùng với Đại Tá Mạch Văn Trường, Tiểu Khu Trưởng và Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu.

Biết chắc mật khu Mây Tào là căn cứ địa của Việt cọng, nhưng không nắm rõ quân số của chúng. Trên Quốc Lộ 1, sau khi đánh chiếm Căn cứ Hỏa lực 4 và 5, bọn chúng chiếm giữ đoạn đường nầy, đắp ụ, đóng chốt hai bên Quốc Lộ, giao thông hoàn toàn ngưng trệ bấy lâu nay.

Sau buổi họp, Biệt Đội 814 được lệnh xuất phát. Trực Thăng thả Biệt Đội 814 xuống một vùng đất trống ở Sông Ray, Xã Xuân Tâm, cách Quốc Lộ 1 chừng 500 mét về hướng Đông Bắc. Từ đó, Biệt Đội men theo địa thế, vượt qua các đồng ruộng, ẩn mình dưới những rừng cây cọ, tiến lên phía trước, dọc hai bên Quốc Lộ 1, với một khoảng cách khá xa. Giữa trưa, gần đến vị trí địch đắp mô, thì bất ngờ, Biệt Đội bị địch pháo kích bằng súng cối, một Tiểu Đội phó tử thương và hai khinh binh của Biệt Đội bị trọng thương.

Đơn vị súng cối của địch không đặt ở trên Quốc Lộ 1, mà nằm sâu bên trong Núi Mây Tào. Bọn chúng có thể đã chuẩn bị vị trí đặt súng, canh sẵn tọa độ, mục tiêu, tầm bắn dọc hai bên Quốc Lộ 1, nơi mà chúng dự đoán Quân Đội ta sẽ di chuyển, và nhất là chúng đặt được cái “đài quan sát” trên những ngọn cây cao. Với những lợi thế đó chúng tác xạ tương đối chính xác.

Biệt Đội tạm thời rút lui khoảng hơn nửa cây số, ra khỏi vị trí “trận địa pháo” đã có hỏa tập tiên liệu của địch, dừng quân, đào hầm phòng thủ, nghỉ qua đêm.

Sáng hôm sau, Trung Tá Vũ Xuân Thông cùng hai Biệt Đội Trưởng lên Trực Thăng để bay quan sát địa thế và mục tiêu. Khi Trực Thăng bay vòng trên khu vực Núi Mây Tào, địch từ dưới bắn lên bằng súng phòng không 12.7 ly. Đây là loại vũ khí quân Việt cọng mới trang bị thêm cho lực lượng địch hoạt động tại nơi này. Trực Thăng phải bay lên cao, tránh phòng không, hướng thẳng ra Phan Thiết, rồi từ đó quay ngược trở lại tiếp tục quan sát. Mục tiêu nằm trên trục lộ chính. Máy bay có thể oanh kích tiêu diệt dễ dàng, nhưng sẽ làm hư hại nặng nề Quốc Lộ 1.

Hai bên đường tuy là rừng lá, nhưng đoạn giữa hai Căn cứ 4 và Căn cứ 5, phía bên phải từ hướng Phan Thiết kể vào, có nhà dân chúng, có vườn tược. Bên phía trái cũng tương tự, nhưng thưa thớt hơn, rừng chồi và cây cọ dày đặc hơn.

Với địa thế đó, rất tốt đế cho tiến quân đêm, tạo sự bất ngờ, thiếu cảnh giác của địch. Vậy là, ngay tối hôm đó, Biệt Đội tôi tiến lên. Đi đầu là Toán khinh binh tiền sát, kế tiếp đó, như chiến thuật từng áp dụng là lực lượng cấp Trung Đội, yểm trợ cho các Toán tiền sát.

Song song, cũng trong thời điểm này, Biệt Đội 811 đưa các Toán Thám Sát, thâm nhập vào mật khu Mây Tào, bằng đường bộ, riêng các Trung Đội sẽ tiến sâu đến gần bìa rừng, lục soát, truy lùng địch, đồng thời cũng phục kích bắt sống bọn chúng.

Tới gần sáng, Toán tiền sát đến gần các mô đất địch đắp trên lộ, báo cáo không thấy chốt, mà cũng chẳng thấy địch đâu cả. Biết chắc ban đêm bọn chúng rút về hầm trú ẩn gần đâu đây, nên Biệt Đội lợi dụng cơ hội, phục kích đón ngược chúng. Nếu ban ngày, chúng quay trở lại để đóng chốt, thế nào chúng cũng lọt vào ổ phục kích.

Kế hoạch xử dụng phục kích để chống phục kích của Biệt Đội đạt kết quả tốt. Bọn chúng hoảng loạn bỏ chạy, không kịp mang theo xác chết.

Tiếp tục đà chiến thắng, Biệt Đội tiến lên tấn công chốt chặn kế tiếp. Đã phòng bị trước, địch nổ súng phản công, nhưng cuối cùng cũng phải buông súng đầu hàng.

Lần nầy, khác với hôm qua, bọn Việt cọng không được súng cối 61 và 82 ly của đồng bọn bắn yểm trợ. Do đó, kết quả thảm bại chua cay, phải bỏ xác, tháo chạy và qui hàng.

Tại sao chúng không được súng cối yểm trợ như ngày hôm qua, một chiến thuật mà chúng đẩy lùi được đơn vị đã tấn công chúng trước chúng tôi?

Bởi vì cuộc hành quân của Biệt Đội 811.

Khi Biệt Đội 814 chúng tôi đang phá chốt trên Quốc Lộ 1, thì các Toán Thám Sát Biệt Đội 811 khám phá một căn cứ của địch nằm khuất bên trong rặng Núi Mây Tào. Các phi tuần F.5E đã được gọi đến để ném bom phá hủy. Đồng thời, Biệt Đội 811, trong lúc truy lùng địch dọc theo mặt Bắc chân núi Mây Tào đã tấn công tiêu diệt hai tổ súng cối yểm trợ hỏa lực của Việt cọng, phát hiện tịch thu một hầm vũ khí và lương thực cùng các rẫy canh tác trồng trọt, đặc biệt địch trồng rất nhiều lúa và ngô trong khu vực này.

Đó là lý do tại sao Biệt Đội 814 đã đánh bại các chốt địch trên Quốc Lộ 1 quá dễ dàng.

Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù đã gây nhiều bất ngờ cho địch quân. Chưa khi nào Việt cọng bị tấn công đêm hay bị phục kích ngược trở lại. Bọn địch cũng không bao giờ ngờ, các Biệt Đội Biệt Cách Nhảy Dù dám thâm nhập vào sâu trong mật khu an toàn của chúng, để khám phá kho tàng, căn cứ, địa đạo, hay mở các cuộc hành quân truy lùng, tấn công vào các đơn vị hỏa lực yểm trợ của chúng đóng ẩn dấu, che khuất dưới những tàng cây, hốc đá, sát tận chân núi, để bọn chúng cuối cùng cũng phải “bỏ của chạy lấy người.”

Việt cọng chắc chắn phải thấy một điều: Mật khu Mây Tào không còn là vùng “Bất Khả Xâm Phạm” đối với Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù.

“ Chiến Sĩ Xuất Sắc ”

Trong quãng đường binh nghiệp mà tôi đã đi qua, là một chiến sĩ 81.BCD, tôi chỉ biết xông pha ngoài mặt trận, trên các chiến trường lửa đạn hay trong các mật khu của giặc cọng với đầy rẩy mọi bất trắc hiểm nguy chực chờ. Thế nhưng, tôi vẫn không sờn lòng nản chí. Tôi chiến đấu cùng đồng đội để tiêu diệt giặc thù cọng sản, để bảo vệ Tổ Quốc, Quê Hương và Đồng Bào, đó là một bổn phận, một sứ mệnh thiêng liêng, cao cả mà tôi phải hiến dâng và tuân hành.

Từ những mật khu bất khả xâm phạm của địch, đến các trận địa chiến khốc liệt, tang thương, đã cướp đi qúa nhiều đồng đội, chiến hữu của tôi, họ đã can trường chiến đấu, hy sinh cả tuổi trẻ và mạng sống để Tổ Quốc được tồn vong, để ghi vào lịch sử những chiến tích lẫy lừng cho đơn vị.

Xác thân và công lao của họ đã cho tôi được nhận lảnh vinh hạnh lớn lao hôm nay, ngay tại mặt trận Rừng Lá – Mật khu Mây Tào, tôi đã được Đại Tá Phan Văn Huấn, Chỉ Huy Trưởng đề cử là một Chiến Sĩ Xuất Sắc của Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù, để về Thủ Đô Sài Gòn tham dự Đại Lễ Kỷ Niệm Ngày Thành Lập Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa 19 tháng 6 năm 1974. Sau đó tháp tùng cùng Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam, Tư Lệnh Vùng IV Chiến Thuật, du hành thăm viếng Nước Trung Hoa Dân Quốc (Đảo Đài Loan) trong một tuần lễ. Cũng trong Ngày Đại Lễ này, tôi đã được Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu ban thưởng Ưu Dũng Bội Tinh, một Huy Chương cao quí, chỉ dành cho các Chiến Sĩ Xuất Sắc, các Anh Hùng diệt cọng của các Quân Binh Chủng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Buổi ân thưởng huy chương danh dự này, đã được cử hành trọng thể ngay tại Phòng Khánh Tiết Dinh Độc Lập.

Đó là niềm hãnh diện và là một vinh dự lớn lao, ghi đậm dấu ấn trong suốt đời Binh Nghiệp của tôi.

Chiến Sĩ xuất sắc Chiến Sĩ xuất sắc

-------------

Lê Đắc Lực – Tàn Cơn Binh Lửa – Phước Long “ Chứng tích kẻ chạy làng ”

Ngày đầu năm 1975, đang hành quân ở Tây Ninh, Đại Tá Phan Văn Huấn, Chỉ Huy Trưởng Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù nhận được lệnh của Trung Tướng Dư Quốc Đống, Tư Lệnh Quân Đoàn III, phải gấp rút đưa đơn vị về Biên Hòa, nhận nhiệm vụ mới, chỉ để lại một Biệt Đội tăng cường, phòng thủ tại Phi trường Quân sự Trảng Lớn.

Nhiệm vụ mới, không nói mà cả Liên Đoàn ai cũng nhận biết được, đó là chiến trường Phước Long, một chiến trường “dầu sôi lửa bỏng, thập tử nhất sinh” cần khẩn cấp tiếp cứu.

Mặt trận Phước Long bắt đầu từ ngày 12 tháng 12 năm 1974, kéo dài cũng đã gần một tháng. Áp lực địch càng ngày càng mạnh. Bốn Quận của Phước Long đã bị Việt cọng đánh chiếm cả. Năm Tiểu Đoàn Địa Phương Quân, với quân số còn lại, rút về phòng thủ quanh Thị Xã, ngoài ra còn được tăng cường thêm Tiểu Đoàn 2, Trung Đoàn 7, Sư Đoàn 5 Bộ Binh, ba Đại Đội Trinh Sát của các Sư Đoàn 5, 18 và 25 Bộ Binh. Nếu cộng thêm với lực lượng ít ỏi của các đơn vị của Tiểu Khu, kể cả Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát và Cảnh Sát Dã Chiến, Nghĩa Quân, Cán Bộ Xây Dựng Nông Thôn, không hy vọng chống trả lại được với lực lượng đầy đủ và sung mãn tinh thần “điên khùng” của Sư Đoàn 3 và Sư Đoàn 7 Bắc Việt xâm lược, cộng với một Tiểu Đoàn Đặc công, và hai Chi Đoàn Chiến xa T-54.

Vào thời điểm đó, quân cộng sản có nhiều thuận lợi về nguồn tiếp tế. Hướng Đông Bắc là căn cứ Bù Gia Mập, hướng Tây Bắc là căn cứ Bù Đốp, cả hai nơi đều đã bị địch chiếm cứ và trở thành mật khu của chúng. Chắc chắn hậu cần và quân tiếp ứng, nếu cần, sẽ từ hướng nầy tuôn xuống một cách dồi dào. Phía Đông là hai Thị Trấn Gia Nghĩa và Bảo Lộc, không giúp đỡ gì được cho quân trú phòng. Quận Chơn Thành và Đồng Xoài ở phía Nam cũng đã bị địch chiếm mất rồi. Phía Tây Tỉnh Bình Long, cũng chưa hoàn toàn hồi sức từ sau trận chiến Mùa Hè 1972.

Tình hình quân sự đã căng như thế, trong khi Sài Gòn nhiều phong trào đang biểu tình dữ dội: “Phụ nữ đòi quyền sống, Ký giả đi ăn mày và Chống tham nhũng”. Tình hình chính trị như thế chỉ có lợi cho địch quân mà không chắc ở Sài Gòn có người nào nghĩ đến những người lính ở Phước Long đang lâm vào cảnh “thập tử nhất sinh”.

Chuẩn bị vào Chiến Trường

Về tới căn cứ, nắm biết được tình hình như thế, thêm vào đó trong lòng mang nỗi chán nản vì hành động vi phạm Hiệp Định Paris một cách trắng trợn của bọn Việt cọng. Biết là Biệt Đội cũng sắp sửa nhảy vào Phước Long, tôi vừa xúc động vừa buồn, không như ba năm trước đây, tại chiến trường Bình Long, An Lộc. Lúc đó, tôi cũng mang đầy lo lắng, nhưng nôn nóng, sôi sục muốn nhảy vào chiến trường, sớm chừng nào hay chừng đó, để chia xẻ và gánh vác gian nguy cùng Đồng Đội, Chiến Hữu.

Rạng sáng ngày 3 tháng 1 năm 1975, Bộ Chỉ Huy 1 Chiến Thuật do Trung Tá Vũ Xuân Thông chỉ huy, đã cùng Biệt Đội 811 Xung Kích, Biệt Đội Trưởng là Đại Úy Trương Việt Lâm và Biệt Đội 814 Xung Kích, Biệt Đội Trưởng là tôi, được chuyển vận tới Sân bay Quân Sự tại Căn cứ Long Bình. Đoàn Quân Biệt Cách Nhảy Dù, nằm trải dài trên bãi chờ Trực Thăng, được lót trải bằng những tấm vỉ sắt kết nối nhau, trong một khoảng thời gian dài, từ sáng cho đến quá trưa. Mãi tới 2 giờ chiều, một Phi Đội Trực Thăng do Phi Đội Trưởng Thiếu Tá Đào Vũ Anh Hùng chỉ huy, mới đáp xuống. Đến 2 giờ 30, các Chiến sĩ Biệt Cách Nhảy Dù Biệt Đội 814 đã sẵn sàng lâm trận.

Từng chiếc UH.1B cất cánh, rồi nối đuôi theo sau chiếc xe của Đại Tá Phan Văn Huấn trực chỉ về hướng Bắc. Khoảng cách từ Căn cứ Long Bình lên Phước Long theo đường chim bay trên 100 cây số. Khi đoàn Trực Thăng vừa đến vùng trời Phước Long, cao xạ 12.7 ly và 37 ly của bọn giặc cộng thay nhau bắn lên xối xả, dưới đất thì khói bụi mịt mù bay lên che khuất một vùng trời, các phi tuần A.37 oanh kích triệt hạ phòng không địch trên núi Bà Rá chẳng thấy xuất hiện. Đoàn Trực Thăng bay lượn hai vòng trên trời cao, họ có thể đã ước tính, không còn đủ nhiên liệu và thời gian để đáp thả Biệt Đội 814, rồi quay trở về bốc thả tiếp Biệt Đội 811 và Bộ Chỉ Huy 1 Chiến Thuật còn lại, thì trời đã quá chiều tối, nên đã đồng loạt bay về hướng Nam, đáp khẩn xuống ở Tiểu Khu Định Quán để tiếp tế nhiên liệu, rồi bay đáp trở lại ở Phi Trường Long Bình.

Thêm một đêm nằm ngủ giữa trời sao trôi qua nhanh. Từ sáng sớm ngày 4 tháng 1 năm 1975, hai Biệt Đội đã túc trực chuẩn bị hành trang lên đường. Vào khoảng 9 giờ, đoàn Trực Thăng chở Biệt Đội 814 cùng Trung Tá Vũ Xuân Thông và BCH 1 Chiến Thuật cất cánh, bay cặp theo dòng Sông Bé về hướng Bắc, vừa qua khỏi Thị Xã Phước Long, đoàn Trực Thăng quay vòng trở lại hướng Nam, bay qua Sông Dak- Lung thì lần lượt đáp xuống lơ lửng trên một ngọn đồi, cây cối bị pháo địch bắn cháy, còn ngổn ngang gốc cành, nằm rãi rác khắp cả khu đồi, cách Thị Xã chừng 500 mét về hướng Bắc. Từ độ cao cách mặt đất khoảng 2 mét, các Trung Đội nhanh chóng nhảy xuống tìm nơi ẩn núp và phòng thủ, nhất là để tránh địch có thể trực xạ đại bác 75 ly từ đỉnh núi Bà Rá. Tôi đã được cấp trên cảnh giác về tình huống nầy. Bà Rá đã bị Việt cộng chiếm ngay ngày đầu năm Dương Lịch.

Bà Rá, Bà Đen và cả Mây Tào, là những ngọn núi cuối cùng của dãy Trường Sơn. Bà Rá có độ cao 7 trăm 36 mét, là con mắt và lỗ tai của Thị Xã Phước Long. Với vị trí chiến lược này, ngay từ đầu, Quân Đội VNCH đã đặt căn cứ trên đỉnh Bà Rá. Từ trên đó, chúng ta có thể quan sát khắp vùng, điều chỉnh và yểm trợ phi pháo cho các đơn vị Quân Đội, khóa họng súng của địch mỗi khi chúng pháo kích vào Thành Phố. Tại căn cứ nầy cũng có các Đài Truyền tin, phát tuyến, nối tiếp làn sóng với Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn III ở Biên Hòa và giữa các đơn vị trong và ngoài khu vực Thị Xã Phước Long.

Tình hình căn cứ Bà Rá bây giờ ở thế ngược. Sau khi chiếm được đỉnh núi nầy, địch được ba cái lợi: Bố trí phòng không 12.7 ly trên núi và 37 ly dưới chân núi, Việt cộng gây khó khăn cho các hoạt động của Không Quân ta. Cũng từ đây, địch có thể trực xạ đại bác 75 ly vào vị trí của chúng ta, và cũng từ đây, địch dễ dàng quan sát cả Thị Xã, các hướng tiến quân của ta để điều chỉnh pháo binh đang bố trí chung quanh Phước Long mà tác xạ chính xác, hiệu quả.

Trong khi Biệt Đội 814 và BCH 1 Chiến Thuật đang trên đường tiến quân, thì Biệt Đội 811 và Thiếu Tá Nguyễn Sơn Chỉ Huy Phó, cũng đang đổ bộ xuống một bãi trống, nằm chếch về hướng Tây Bắc của Thị Xã Phước Long, để từ đó cánh quân này sẽ tiến vào bắt tay phối hợp với Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu, với Tiểu Đoàn 2 Trung Đoàn 7 Sư Đoàn 5 và năm Tiểu Đoàn Địa Phương Quân, đang phòng thủ trong Thị Xã và Tòa Hành Chánh Tỉnh.

Biệt Đội 814 và BCH 1 Chiến Thuật tiếp tục băng qua các cánh đồng khô, các khu nhà, các dãy phố hoang tàn đổ nát, một vài nơi đã biến thành bình địa, không một tiếng súng, nhưng thỉnh thoảng đạn pháo địch vẫn nổ rải rác vài nơi trong trung tâm Thị Xã, mọi hiểm nguy vẫn chờ chực cận kề, thì ngay lúc này xuất hiện một chiếc xe jeep của BCH/ Tỉnh đến đón một mình Trung Tá Thông rời khỏi đội ngũ.

Tiêu diệt quân thù

Tiếp tục theo như lệnh đã được ban hành tại Căn cứ Hành Quân ở Suối Máu. Biệt Đội 814 tiến sát hơn vào bên trong Thị Xã, đơn vị trú phòng mà Biệt Đội 814 tiếp cận đầu tiên để cùng phối hợp tác chiến là Ty Cảnh Sát Quốc Gia, nằm ngay góc một ngã tư đường lộ chính, dẫn vào Trung tâm Thị Xã. Nơi đây tôi được tiếp xúc cùng Thiếu Tá Nguyễn Văn Tư, Trưởng Ty Cảnh Sát Quốc Gia, và qua Ông tôi nắm biết phần nào về lực lượng địch, cùng hệ thống bố phòng của các đơn vị bạn trên trục tiến quân của Biệt Đội 814. Dĩ nhiên Ông ta và các chiến hữu của Ông hết sức mừng rỡ khi có Biệt Cách Nhảy Dù đến tiếp ứng.

Vượt qua Ty Cảnh Sát, là Doanh Trại của Đại Đội Cảnh Sát Dã Chiến, cũng nằm ngay góc ngã tư đường kế tiếp, mặt trước là cổng chính ngó vô Thành Phố, mặt hông phải, bên kia đường là khu nhà dân, nhà cửa hầu hết tan hoang không còn nguyên vẹn, vài nơi vẫn còn lửa cháy âm ỉ, khói bốc lên lan tỏa mờ nhòa tầm quan sát cả một khu vực, không có đơn vị nào còn phòng ngự ở đây, kể cả trong phòng tuyến của Trại Cảnh Sát Dã Chiến, họ đã rút về bố phòng tại các giao thông hào của Ty Cảnh Sát.

Vừa lúc đó, thì đạn pháo của địch không biết xuất phát từ đâu đã rơi xuống nổ khắp nơi. Tôi tức tốc cho lệnh các Trung Đội lao xuống bố trí tại các hầm hố, giao thông hào bao quanh ba mặt trong Trại Cảnh Sát Dã Chiến, chuẩn bị sẵn sàng tác chiến, đề phòng địch mở đợt tấn công. Bỗng đâu một tiếng súng nổ chát chúa, phá thủng một “cô-nét” gần bờ rào chính diện gây tử thương cho Hạ Sĩ I Sơn, một hiệu thính viên của Biệt Đội, hai trái đạn kế tiếp nổ ngay trên đường, sát bờ rào Ty Cảnh Sát. Đây là những viên đạn Đại bác 75 ly do địch trực xạ từ trên đỉnh Núi Bà Rá. Pháo Binh của ta đã hoàn toàn tê liệt, không còn có khả năng phản pháo. Đạn pháo vừa ngưng, tiếng gầm rú của các xe tăng của địch lại từ từ tiến lên, không có bộ đội tùng thiết, xe tăng vừa chạy vừa quay nòng đại bác tác xạ như để áp đảo tinh thần đối phương, nhưng bọn chúng đã không ngờ đang đụng phải khắc tinh của chúng.

Từ bên trong các công sự chiến đấu, những hỏa tiễn M.72 của các xạ thủ Biệt Đội 814 đã dương cao sẵn sàng chờ đợi. Ầm..ầm..ầm, Hạ Sĩ I Ẩn và Hạ Sĩ Sáng, Trung Đội 2, đã tác xạ chính xác chiếc T.54 chạy đầu tiên, lửa đang rực cháy thiêu rụi toàn bộ đám địch quân. Hai T.54 kế tiếp vẫn trườn lên, ầm..ầm..ầm, chiếc trước đứng sững lại một chốc, xong tiếp tục chạy trườn tới tông sập đổ cột trụ đèn, rồi chạy thẳng ra bìa rừng hướng Tây Bắc, chiếc còn lại quay đầu, leo lấn lên lề đường, Thiếu Úy Nguyễn Tấn Mẫn, Trung Đội Trưởng Trung Đội 1, không chần chờ bắn ngay một quả M.72, đạn trúng bên hông trái, phía đàng sau đuôi, chiến xa địch hầu như chẳng hề hấn gì, vẫn cứ chạy trên đường lộ, về hướng Tây rồi mất hút trong màn đêm đang đổ xuống toàn Thị Xã Phước Long.

Đêm hôm đó, thời gian đang chầm chậm trôi đi trong yên tĩnh. Nhưng rất bất ngờ, Đại Úy Thứ gọi điện thọai thông báo: Trung Tá Thông ra lệnh cho các Biệt Đội Biệt Cách Dù sửa soạn rút quân, theo hai hướng khác nhau, BCH 1 Chiến Thuật, Đặc Huấn và Ban Quân Y sẽ rút về một hướng (?), còn Biệt Đội 811 và 814 sẽ rút lui theo một hướng khác (?).

Tôi thật qúa đổi ngạc nhiên, khó khăn lắm mới vào được đây để tiếp cứu, vừa chân ướt chân ráo, chưa được một ngày một đêm, và cũng chỉ mới đụng độ sơ khởi với địch, chẳng có tổn thất gì lớn lao, trầm trọng, mà sao Trung Tá Thông lại cho lệnh rút quân.

Tôi suy đoán, chắc có điều gì không ổn chăng ?. Hay cấp trên đã nhận thấy kế hoạch thả hai Biệt Đội Biệt Cách Nhảy Dù vào Phước Long, trong biển lửa này như những con thiêu thân, như đem muối bỏ biển, như đem con bỏ chợ, chỉ là làm vật hy sinh tế thần, nên đã cho lệnh triệt thối khẩn cấp ?.

Sáng hôm sau, ngày 5 tháng 1 năm 1975, Biệt Đội liên lạc với BCH 1 Chiến Thuật để am tường rõ ràng về kế hoạch rút quân, nhưng chẳng có động tĩnh hay lệnh lạc gì khác cả. Và nếu như theo đúng diễn tiến hành quân từ trước, thì Biệt Đội 814 sẽ tiến lên hướng Công viên Lệ Thủy, gần khoảng giữa Trung tâm Thị Xã, để bắt tay cùng các Đại Đội Trinh Sát, sau đó sẽ mở đường, giải tỏa áp lực địch để tiến vào Tòa Hành Chánh Tỉnh. Chưa kịp hành động, thì đạn pháo của địch bắt đầu tác xạ và nổ ầm ỉ khắp nơi. Trước hỏa lực pháo tới tấp này, với kinh nghiệm chiến đấu cùng giặc cộng ở mặt trận An Lộc, Quảng Trị, tôi biết chắc chắn trước sau gì địch cũng sẽ tấn công, nên cho Biệt Đội nằm yên tại các giao thông hào, chờ đợi nghênh chiến với lũ giặc cọng. Đúng y như tôi dự đoán, Việt cộng mở cuộc tấn công ào ạt, lực lượng chính của nó vẫn là xe tăng.

Bốn chiếc xe tăng T-54, không phải từ phía ngoài bìa rừng, hướng Tây, hướng Bắc hay hướng Đông, mà từ hướng Nam trong Thành Phố, tiến thẳng về phía phòng tuyến Cảnh Sát Dã Chiến mà Biệt Đội 814 đang trấn giữ. Hai bên mỗi xe tăng, là năm sáu tên bộ đội tùng thiết, cầm AK, CKC, B.40 và B.41 lom khom chạy theo. Tới ngã tư giao lộ, chúng chạy tản ra hai phía, như để bao vây, rồi xoay pháo tháp nổ súng bắn thẳng vào bên trong Đồn Cảnh Sát Dã Chiến.

Thiếu Úy Nguyễn Văn Ngọc, Trung Đội Trưởng Trung Đội 2, với M.72 trên vai, nhắm ngay chiếc T.54 đang rẽ hướng về phải, ngay trước tuyến phòng ngự. Lửa từ chiếc xe tăng bùng lên, bọn bộ đội tùng thiết hoảng loạn, chạy dạt vào một bên vệ đường, nhưng không còn kịp, Đại Liên 60, Phóng Lựu M.79, Lựu Đạn của Trung Đội 3 đã tiêu diệt chúng, không còn một tên sống sót. Chiếc T.54 kế tiếp vẫn liều lĩnh chạy tới, càn qua hàng rào kẽm gai, để tiến vào bên trong, nhưng đã bị các vòng dây kẽm gai cuộn, dính chặt trong các mắt xích, xe đứng khựng lại, ngay tức thì, Hạ Sĩ Dữ, một xạ thủ XM. 202 của Trung Đội 2 đứng lên tác xạ, quả đầu tiên bị trượt, quả thứ 2, thứ 3, thứ 4 đều trúng vào thành xe tăng, nhưng không kết quả gì, xe tăng vẫn gầm rú, nhưng chỉ nhúc nhích một hai thước. Không chần chờ, Thượng sĩ Hùng, Trung Đội Phó, cùng Trung sĩ Sơn, Tiểu Đội Trưởng, đã nhanh nhẹn bò lên, mở nắp pháo tháp, tung vào bên trong hai quả lựu đạn. Chiếc T.54 giờ đây đã hoàn toàn bất động. Dĩ nhiên, không có tên nào trong và ngoài xe có thể sống sót, không có “phép lạ” đến với chúng cả, dù là phép lạ của ông Lenin, ông Mác, ông Mao hay ông Hồ. Có một điều kỳ lạ, là đã hai ba lần sử dụng M.72 và XM.202 tác xạ diệt tăng, nhưng đều không hiệu quả, chẳng lẽ hai loại hỏa tiễn nầy chưa thích ứng hoặc vô hiệu với chiến thuật diệt xe tăng hay Việt cọng rút kinh nghiệm, có thể chúng che chắn thêm cho xe tăng bằng một thứ vật liệu gì đó, khiến trái hỏa tiễn không thể xuyên thủng được.

Hai chiếc T.54 chạy về hướng cổng chính của Đại Đội Cảnh Sát Dã Chiến và Ty Cảnh Sát cũng đã bị Trung Đội 3 và 4 dưới sự chỉ huy của Chuẩn Úy Chuyển và Chuẩn Úy Lân, đã chận đứng và tiêu diệt hai đợt xung phong của đám bộ đội tùng thiết, và sau khi sử dụng M.72 bắn nhưng không chận đứng được chiếc T.54 đang húc đổ cổng trại Cảnh Sát Dã Chiến, Tổ vũ khí nặng, dưới sự điều động của Trung Úy Qúi, Biệt Đội Phó, đã mang Đại bác 90 ly không giựt tác xạ phá hủy, lửa bốc cháy hừng hực, đã làm cho chiếc T.54 theo sau quay bánh xích, gầm rú tháo chạy mất dần về hướng cũ, sau những khu nhà đổ nát, mờ mịt bụi khói mù trời. Trời tối, đêm dần dần trôi qua trong lo lắng.

Sơ Đồ Mặt Trận Phước Long

Tờ mờ sáng ngày 6 tháng 1 năm 1975, Việt cọng cố dứt điểm trận chiến Phước Long. Sau nhiều đợt pháo kích dữ dội bằng đại pháo, không riêng gì ở Núi Bà Rá, mà tất cả các phía chung quanh, nã vào cái Tỉnh Lỵ nhỏ bé mỗi bề chưa tới nửa cây số, như rải cát trên đầu chúng tôi vậy. Không nơi nào không bị đạn pháo cày xới tơi tả. Quân địch dốc toàn bộ 2 Tiểu Đoàn Xe Tăng và các Trung Đoàn Bộ Binh của Sư Đoàn 3 và Sư Đoàn 7 tràn ngập các cứ điểm còn lại của Quân Đội ta đang trú phòng.

Từ dưới phố, từ bìa rừng hướng Tây Tây Nam, xe tăng địch ào ạt chạy lên đông vô số kể. Thật ra, không phải đông vô số kể, nhưng ít ra cũng phải đếm bằng con số chục, không phải bằng con số lẻ. Tình hình nầy thì “căng lắm đây”, tôi thầm nghĩ!. Biệt Đội 814 không có đủ Hỏa tiễn M-72, lại không có loại mìn tự chế của Đại Tá Huấn như ở trận Bình Long, hai cấp số đạn dược mang theo cũng đã tiêu tán trong hơn một ngày qua, trong khi tình trạng tiếp tế rất khó khăn. Ở cứ điểm núi Bà Rá, với nhiều loại vũ khí phòng không, hầu như địch quân đã khống chế bầu trời Phước Long. Máy bay yểm trợ của Sư Đoàn 3 Không Quân Biên Hòa, không bay thấp được, dù là máy bay tiếp tế hay oanh tạc cơ, còn trên đường bộ thì xe tăng của chúng đang đầy rẫy khắp các ngỏ ngách, để chuẩn bị cho một cuộc tấn công qui mô.

Trong khi tại Đồn Cảnh Sát Dã Chiến, Biệt Đội đang tả xông hữu đột, vật vả chống trả các đợt tấn công của bộ binh địch và xe tăng ở hướng bên hông và hướng trước mặt thành phố, thì bất ngờ, một đơn vị Việt cọng khác, từ phía Ty Cảnh Sát, đã vượt rào cản, tràn lên đánh ập vào hậu tuyến Biệt Đội, nhưng bọn chúng gặp phải sức kháng cự của Ban Chỉ Huy Biệt Đội, đã sử dụng lựu đạn và M.79 tiêu diệt hơn 10 tên địch quân. Lúc bấy giờ, tôi mới biết là Ty Cảnh Sát đã hoàn toàn bỏ trống, toàn bộ nhân viên trong Ty và Cảnh Sát Dã Chiến đã di tản, tháo chạy từ trong đêm hôm qua.

Ngay trong thời điểm đang phải chiến đấu cam go, nóng bỏng, hiểm nguy như thế này, thì Âm thọai viên Biệt Đội cho tin: “Đại Úy Thứ vừa gọi máy, thông báo lệnh của Trung Tá Thông, toàn bộ đơn vị sẳn sàng rút quân. Lại rút quân !!!”..

Nghe tin, chưa kịp định thần, thì ba bốn chiến xa T.54 của địch đã cán sập tường rào, lù lù càn tới, bất kể sự phản công mãnh liệt của Biệt Đội. Đại bác 75, XM.202, M.72 hết hiệu quả tác xạ trong tầm quá ngắn, chỉ còn Đại Liên, XM.16, M.79 và lựu đạn là còn xử dụng, để tiêu diệt đám cộng quân tùng thiết, đang la hét khủng hoảng tinh thần đối phương và chận đứng các xe tăng địch, đang nặng nề xoay chuyển trong Doanh Trại Cảnh Sát Dã Chiến, với đầy dẫy kẽm gai và công sự.

Đã quá trưa, tình hình chiến sự trong toàn khu vực vẫn còn sôi động, cộng quân không ngừng pháo và tấn công khắp nơi. Tôi vẫn bình tĩnh chỉ huy Biệt Đôi. Một mặt vẫn giử liên lạc với Bộ Chỉ Huy 1 Chiến Thuật để nhận chỉ thị, một mặt biết chắc không thể tiếp tục đối đầu cùng địch, trước những đàn chiến xa mỗi lúc mỗi gia tăng. Tuân hành theo lệnh rút quân đã được ban hành từ Trung Tá Thông, mà cũng nhằm để bảo toàn lực lượng, tôi quyết định rút Biệt Đội ra khỏi Đồn Cảnh Sát Dã Chiến, di chuyển khoảng 1 cây số, về hướng Đông Bắc, chiếm lĩnh lợi thế trên một đồi rừng non, đâu lưng với sông Dak-Lung chừng 500 mét. Các Trung Đội dàn trải đội hình bao quanh đỉnh đồi, đào hầm hố, bố trí sẵn sàng nghênh chiến. Và, y như rằng, không đợi lâu, bọn Việt cọng đã đuổi theo truy kích, chúng lố nhố, vừa leo đồi vừa nổ súng bắn tới tấp, bất chấp sự phản công ác liệt của các Chiến sĩ Biệt Cách Dù Biệt Đội 814 từ trên cao điểm. Tuy nhiên, sau hơn hai giờ giao tranh, mặc dù Biệt Đội tiêu diệt được nhiều địch quân, chận đứng kịp thời các đợt xung phong, tiến chiếm đỉnh đồi của địch, nhưng Biệt Đội đã phải hy sinh Thượng Sĩ Thủy Trung Đội Phó và B.1 Tài khinh binh, riêng Trung Đội Trưởng Trung Đội 2, Thiếu Úy Nguyễn Văn Ngọc thì bị trọng thương, máu chảy lênh láng, Trung sĩ Đức Y Tá Biệt Đội phải sử dụng nhiều lượng thuốc cầm máu, rửa sạch vết thương, nẹp cây hai bên cánh tay để băng bó mới dứt hẳn được.

Ngay trong lúc này, hai công việc tôi phải làm: Việc trước tiên là tiếp tục liên lạc vô tuyến với Bộ Chỉ Huy 1 Chiến Thuật và được biết BCH đã rút ra khỏi Tòa Hành Chánh Tỉnh. Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu Phước Long hầu như đã bị Việt cọng chiếm cứ mất rồi. Giờ này chắc Trung Tá Thông, Thiếu Tá Sơn, đang trên đường bôn tập, không biết có được an toàn? Nếu có nhanh chân tẩu thoát được, thì đang ẩn núp, lẩn trốn đâu đó. Việc thứ hai, dù khó khăn, nguy hiểm thế nào đi chăng nữa, dưới tầm pháo địch, Biệt Đội cũng phải đào hố chôn cất thi hài Thượng Sĩ Thủy và Binh I Tài, những chiến binh đã Anh Dũng Hy Sinh đền nợ Nước.

Trời chiều xuống dần, cả một không gian mờ nhạt bao trùm Tỉnh Lỵ Phước Long, trong giờ phút này đã hoàn toàn rơi vào tay giặc cộng. Thấp thoáng từ xa, một vài đám cháy rãi rác trong Thị Xã, thỉnh thoảng bùng sáng lên, rồi lại lụn tắt dần cùng với ánh chiều tà.

Phước Long thật sự đã mất, mất theo với Đại Tá Nguyễn Thống Thành, Tỉnh Trưởng Tỉnh Phước Long, với Trung Tá Quận Trưởng Quận Châu Thành, với Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 2 Sư Đoàn 5 Bộ Binh và còn nhiều nhiều Quân Dân Cán Chính khác nữa, làm sao kể xiết.

Liên lạc với Bộ Chỉ Huy 1 Chiến Thuật để báo cáo tình hình và kế hoạch rút quân, nhưng đường vô tuyến bị nhiễu loạn. Không thể chậm trể, chiến trường đã phó mặc cho tôi chỉ huy chiến đấu sống còn, thì tự tôi phải biết định đoạt vận mạng cho các Chiến sĩ và bản thân. Chỉ cần một đợt pháo hỏa tập của địch, cùng với sự hợp đồng tác xạ đại bác 75 ly từ đỉnh Núi Bà Rá, thì Biệt Đội 814, tất cả đều sẽ trở thành cát bụi.

Núi Bà Rá

Không còn chần chờ, mạng sống của trên 150 Binh sĩ Biệt Đội 814 đều nằm trong giải pháp dứt khoát của tôi. Lợi dụng màn đêm buông xuống, tôi ra lệnh cho các Trung Đội cấp tốc, lặng lẽ rút xuống đồi, di chuyển về hướng Đông Bắc tiếp cận bờ sông Dak-Lung, nơi đây bằng mọi giá, ngay trong đêm, phải tìm cách vượt sông Dak-Lung. Qua bên kia sông, Biệt Đội sẽ được an toàn hơn.

Dòng sông Dak-Lung nước chảy xiết, rất mạnh. Hai bờ sông cách nhau khá xa, ít nhất là 50 mét. Một số Binh sĩ không biết bơi, với vũ khí đạn dược còn lại trên người, sẽ không an toàn tính mạng. Sau một thoáng suy nghĩ, tôi quyết định cho một Toán Tiền Sát dưới sự chỉ huy của Trung Úy Biệt Đội Phó Nguyễn Văn Qúi, đi ngược bờ sông hy vọng sẽ tìm thấy một khúc sông hẹp hơn.

Cũng trong lúc này, đức tin của một Phật Tử trổi dậy trong lòng, tôi chắp tay ngưỡng mặt lên trời với vô số vì sao, thầm cầu nguyện đến Đức Quán Thế Âm Bồ Tát, hầu mong Đấng Từ Bi gia hộ phù trì cho tôi tìm ra sinh lộ, đưa Biệt Đội thoát cơn nguy biến. Và như linh ứng hay là một trùng hợp thiêng liêng, chỉ sau một quãng thời gian ngắn, Trung Úy Qúi báo về, đã tìm thấy được mấy cái bè tre của người Thượng Stieng cư ngụ vùng nầy bỏ lại, đang neo đậu bên một lùm cây cổ thụ.

Nhờ vào khả năng bơi lội của người vùng biển Nha Trang, Trung Úy Qúi đã đưa một Tiểu Đội qua sông, và trong sáng kiến chung, những sợi dây rừng, dây ba chạc, dây dù “mưu sinh thoát hiểm” được nhanh chóng kết nối, nhờ vậy mà cả Biệt Đội lần lượt vượt sông nhanh chóng, chỉ trong vòng 3 tiếng đồng hồ, trong im ắng nhưng cũng đầy bất trắc có thể xảy ra.

Trong ngày qua, hôm nay và ngay thời điểm này, rất đông đồng bào Tỉnh Lỵ Phước Long, đã liều chết băng qua cây Cầu Thác Mơ, nằm về hướng Đông Thị Xã, bắc ngang sông Dak-Lung. Việt cộng tuy không ra đón đường ngăn chặn đồng bào, nhưng từ nhiều phía, chúng đã rót pháo vào đoàn người chạy giặc, nhiều thường dân không nhanh chân, đã bị chết hay bị thương, không người cấp cứu, nằm lăn lóc trên bờ đường, phía bên này và bên kia cầu. Cũng như ở Quảng Trị, cũng như ở Bình Long năm 1972, Việt cộng đã gây nên ở đây, một “Đại Lộ kinh hoàng” giữa rừng hoang, đem lại thảm khốc cho người dân lành vô tội.

Lẫn lộn trong đám người chạy loạn đó, có một số Quân Nhân, Cán Bộ, Cảnh sát… trong giờ phút này không thể phân biệt được. Họ đã nhập đàn, lũ lượt cùng với Biệt Đội 814, để vạch lá băng rừng chạy thoát giặc cộng.

Suốt đêm, Biệt Đội cứ theo La Bàn nhắm về hướng Đông Đông Bắc mà đi, đi mãi, không ai nghỉ ngơi hay chợp mắt ngủ. Tôi tránh không đi lên hướng Đông Bắc, phía có mật khu Bù Gia Mập. Đó là phía cọng quân di chuyển, tiếp tế hoặc tăng viện cho chiến trường Phước Long.

Theo hướng Đông Đông Bắc, đường đi Gia Nghĩa, Bảo Lộc, dẫu sao cũng an toàn, bất ngờ hơn, dù rừng rậm, rất hiểm trở, nhưng hy vọng không phải đụng độ với địch quân. Đồng Bào đang đi theo sau Biệt Đội, nếu có chạm địch, chắc chắn cộng quân sẽ không ngần ngại khi bắn vào dân chúng, thiệt hại không nhỏ.

Khi mặt trời lố dạng, nhìn vào tấm Bản Đồ thì Biệt Đội đã vượt xa hơn 10 cây số.

Biệt Đội 814 vào trận ngày 4 tháng 1. Phước Long thất thủ hôm qua, ngày 6 tháng 1. Đã một đêm, một ngày trôi qua, tầng số máy PRC.25 truyền tin cứ bị giao thoa, nhiễu sóng, chẳng liên lạc được ai và chẳng ai liên lạc được. Di chuyển suốt cả ngày, chỉ ăn qua loa, cầm chừng bằng gạo sấy, không có nước sôi, không một phút nghỉ ngơi, chợp mắt. Với tình trạng này, đêm nay không cho Biệt Đội lấy lại sức, lỡ bất ngờ tao ngộ chiến, Biệt Đội không còn một chút hơi tàn nào để cầm cự.

Sáng hôm sau, Biệt Đội tiếp tục lên đường. Nhìn lại đoạn đường Biệt Đội đã đi qua, thì Phước Long bấy giờ đã quá mịt mù, xa lắc xa lơ. Rừng núi từ đây tương đối thấp dễ đi, thỉnh thoảng có nhiều con suối nước trong và chảy xiết. Khoảng gần trưa, Biệt Đội vừa băng qua một trảng trống, thì Hạ Sĩ Huệ, truyền tin Biệt Đội, với bộ mặt mừng rỡ, trao ống bồ đàm cho tôi và nói:

– “Đại Úy, Thái Dương đang gọi Đại Úy”.

Đây là lần đầu tiên liên lạc được với cấp Chỉ Huy cao nhất của Liên Đoàn: Đại Tá Chỉ Huy Trưởng Phan Văn Huấn, sau gần một tuần lễ chiến đấu và bôn tập. Tiếng nói từ Đại Tá đã xoa dịu được phần nào nỗi trầm uất của một đội quân chiến bại, đang trên đường cao bay xa chạy.

Suốt ngày nay, vị Chỉ Huy Trưởng Liên Đoàn không ăn không ngủ. Thất lạc những đứa con: Biệt Đội 811 và 814 cùng Bộ Chỉ Huy 1 Chiến Thuật, Đại Tá Huấn lo lắng, bồn chồn như ngồi trên đống lửa.

Ông liên tục theo Phi cơ Quan Sát L.19, bay miết trên vòm trời cao của Phước Long, để tìm kiếm cho ra những chiến binh của mình. Hỏa tiễn Việt cộng bắn lên dữ dội, khiến Ông phải dùng L.19 cho được an toàn. Có khi Ông muốn dùng trực thăng, bay thấp hơn, để dễ tìm thấy, nhưng cao xạ phòng không của địch vẫn là mối đe dọa, không thể liều lĩnh được.

Vậy là sau hai đêm, hai ngày, Đại Tá Huấn tìm ra được Biệt Đội 814.

Sau khi chấm tọa độ chính xác vị trí của Biệt Đội đang dừng quân. Theo hướng dẫn của Đại Tá từ trên Phi cơ L.19, Biệt Đội rẽ về hướng chính Đông, lội qua một con suối, đi chừng khoảng nửa cây số thì dừng quân bố trí tại một trảng tranh rộng nằm lọt giữa một khu rừng tre dày đặc.

Không đầy một giờ đồng hồ sau, một đoàn Trực Thăng UH.1B tuần tự đáp xuống, bốc Biệt Đội 814 đưa về Căn cứ Hành Quân tại Suối Máu, Biên Hòa. Tiếp theo sau là số Quân Dân chạy loạn. Tất cả cũng đều được Đại Tá Huấn đưa về Biên Hòa, chuyển giao cho Quân Đoàn III, Phòng Xã Hội chăm sóc.

Khi tôi vừa từ Trực Thăng phóng ra là đã thấy một số đông phóng viên báo chí, truyền thanh, truyền hình đứng đầy trên bãi. Phước Long mất đã hai ngày nay rồi. Dân chúng Saigon giao động, lo lắng. Bóng ma cộng sản gần kề hơn!!!

Đang bắt tay cùng các chiến hữu, với nét mặt vui tươi, mừng rỡ, chào đón Biệt Đội tôi sống sót trở về từ cỏi chết, thì một cô gái người nhỏ nhắn, mảnh mai, trong bộ trang phục quần Tây dài, áo bốn túi, màu xanh nhạt, bước đến bên tôi, vừa bắt tay vừa tự giới thiệu tên là: “Thục Viên, phóng viên Nhật Báo Sóng Thần, muốn phỏng vấn…”

Tôi chưa kịp nói gì cả, cảm thấy chân tay như rã rời, chỉ thèm được uống một ly cà phê đá, hay một ly soda chanh cho đã cái khát chất chứa trong suốt mấy ngày qua. Nhưng, miễn cưỡng, tôi nghĩ cũng khó mà từ chối trước lời đề nghị nhiệt thành và đầy thân thiện của cô ta. Thế là một hai câu hỏi và trả lời bắt đầu và trôi qua.

Về sau, tình cờ tôi đọc được bài phỏng vấn này trên Nhật Báo Sóng Thần, với lời mở đầu đầy hài tính, nhưng phản ảnh trung thực về cá tính của con người tôi:

“Sau khi Phước Long thất thủ, các đơn vị tham chiến tại đây, trong đó có Bộ Chỉ Huy 1 Chiến Thuật và hai Biệt Đội Biệt Cách Nhảy Dù đã phải tìm đường thoát nạn. Sau hai ngày hai đêm băng rừng, vượt núi, đơn vị đầu tiên được Đại Tá Phan Văn Huấn tìm thấy và đưa trở về lại căn cứ hành quân trú đóng tại Biên Hòa, đó là Biệt Đội 814 do Đại Úy Lê Đắc Lực chỉ huy.

Đại Úy Lê Đắc Lực, người cao to, có để bộ râu mép đậm dài, tướng đi bệ vệ trông chẳng khác gì một con gấu. Nhưng khi tôi tiếp xúc phỏng vấn thì thấy Đại Úy Lực rất hiền lành, trả lời câu hỏi từ tồn, nhã nhặn, chân tình, nhìn Đại Úy Lực lúc này thì lại giống như một con nai, phản ảnh trái ngược hoàn toàn với tướng dáng con người của Đại Úy Lê Đắc Lực……”

Ngay chiều hôm đó và qua sáng ngày hôm sau, Đại Tá Phan Văn Huấn đã tìm và đưa được Biệt Đội 811, Đại Úy Trương Việt Lâm, cùng Trung Tá Thông, Thiếu Tá Sơn và một số Quân nhân của Bộ Chỉ Huy I Chiến Thuật trở về. Nhưng Liên Đoàn và riêng Đại Tá Phan Văn Huấn, vẫn mang nặng nỗi đau buồn lớn lao khi đã để lại tại chiến trường Phước Long một số xác thân của các Chiến sĩ Biệt Cách Nhảy Dù đã hy sinh, và còn nhiều quân nhân khác vẫn chưa tìm thấy, mà sau này được biết đã bị Việt cọng bắt làm tù binh bao gồm: Trung Úy Đức, Chuẩn Úy Cấp, Chuẩn Úy Phước (BCH.I / CT), Thiếu Úy Long, Chuẩn Úy Bảo, Chuẩn Úy Lịch, Chuẩn Úy Linh (BĐ.811). Mãi cho đến ngày Miền Nam sụp đổ họ mới được trở về, để rồi sau đó không lâu lại phải đi tù “ cải tạo” khổ sai.

Trên bãi Trực Thăng dã chiến, tại Căn cứ Hành Quân Suối Máu, Biên Hòa, một Nghi Lễ được tổ chức để tưởng thưởng Huy Chương, Cấp Bậc cho hai Biệt Đội Biệt Cách Nhảy Dù và Bộ Chỉ Huy 1 Chiến Thuật “bại trận trở về”.

Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn, vừa thay thế Trung Tướng Dư Quốc Đống, trong chức vụ Tư Lệnh Quân Đoàn III, đứng trước mặt tôi, cầm chiếc Huy Chương Anh Dũng Bội Tinh với Nhành Dương Liễu, dí hai mũi kim vào trên nắp túi áo trái ấn mạnh, kim chạm vào ngực làm hơi buốt nhói, tôi cảm nhận máu đang ứa rỉ bên trong, nhưng đó chỉ là những bụi máu nhỏ so với muôn ngàn dòng máu thắm mà Đồng Đội tôi, Chiến Hữu tôi của Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù, của các Quân Binh Chủng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, đã chảy đổ ra để hiến dâng cho Tổ Quốc, trong suốt chiều dài của cuộc chiến tranh Quốc cộng. Tôi bắt chặt tay Trung Tướng Tư Lệnh, rồi kính cẩn chào trong nỗi xót xa, đau đớn tận cùng.

Và tôi đã khóc, vì tôi cảm thấy chưa hoàn thành sứ mạng: “Bảo Quốc An Dân ”.

Sống chết bên nhau
Sau khi rời khỏi chức vụ biệt đội trưởng để đảm nhận trưởng Khối Chiến Tranh Chính Trị Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù, tôi có thì giờ và có nhu cầu theo dõi tình hình quân sự và chính trị nhiều hơn. Ngoài những hành động gây chiến giành dân lấn đất, bọn Cộng sản đang thăm dò thái độ của Mỹ sau khi họ ký Hiệp Định Paris năm 1973.

Trước chủ trương “thay đổi màu da trên xác chết,” Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa càng ngày càng gặp nhiều khó khăn hơn về tình hình chiến đấu và tiếp liệu. Việc “một đổi một” không được thi hành vì theo lệnh của Ngũ Giác Đài, Hoa Kỳ cắt giảm viện trợ cho VNCH. Tình hình chính trị kể từ đầu năm 1975 càng xáo trộn hơn, nhiều phong trào nảy sinh nhằm hạ uy tín của không những cá nhân tổng thống mà toàn bộ chính quyền miền Nam. Đó là mục đích của Phong Trào Phụ Nữ Đòi Quyền Sống, Ký Giả Đi Ăn Mày và Phong Trào Chống Tham Nhũng. Phong trào này được tổ chức toàn cõi VNCH. Dĩ nhiên, tình hình xáo trộn này ảnh hưởng đến tinh thần chiến đấu của Binh sĩ VNCH, khiến họ phải suy nghĩ về việc làm của họ. Không lý họ chiến đấu cho một chính quyền tham nhũng, đang bóc lột người dân mà họ đang bảo vệ.

Quan trọng hơn nữa, viện trợ ảnh hưởng đến khả năng tác chiến của binh sĩ. Đạn dược, xăng nhớt thiếu, nên khả năng vận chuyển binh lính bị hạn chế. Tình trạng này ảnh hưởng trực tiếp đến các đơn vị Nghĩa Quân, Địa Phương Quân, các sư đoàn Bộ Binh hơn là ở các lực lượng Tổng Trừ Bị, trong đó có Biệt Cách Nhảy Dù. Trong giai đoạn này, câu binh thư “Thực túc binh cường” ám ảnh trí óc tôi không ít. Binh sĩ của Liên Đoàn còn đủ “thực túc,” nhưng gia đình họ gặp khó khăn không ít trong đời sống hằng ngày.

1) Rút khỏi căn cứ hành quân, Biên Hòa:

Sau khi chiếm Phước Long ngày 6 Tháng Giêng, năm 1975, quân Cộng sản chiếm Ban Mê Thuột ngày 10 Tháng 3 cùng năm đó. Rõ ràng, như trong bài trước đã trình bày, đánh Phước Long, là Cộng sản thăm dò phản ứng của Mỹ. Thấy Mỹ bất động, lại còn cắt viện trợ cho Việt Nam Cộng Hòa, Cộng sản thấy thời cơ đã tới, làm tới luôn, mở đầu chiến dịch tổng tấn công miền Nam bằng trận đánh lớn kế tiếp: Ban Mê Thuột.

Mặc dù tình hình căng thẳng, ngày càng nặng nề, hoạt động của Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù vẫn bình thường. Theo lệnh của Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn III, Đại tá Phan Văn Huấn đã cho rút Bộ Chỉ Huy nhẹ của Trung tá Nguyễn Văn Lân, từ Tây Ninh về lại Căn cứ Hành Quân Biên Hòa, để lại Biệt Đội 813 do Trung úy Lại Đình Hợi chỉ huy, tăng cường phòng thủ cho chiến trường Tây Ninh. Điều động Bộ Chỉ Huy 3 Chiến Thuật, do Thiếu tá Phạm Châu Tài chỉ huy, gồm 3 Biệt Đội 811, 817 và 818 đến bảo vệ Bộ Tổng Tham Mưu.

Riêng tại căn cứ hành quân Suối Máu Biên Hòa, Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn do Đại tá Phan Văn Huấn chỉ huy và 2 Bộ Chỉ Huy Chiến Thuật 1 và 2, với quân số các biệt đội còn lại lên tới 2,000 binh sĩ, vẫn bố phòng ở mặt Bắc phi trường Biên Hòa, sẵn sàng chiến đấu. Các toán Thám Sát vẫn được thả vào Chiến Khu D để do thám, thu nhặt tin tức các hoạt động của địch.

Trưa ngày 28 Tháng Tư, Trung tướng Nguyễn Văn Toàn tư lệnh Quân Đoàn III họp tất cả đơn vị trưởng, chỉ huy trưởng các đơn vị đang đồn trú ở địa phương. Trong buổi họp, Trung tướng Nguyễn Văn Toàn thông báo tình hình quân sự tuyệt vọng ở Quân Khu III, và ra lệnh tất cả các đơn vị rút về phòng tuyến mới, dọc theo Xa Lộ Đại Hàn, Thủ Đức, để bảo vệ Thủ Đô Sài Gòn. Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù là đơn vị rút cuối cùng, có nhiệm vụ bảo vệ Cầu Biên Hòa, trên Quốc Lộ 1, gần ngã ba đường đi vào Núi Bửu Long, để toàn bộ binh sĩ rút qua khỏi cầu này được an toàn.

Cũng trong ngày hôm ấy, Bộ Tổng Tham Mưu hầu như có kế hoạch cho trực thăng đến đón các cấp chỉ huy di tản khỏi Việt Nam. Nhưng đối với Đại tá Huấn thì ông đã từng tuyên bố khẳng định: “Tôi có vợ và 8 con. Tôi có thể bỏ lại gia đình, nhưng không thể bỏ lại 2 ngàn chiến sĩ của tôi để mà ra đi trong hoàn cảnh như thế này được.”

Và Đại tá Huấn đã ở lại với binh sĩ của ông, cho đến giây phút cuối cùng, khi có lệnh buông súng đầu hàng của tân Tổng Thống Dương Văn Minh, tổng tư lệnh tối cao Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.

Ngay trong đêm 28 Tháng Tư, Đại tá Phan Văn Huấn ra lệnh Biệt Đội 812 đến canh giữ cầu Biên Hòa, để ngăn cản đường tiến quân của giặc cộng, không cho bọn chúng phá sập. Sáng sớm hôm sau, liên đoàn rời khỏi căn cứ hành quân Suối Máu, khi đoàn quân vừa rút qua khỏi cầu, thì cũng vào lúc đó, qua làn sóng Đài Phát Thanh Sài Gòn đã nghe được lệnh của Tân Thủ tướng Vũ Văn Mẫu, người vừa lên thay thế cho ông Trần Thiện Khiêm, đã đào thoát sang Đài Loan, yêu cầu toàn thể người Mỹ phải cấp tốc rút ra khỏi miền Nam Việt Nam trong vòng 24 giờ. Tin tức này đã gây hoang mang không ít đến tinh thần chiến đấu của binh sĩ.

Đoàn quân Biệt Cách Nhảy Dù, theo thứ tự được phân định, từ từ di chuyển trên Quốc Lộ 1, hướng về Sài Gòn. Đến gần xế chiều, khi cánh quân vừa đến Tân Vạn, thì trời sập tối. Mặc dù, đang đứng trước tình hình bi đát, Đại tá Phan Văn Huấn vẫn liên tục dùng máy truyền tin liên lạc nhiều nơi, từ Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn III, tới Bộ Tổng Tham Mưu, cũng như các đơn vị bạn ở địa phương, nhưng hoàn toàn im lặng vô tuyến, không một ai phản hồi. Như “rắn mất đầu,” Đại tá Huấn ra lệnh cho Bộ Chỉ Huy và tất cả các biệt đội rút vào đóng quân qua đêm trong rừng Cù Mi, chờ lệnh thượng cấp. Nhưng suốt đêm lặng lẽ trôi qua, vẫn chẳng có một tín hiệu liên lạc nào cả.

Sáng hôm sau, ngày 30 Tháng Tư, Đại tướng Dương Văn Minh ra lệnh cho Quân Đội VNCH buông súng đầu hàng. Đại tá Huấn liền cho đơn vị rời khỏi rừng Cù Mi, băng rừng, vượt đồi, tiếp tục cặp theo Quốc Lộ 1, di hành theo hướng Nam đến quận lỵ Thủ Đức. Trên trục đường này, Liên Đoàn đã phát hiện, từ hướng Sài Gòn về Biên Hòa, rất nhiều toán thanh niên chỉ mặc áo lót, quần “xà lỏn,” tay cầm giấy tờ tùy thân, chạy chân đất hớt ha hớt hải. Chận một vài người lại hỏi mới biết họ là lính Bộ Binh và Địa Phương Quân, bị Việt cộng bắt tước vũ khí, cởi bỏ quân phục, mũ nón, giày vớ, mới thả cho về nhà. Sự kiện này có thể làm cho tinh thần binh sĩ Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù dao động! Tuy nhiên, đây là 1 đơn vị quân đội thiện chiến và kỷ luật. Tất cả vẫn giữ nguyên đội ngũ, từ Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn đến các Biệt Đội, 4 hàng dọc ngay hàng thẳng lối chậm rãi bước đi. Từng đoàn xe Molotova, chở đầy bộ đội Việt cộng chạy song hành, chúng nhìn các Chiến Binh 81 Biệt Cách Nhảy Dù với những ánh mắt đầy kinh ngạc, sửng sốt, lạ lùng.

Là 1 cấp chỉ huy gương mẫu, giữ kỷ luật nghiêm minh, Đại tá Phan Văn Huấn chấp hành lệnh của tổng tư lệnh tối cao Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa sau khi đã họp tất cả các cấp chỉ huy Liên Đoàn, để cùng đi đến một quyết định chung.

Đoàn quân 81 Biệt Cách Nhảy Dù vẫn hiên ngang tiếp bước trên xa lộ Đại Hàn. Đến gần trưa, khi qua khỏi Lăng Chú Hỏa chừng 100 mét, trong khi dừng lại nghỉ ngơi gần ngã tư Thủ Đức và xa lộ Đại Hàn, thì 1 đơn vị bộ đội Việt cộng đã đến gặp Đại tá Phan Văn Huấn để nhận giao nạp vũ khí. Đại tá Huấn đã nói với họ: “Chúng tôi đã ra đến nơi đây là chấp nhận đầu hàng. Chúng tôi sẽ bàn giao vũ khí, nhưng mong các ông không bắt buộc chúng tôi phải cởi bỏ quân phục như một số quân nhân các đơn vị bạn đang chạy qua đây...”

Họ chấp nhận yêu cầu. Thế là từng chiến binh một tự tước bỏ vũ khí, đạn dược, nón sắt vào điểm chỉ định. Sau đó, họ ôm choàng nhau, siết chặt nhau, nhiều người đã bật khóc, để rồi lẳng lặng, ngậm ngùi, chia tay mỗi người mỗi ngả.

Trước 1 đơn vị quân đội hơn 1 ngàn người, giữ kỷ luật, trật tự cho đến giây phút chót trong đời quân ngũ, quân Cộng sản không thể không tỏ lòng kính trọng và nể phục. Dẫu sao đây cũng là 1 đơn vị thiện chiến lừng danh mà bộ đội Việt cộng đã từng kinh hãi, khiếp sợ, kiêng dè trong các trận đụng độ trên khắp các chiến trường. Nếu bây giờ mà không linh hoạt nhân nhượng để tỏ ra là “hảo hán anh hùng,” thì chắc rằng họ sẽ phải gánh chịu thêm 1 tổn thất nặng nề, khi các chiến sĩ Biệt Cách Dù từ bỏ quyết định buông súng đầu hàng, quyết tử chiến một mất một còn đến giọt máu cuối cùng với bọn chúng.

Sau đó, 1 cấp chỉ huy của họ đến gặp Đại tá Huấn, đề nghị để họ cho xe đưa các sĩ quan của đơn vị về Sài Gòn. Không muốn để cho các sĩ quan của mình đi thất thểu trên đường về nhà, trên một lộ trình quá xa và đầy rủi ro, đại tá đã đồng ý nhận lời.

Vài ba chiếc xe Molotova được điều đến, tất cả các sĩ quan cùng một số binh sĩ lên xe. Đến Làng Đại Học Thủ Đức, Đại tá Huấn nghĩ lại, không thể để sĩ quan của mình vào Sài Gòn bằng xe Molotova của địch. Việc ấy có thể gây hiểu lầm và cũng không vẻ vang gì cho kẻ đầu hàng. Do đó, Ông yêu cầu dừng lại, các sĩ quan, binh sĩ rời khỏi xe, cùng ôm chặt lấy nhau lần cuối, rồi tự động tản hàng, với nỗi đớn đau ê chề bất tận.

Vậy là chấm dứt 20 năm quân ngũ, một đời chiến đấu vì Dân vì Nước của ông thầy tôi. Tôi không thể không nói đôi lời, tỏ bày lòng cảm mến của tôi đối với ông thầy:

Đại tá Phan Văn Huấn, xuất thân Khóa 10 Võ Bị Đà Lạt, là 1 sĩ quan kỷ luật, tài ba, gặt hái nhiều chiến công trong cuộc đời 20 năm cầm súng chiến đấu. Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù đánh giặc giỏi, áp dụng nhiều chiến thuật thích ứng với chiến trường Việt Nam, bách chiến bách thắng, đến tới đâu đồng bào hoan hô, ngưỡng phục tới đó, cũng là nhờ ở đại tá. Không có Đại tá Phan Văn Huấn, Biệt Cách Nhảy Dù không chắc đạt được các chiến thắng vang dội ấy trên khắp mọi chiến trường, ở thành phố cũng như trong các mật khu của địch.

Điều đáng nói hơn nữa là tấm lòng của đại tá đối với anh em binh sĩ. Đại tá quí trọng mạng sống của họ như của chính ông. Một đơn vị dù lớn hay nhỏ, hành quân thất lạc trong rừng bao nhiêu ngày đêm, là bấy nhiêu đêm ngày đại tá trằn trọc không ngủ yên.

Đại tá là 1 sĩ quan liêm khiết, trong sạch, tôn trọng quyền lợi của binh sĩ. Đại tá quan tâm đến đời sống vật chất và tinh thần của từng người lính, luôn luôn nghĩ đến họ, làm cách nào để họ có một đời sống vui tươi, nghỉ ngơi sau những ngày hành quân mệt nhọc mà vẫn văn ôn vũ luyện. Những ngày dưỡng quân là những ngày nghỉ ngơi nhưng cũng là những ngày tái huấn luyện cho thuần thục các khả năng tác chiến đặc biệt của người lính Biệt Cách Nhảy Dù.

Cái giá mà Đại tá Phan Văn Huấn phải trả cho 20 năm chiến đấu cho dân tộc và đất nước là 13 năm tù cải tạo khổ sai ở Việt Bắc.

Đời sống ông thầy tôi và gia đình sau những năm tù trở về khá đạm bạc, nếu không nói là quá thiếu thốn, cơ cực bên cạnh một đàn con 8 đứa, bởi vì ông không có gì để lại cho vợ con khi ông bước chân vào vòng lao lý.

Hễ mỗi lần đến thăm ông, nhìn tấm thân tiều tụy, đau đớn vì bị những vết thương chiến trận đang hành hạ, mà điển hình vào 1 dịp đến viếng thăm, trong lúc trò chuyện thì cơn đau của ông bộc phát dữ dội, ngay lúc đó chính tôi và Bác sĩ Trắc, cựu y sĩ Liên Đoàn, đã cấp tốc nâng bồng ông từ trong nhà ra xe hơi của Bác sĩ Trắc, để cùng đưa ông đi cấp cứu ở bệnh viện Chợ Rẫy. Lòng yêu kính ông trong tim tôi như dâng trào. Tôi không khóc, nhưng có cái gì đó đã đè nặng trong thâm sâu đáy lòng, chỉ chực chờ là bộc phát.

Tôi cảm thấy hãnh diện vì ông: Đại tá Phan Văn Huấn, là cấp chỉ huy mà tôi đã được phục vụ, trong suốt quãng đời binh nghiệp, trong 1 đơn vị kiêu hùng, thiện chiến của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đó là: Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù.

2) Tại hậu cứ An Sương:

Là 1 cấp chỉ huy tác chiến, đã từng ở đầu tên mũi đạn, sau khi bàn giao biệt đội để trở về hậu cứ trong trách vụ mới, với 1 thời gian còn quá ngắn, tôi khó mà quên được việc “điều binh khiển tướng” giữa các chiến trường phong ba bão táp thuở nào. Vì thế, đứng trước tình hình rối ren quá ư bi đát đang diễn tiến từng giờ từng ngày một của đất nước, tôi đã dành hết tâm sức, khả năng, kinh nghiệm để hợp sức cùng Thiếu tá Trần Quang Huế, chỉ huy hậu cứ lo tổ chức phòng thủ doanh trại, tung các toán tiền đồn, lập các công sự tại ngã tư An Sương chờ giặc đến, ngăn chận và tiêu diệt chúng, không để cho chúng tiến công vào Sài Gòn một cách ngang nhiên.

Bên cạnh các vị trí phòng thủ đã có sẵn của Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung ở ngã ba Trung Chánh, dọc theo Quốc Lộ 1 và trên Xa Lộ vòng đai Đại Hàn, Biệt Cách Nhảy Dù đặt thêm các tổ đại liên 60, M72, đại bác và súng cối. Trong khi chúng tôi đang tổ chức phòng thủ, binh sĩ của Sư Đoàn 25, binh sĩ cũng như khóa sinh của Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung rút chạy về đây thiếu trật tự, không cấp chỉ huy. Một số họ dừng lại đây, tự động cùng tổ chức phòng thủ bên cạnh chúng tôi. Lòng yêu nước và tự ái của người lính VNCH không cho họ rút về xa hơn nữa.

Ngày 29 Tháng Tư, 6 xe tăng T–54 Việt cộng từ hướng Củ Chi hàng một trên Quốc Lộ 1 tiến đến, nghênh ngang như chỗ không người. Khi đến gần ngã tư An Sương, từ phòng tuyến của hậu cứ liên đoàn, 2 hỏa tiễn M72 bay vụt tới, bắn đứt xích chiếc đi đầu, chiếc xe tăng bị quay nằm ngang. Quân Cộng sản từ các xe tăng phía sau nhảy xuống xe bố trí hai bên đường. Bọn chúng bắn ầm ĩ, loạn xạ, vừa trung liên, B40, B41 và AK47 vào các công sự, các ổ kháng cự nằm trải dài hai bên đường, và vào cả Khu Gia Binh của Biệt Cách Dù, nằm ngay hai góc của ngã tư An Sương. Các chiến sĩ Biệt Cách Nhảy Dù và lực lượng bạn vẫn cố thủ, đại liên, M79, không ngớt bắn vào đám địch quân, đang cố tìm cách mở đường cho chiến xa của chúng tiến lên, xác địch rơi rớt trên Quốc Lộ 1 không phải là ít, các xạ thủ M72 bắn cháy thêm 1 T–54 ngay ngã tư đường xa lộ Đại Hàn và Quốc Lộ 1, những quả kế tiếp chẳng mang lại kết quả, nhưng dẫu sao cũng chận đứng được phần nào bước tiến quân của địch trên đường tiến vào thủ đô Sài Gòn.

Một số công sự chiến đấu bị đại bác xe tăng địch tác xạ tiêu hủy, nhiều xác chết của quân bạn bị văng ra nằm ngổn ngang bên vệ đường. Xe tăng của địch tiến lên, càn lên các công sự, binh sĩ bạn rút chạy hoảng loạn, địch càng lúc càng bắn phá dữ dội bất kể là nhà dân chúng. Hỏa lực đại bác trên các chiến xa của địch quá mạnh và địch quân mỗi lúc mỗi đông, buộc lòng chúng tôi phải rời bỏ vị trí chiến đấu bên ngoài, để vào cố thủ trong doanh trại liên đoàn. Trong khi đó, 1 xe Jeep chở một vài quân nhân, từ trong hậu cứ liên đoàn phóng ra, vừa quẹo trái hướng về Sài Gòn, 1 xe tăng của địch quay nòng đại bác bắn theo, chiếc xe Jeep trúng đạn, bay tung lên, hai, ba binh sĩ trên xe đều tử trận.

Sáng hôm sau 30 Tháng Tư, xe tăng, bộ đội địch và du kích địa phương đã dốc toàn lực, đánh vào các ổ kháng cự còn lại trong và ngoài hậu cứ liên đoàn. Trên xa lộ Đại Hàn, quân trang, quân dụng của tân binh quân dịch Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung, Địa Phương Quân, Nghĩa Quân tháo chạy đã bỏ lại đầy rẫy trên mặt đường. Đứng trước tình thế tồi tệ này, tôi dẫn số binh sĩ còn lại, phá rào đằng sau, rút về hướng Sài Gòn. Vượt qua cầu Tham Lương, đến hãng dệt Vinatexco, gặp 1 Tiểu đoàn Nhảy Dù đang bố trí tại đây, tôi ra lệnh cho binh sĩ dừng lại, hợp tác phòng thủ cùng với họ. Nhưng không lâu sau đó, nghe lệnh Đại tướng Dương Văn Minh kêu gọi, toàn thể quân nhân buông súng đầu hàng. Tất cả đều rụng rời, nhìn nhau trong nghẹn ngào, uất hận, xong tự động tan rã.

Trên đường về nơi tạm trú của một người bà con ở Quận Tư, Khánh Hội, nghĩ tới 9 năm đời Quân Ngũ, vào sinh ra tử bao nhiêu lần, chưa bao giờ tôi chùn bước, khuất phục trước quân thù. Vậy mà giờ này...

3) Món nợ còn lại:

Ngày 30 Tháng Tư, Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù vẫn còn các toán thám sát đang hoạt động trong Chiến Khu D. Tất cả các phương tiện liên lạc, truyền tin cũng như trực thăng đều không còn. Tuy nhiên, các toán thám sát vẫn tiếp tục sứ mệnh của mình.

Lần hồi, lương thực hết, thời hạn hoạt động của các toán cũng đã chấm dứt, lại thêm mọi sự liên lạc với Bộ Chỉ Huy đã bị cắt đứt, các toán thám sát tự động triệt xuất khỏi mật khu, theo phương cách mưu sinh thoát hiểm.

Ngày 5 tháng 5, 1975, 2 toán thám sát lần ra đến ấp Thái Hưng, xã Đại An, quận Tân Uyên để tìm hiểu tình hình, họ được quần chúng cho biết quân đội Miền Nam đã buông súng đầu hàng, vậy là họ cùng ra đầu hàng. Nhưng bọn Việt cộng đã ra tay tàn sát hết tất cả, rồi mang xác thả trôi sông. Cho dù họ đã hy sinh, nhưng khí tiết, tinh thần chiến đấu bất khuất, kiêu hùng của họ, vẫn mãi mãi sáng ngời trong trang sử 81 Biệt Cách Nhảy Dù.

Về sau này, vào năm 1995, Liên Đoàn đã đưa người về lại ấp Thái Hưng, xã Đại An, để tìm cách di dời mộ phần các tử sĩ, nhưng không thực hiện được, trong dịp này, qua trò chuyện tìm hiểu với các cư dân nơi đây thì được biết bọn giặc cộng đã bắn chết 12 người, một số đem thả trôi trên sông Bé, số còn lại bọn chúng mang chôn trong 1 cái giếng đã bỏ hoang lâu năm.

Ngày 7 và 8 Tháng Năm, 1975, toán thám sát của Chuẩn úy Phương, Biệt Đội 815 và toán thám sát của Chuẩn úy Nguyễn Minh (hiện đang định cư tại Dorchester, MA), rút ra khỏi Chiến Khu D, đã lần ra ấp Thái Hưng nhưng may mắn, 2 toán đã được dân chúng vào rừng làm nương rẫy, báo tin chính quyền VNCH không còn nữa, Đại tướng Dương Văn Minh đã ra lệnh buông súng đầu hàng, nên sau khi 2 toán đã giao nạp vũ khí, bọn Việt cộng có lẽ sau khi tàn sát 2 toán thám sát trước, đã bị đồng bào địa phương bàn tán xôn xao, nên với 2 toán này, bọn chúng chỉ bắt đưa vào trại tù gọi là “cải tạo.”

Ngày 9 Tháng Năm, 1975, toán thám sát cuối cùng của Chuẩn úy Lê Xuân Hiền, Biệt Đội 812 (hiện đang định cư tại Annaheim, CA), rút ra khỏi Chiến Khu D, khi gần đến ấp Thái Hưng, toán này cũng nhờ qua thông tin của người dân trong vùng, nên thấu đáo tình hình, họ cải trang thường dân để bôn đào, nhưng bị bọn dân quân du kích tại đây phát hiện, bắt giải giao cho chính quyền Việt cộng, rốt cuộc toán cũng bị bọn địch bắt đưa đi tù khổ sai ở trong trại tù Bình Sơn, nơi rừng sâu nước độc cùng với 2 toán thám sát trên.

Âu đó cũng là số phận chung của toàn thể Quân Cán Chính VNCH sau ngày mất nước.

“Tàn cơn binh lửa.”

Sau khi quân thù giặc Cộng đã cưỡng chiếm miền Nam, vẫn còn những người lính Biệt Cách Nhảy Dù hoạt động trong lòng địch, họ chiến đấu cô đơn, âm thầm, để hoàn thành sứ mạng thượng cấp giao phó, dù thượng cấp đã không còn ai và cũng không ai còn để cho họ được nhắc lại lần cuối cùng câu tâm niệm: “Tổ Quốc–Danh Dự–Trách Nhiệm.”

Không ít người đã hy sinh vào giờ thứ 25.

Đó là món nợ những người còn sống phải trả cho họ.

Cho dù sau hơn 43 năm cuộc chiến đã trôi qua và cũng đang dần dần chìm vào quên lãng theo với dòng chảy của thời gian, nhưng, đối với những chiến binh cầm súng chiến đấu để tiêu diệt quân thù, bảo vệ Tổ Quốc, những chiến sĩ Biệt Cách Nhảy Dù đã vào sinh ra tử trên khắp các chiến trường, mật khu, căn cứ địa của địch, thì đó là 1 vết thương nặng, sẽ mãi mãi âm ỉ cháy bất tận trong đáy lòng họ. Bởi vì, có biết bao đồng đội, chiến hữu của họ đã hy sinh, đã trở thành phế binh, đang sống cuộc đời còn lại trong tận cùng đau thương, khốn cùng và tủi nhục. Bởi vì, chính họ đã dâng hiến tuổi trẻ, xương máu, mạng sống, để bảo vệ tiền đồ Tổ Quốc, nhưng cuối cùng, họ phải đành buông súng đầu hàng, trở thành kẻ chiến bại trước 1 bọn người vong bản, vô thần và vô nhân tính.

Trong cuộc sống lưu vong nơi đất khách quê người, cứ mỗi lần tình cờ, coi lại những tấm ảnh cũ trong đời binh nghiệp, với Bộ Áo Hoa Rừng ngụy trang, với Chiếc Nón Xanh huyền thoại, với bảng Phù Hiệu Con Đại Bàng khạc lửa, sải rộng cánh, bung móng vuốt tung hoành, tôi cảm thấy tự hào, hãnh diện vì mình đã từng được chiến đấu trong 1 đơn vị thiện chiến, hào hùng: “Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù.”

Nhưng rồi, kèm theo đó, 1 niềm xúc cảm lạnh buốt, từ từ lan rộng khắp cùng trong cơ thể tôi, trước mắt tôi hình ảnh những vị anh hùng tử sĩ như: “Lê Như Tú, Nguyễn Văn Tùng, Từ Bá Thọ, Hoàng Xuân Cường, Đặng Thiện Chẩn, Trần Phụng Tiển, Lương Hữu Yên, Lưu Huyên, Nguyễn Ích Đoan, Mã Thế Kiệt, Phan Ngọc Trường, Trịnh Văn Huỳnh, Nguyễn Quang Khánh, Phạm Văn Cứ, Khưu Công Quí, Nguyễn Phiêu, Nguyễn Văn Thủy, Mai Xuân Hùng, Nguyễn Văn Dục, Nguyễn Kim Long, K. Tông, Đỗ Nguyên Sanh, Nguyễn Văn Hòa, Nguyễn Hữu Lộc, Phạm Viết Khải, Nguyễn Văn Thích, Nguyễn Xuân Ánh, Trần Ngọc Bửu, Vũ Huy Cần, Trương Cự Chính, Nguyễn Văn Chuyên, Phạm Văn Chuyên, Trần Thanh Đồng, Nguyễn Văn Giỏng...” còn còn nữa, làm sao kể hết, cứ lần lượt hiện về. Họ nhìn tôi trong nỗi buồn cảm thông, nhưng không thiếu sự trách móc, khi tôi vẫn còn sống sót mà không bảo vệ được Tổ Quốc, mà không trả được món nợ máu mà quân thù đã mang đến cho họ: những đồng đội, chiến hữu của tôi.

... “Tôi cũng biết...

Dù các anh đã chết...
Nhưng nỗi căm hờn còn mãi ở tâm linh,
Xin một mai khi Đất Mẹ thanh bình,
Tôi sẽ lấy máu quân thù tô vào nơi mộ chí!”
Và... đó cũng chính là món nợ mà tôi, 1 chiến binh 81 Biệt Cách Nhảy Dù còn sống đang và sẽ phải tiếp tục trả cho họ.
“Là người lính Biệt Cách Dù,
Chưa bao giờ sợ mình cô đơn trong chiến đấu.
Nhưng tại sao bây giờ,
Lại sợ mình che giấu nỗi niềm riêng!
Sợ phải cưu mang bao nỗi muộn phiền!
Sợ phải sống trong triền miên khiếp sợ?”

BCD Lê Đắc Lực

Không có nhận xét nào: