“Dân Chủ Trong Lưu Vong: Năm Mươi Năm Mất Nước”
Kính thưa quý vị trưởng thượng, quý đồng hương, quý quan khách và các bạn trẻ thân mến,Đã năm mươi năm kể từ ngày 30 tháng 4 năm 1975, ngày mà Sài Gòn thất thủ,chiến tranh Việt Nam chấm dứt và một kỷ nguyên lưu vong bắt đầu. Trong tuầnlễ trước ngày này, khoảng 10.000 – 15.000 người rời Sài Gòn bằng các chuyếnbay dân sự và thêm 80.000 người được di tản bằng đường hàng không trước khinhóm cuối cùng rời bằng tàu hải quân Hoa Kỳ. Tổng cộng, khoảng 125.000 –130.000 đồng bào đã được vận chuyển và tái định cư tại Hoa Kỳ trong đợt ditản đầu tiên.
<!>
Họ được đưa tới các trại tiếp nhận ở Guam và Philippines rồi chuyển về các căn cứ như Camp Pendleton, Fort Chaffee, Eglin Air Force Base và Fort Indiantown Gap trước khi được các tổ chức thiện nguyện bảo trợ. Cùng năm đó, Quốc Hội Hoa Kỳ thông qua Đạo luật Di cư và Trợ giúp Tị nạn Đông Dương với ngân sách 455 triệu USD nhằm cung cấp phương tiện di chuyển, chămsóc sức khỏe và nơi ăn ở cho 130.000 người tị nạn Việt, Lào và Campuchia.
Sau đợt đầu, hàng trăm nghìn người khác lao ra biển trên những con thuyền chật chội. Tổng số thuyền nhân rời Việt Nam và cập bến an toàn trong giai đoạn 1975 – 1995 ước tính gần 800.000 người; nhiều người không đến được tới bờ. Liên Hiệp Quốc và các học giả ước tính khoảng hơn nửa triệu thuyền nhân đã chết trên biển cả vì hải tặc, bão tố và đói khát. Những người ra đi đầu tiên cập bến Hong Kong hoặc các quốc gia Đông Nam Á như Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore và Thái Lan trước khi được tái định cư ở Mỹ, Canada, Úc, Pháp và nhiều nước khác. Ở quê nhà, cả triệu người – đặc biệt là những ai liên hệ với chính quyền và quân đội miền Nam – bị đưa vào “trại cải tạo”, nơi nhiều người chết vì đói khát, bệnh tật, và hành quyết và hơn một triệu người bị “tình nguyện” đưa tới những “khu kinh tế mới” để khai hoang trong điều kiện khắc nghiệt.
Cái giá phải trả cho cuộc chiến thật khủng khiếp: hơn 58.220 quân nhân Hoa Kỳ và 250.000 quân nhân VNCH đã tử trận, tới 3,5 triệu người Việt đã thiệt mạng. Nhiều người trong số những người chết hôm nay vẫn chưa được nhận diện tên tuổi; nhiều xương cốt vẫn còn nằm lại trên rừng sâu và đáy biển. Hôm nay chúng ta đã dành một phút mặc niệm cho những linh hồn đó.
Hành trình lập nghiệp và đóng góp của cộng đồng lưu vong
Sau những ngày đầu gian khổ, người Việt ở hải ngoại đã xây dựng những cộng đồng vững mạnh. Đến năm 2022, Hoa Kỳ có hơn 1,3 triệu người nhập cư đến từ Việt Nam, chiếm khoảng 3% tổng số người nhập cư và là nhóm nhập cư theo quốc gia gốc lớn thứ sáu. Nếu tính cả thế hệ thứ hai, cộng đồng người Mỹ gốc Việt hiện lên tới gần 2,4 triệu người, trong đó 78% đủ điều kiện đã nhập quốc tịch. Họ tập trung chủ yếu tại California (38%) và Texas (14%), song cũng cómặt ở nhiều nơi khác như Washington, Florida, Virginia và Massachusetts.
Cộng đồng chúng ta không chỉ tồn tại mà còn phát triển mạnh mẽ. Năm 2023, thu nhập hộ gia đình trung bình của người Mỹ gốc Việt đạt 88.467 USD, cao hơn 9,7% so với mức trung vị toàn quốc. Khoảng 32% người gốc Việt trên 25 tuổi có bằng cử nhân trở lên; tỷ lệ này đạt 55% trong nhóm sinh ra tại Hoa Kỳ. Tỷ lệ thất nghiệp của người gốc Việt chỉ 2,8%, thấp hơn mức trung bình quốc gia. Những con số ấy phản ánh tinh thần cần cù và nỗ lực vươn lên của
từng gia đình. Từ “Little Saigon” ở Westminster, California cho tới các khu thương mại ở Houston, Dallas hay Paris, Sydney, những doanh nghiệp, nhà hàng, bác sĩ, kỹ sư, giáo sư và nghệ sĩ gốc Việt đã đóng góp tích cực cho kinh tế, văn hóa và đời sống của quê hương thứ hai.
Tinh thần đấu tranh cho dân chủ và nhân quyền
Trong khi xây dựng cuộc sống mới, người Việt hải ngoại không bao giờ quênquê hương. Phong trào dân chủ Việt Nam bao gồm nhiều nỗ lực nhằm đòi hỏi một thể chế tự do đa đảng sau ngày 30 tháng 4 năm 1975. Đáng tiếc, Việt Nam vẫn là một quốc gia độc đảng; chỉ số dân chủ năm 2023 của V‑Dem xếp Việt Nam đứng thứ 37/39 quốc gia châu Á với điểm số 0,157/1. Các nỗ lực phản kháng trong nước luôn bị đàn áp; ký tên vào một bản kiến nghị cũng có thể dẫn tới thẩm vấn, giam giữ và tù tội.
Từ bên ngoài, chúng ta tiếp tục lên tiếng. Tại hải ngoại, một cuộc thăm dò năm 2000 tại Quận Cam cho thấy 71% người Mỹ gốc Việt coi việc chống cộng sản là “ưu tiên hàng đầu” hoặc “rất quan trọng”. Năm 1999, 15.000 người đã thắp nến biểu tình suốt đêm trước một tiệm băng đĩa ở Westminster khi chủ tiệm treo cờ đỏ và ảnh Hồ Chí Minh. Những cuộc tuần hành và vận động không mệt mỏi đã dẫn tới việc 20 tiểu bang, 15 quận và 85 thành phố ở Hoa Kỳ công nhận lá cờ vàng ba sọc đỏ như “Cờ Di Sản và Tự Do”.
Vai trò của các đoàn thể hải ngoại
Trong nhiều thập niên qua, các đoàn thể người Việt quốc gia tại hải ngoại đã kiên trì vận động tại Quốc Hội Hoa Kỳ, trước Liên Hiệp Quốc, và trong các định chế quốc tế để nêu bật thực trạng đàn áp tại quê nhà. Chính nhờ những nỗ lực bền bỉ đó mà nhiều nghị quyết, đạo luật, và bản phúc trình nhân quyền đã được thông qua; chính nhờ những tiếng nói không mệt mỏi ấy mà nhiều tù nhân lương tâm được quốc tế can thiệp, một số đã được trả tự do. Đồng thời, các đoàn thể còn dấn thân hỗ trợ quốc nội bằng phương tiện truyền thông, kỹ thuật an ninh mạng, và các chiến dịch vận động toàn cầu, nhằm thắp sáng niềm tin và tiếp sức cho đồng bào trong nước.
Nhìn về tương lai, sứ mệnh ấy không chỉ dừng lại ở việc tố cáo tội ác của bạo quyền. Các đoàn thể hải ngoại đang dần hình thành một hậu phương chiến ược: xây dựng nền tảng vững chắc trong cộng đồng tị nạn, kết nối với phong trào quốc nội, đồng thời mở rộng vòng tay liên minh với bạn bè quốc tế. Trong viễn kiến 5 năm tới, công cuộc ấy sẽ hướng đến ba trụ cột: củng cố đoàn kết trong ngoài, nâng cao năng lực tranh đấu cho thế hệ trẻ, và tạo thành sức ép quốc tế thường trực để lên án chế độ.
Những bước đi ấy, tuy âm thầm nhưng bền bỉ, đang góp phần hình thành một lực lượng dân chủ có tầm vóc, sẵn sàng đối diện với thử thách và dẫn đường cho tương lai Tổ quốc.
Thông điệp gửi tới thế hệ trẻ
Thưa quý vị, ký ức 30 tháng 4 là nỗi đau chung nhưng cũng là bài học. Hành trình của cha ông chúng ta nhắc nhở rằng tự do không bao giờ được ban phát mà phải trả giá bằng mồ hôi, nước mắt và cả tính mạng. Ngày hôm nay, các bạn trẻ – con cháu của những thuyền nhân và cựu tù cải tạo – đang sống trong một thế giới không biên giới, nơi nhân loại được nối liền qua từng nhịp cầu thông tin. Các bạn được giáo dục tốt hơn, hiểu biết rộng hơn và có nhiều công cụ hơn để vận động cho nhân quyền. Các bạn hãy tìm hiểu lịch sử, nói tiếng Việt, giữ gìn văn hóa và tiếp nối ngọn đuốc đấu tranh. Hãy sử dụng kiến thức và vị thế của mình để lên tiếng thay cho những người không có tiếng nói trong nước; hãy hỗ trợ những nhà hoạt động đang bị đàn áp; hãy vận động các chính phủ tự do gây áp lực đòi hỏi cải cách ở Việt Nam.
Kết luận
Năm mươi năm đã trôi qua, một nửa thế kỷ đau thương, kiên trì và hy vọng. Chúng ta đã mất nước, nhưng chúng ta không mất dân tộc, không mất lý tưởng. Những con thuyền vượt biển năm xưa đã trở thành những cây cầu nối liền các lục địa; những đứa trẻ sinh ra ở trại tị nạn nay đã trở thành bác sĩ, kỹ sư, giáo sư, doanh nhân; lá cờ vàng ba sọc đỏ vẫn tung bay trong cộng đồng như biểu tượng của tự do và khát vọng trở về.
Trước tình hình đất nước vẫn chìm trong độc tài cộng sản, chúng ta không được phép mệt mỏi. Phong trào dân chủ trong lưu vong phải tiếp tục là ngọn hải đăng soi đường, kết nối trái tim trong và ngoài nước. Cho dù con đường phía trước còn dài, chúng ta hãy tin rằng với sức mạnh đoàn kết, với sự dấn thân của thế hệ trẻ và với sự ủng hộ của bạn bè quốc tế, chúng ta sẽ thấy ngày quê hương thật sự tự do, dân chủ và nhân quyền được tôn trọng.
Xin trân trọng cảm ơn quý vị.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét