Cho đến nay, vẫn còn người cố tình xuyên tạc về biến cố tấn công các chùa chiền đêm 20 rạng 21/8. Bởi thế tưởng nên thuật lại tóm lược biến cố trên.(9) Cuộc tảo thanh chùa chiền: Ý định tấn công các chùa chiền và ban hành thiết quân luật từ nửa đêm ngày 20/8 không được giữ bí mật hoàn toàn như người ta thường nghĩ. Bộ trưởng Nguyễn Đình Thuần đã cho nhân viên Tòa Đại sứ Mỹ biết về Thiết quân luật trước nhiều giờ.(FRUS, 1961-1963, III:595n2) Một ký giả Mỹ cũng tự nhận được “mật báo” từ một viên chức nào đó tại Dinh Gia Long, nên đã tới chùa Xá Lợi trước khi xảy ra cuộc tấn công.
Và, thực ra, từ hơn nửa tháng trước, đích thân ông Nhu đã răn đe trong cuộc phỏng vấn của hãng thông tấn Reuters là sẽ phá tan chùa Xá Lợi, nhưng khi bị Nolting chất vấn đã qui trách cho ký giả Mỹ dẫn không đúng lời mình.
Người đưa ra đề nghị thiết quân luật là các Tướng, do André Đôn cầm đầu. Nhưng không hiểu các Tướng có biết đến kế hoạch mật của ông Nhu. Người được giao trách nhiệm tổng quát ở Sài Gòn là Trung tướng Tôn Thất Đính, Tư lệnh Quân Đoàn III, kiêm Tổng trấn thủ đô. Đại tá Lê Quang Tung chỉ huy Lực Lượng Đặc Biệt, và Nguyễn Văn Tư, Giám đốc Cảnh sát Đô thành, chỉ huy Cảnh sát mặc giả quân phục. Tại chùa Xá Lợi (Sài-gòn), cuộc tấn công khởi sự vào khoảng 1 giờ sáng. Binh sĩ LLĐB và Cảnh Sát sử dụng cả lựu đạn khi lục soát. Hòa thượng Tịnh Khiết và Thượng tọa Tâm Châu cùng Ủy ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo đều bị bắt. Hơn 30 người bị thương. Chỉ có hai tăng sĩ chạy được qua cơ quan USOM, gần chùa Xá Lợi xin tị nạn (Thượng tọa Trí Quang xin tị nạn vài ngày sau). Mặc dù các giới chức Việt Nam áp lực phải trao trả hai tăng sĩ trên, nhưng XLTV Đại sứ Trueheart từ chối. Ông Nhu bèn cho lệnh đặt kẽm gai cô lập cơ sở USOM, ngoại bất nhập, nội bất xuất. (Gravel, II:210; Tâm Châu 1994:19;FRUS, 1961-1963, III:595-7; Xem thêm Phạm Trọng Nhân, “Cuốn sổ tay của một nhân viên ngoại giao nhân vụ tấn công chùa Xá Lợi;” Bách Khoa, số 169 (15/1/1964), tr. 31-43, và số 170 (1/2/1964), tr. 21-31).
Chỉ riêng tại Sài-gòn, 2,000 tăng ni Phật tử bị bắt. Ngoại trừ Hòa thượng Tịnh Khiết được phóng thích ngay, hầu hết các lãnh tụ tăng ni tranh đấu đều bị giam giữ. Nhiều người bị tạm giam trên những sà-lan nổi trên sông Sài-gòn. (Giống như chế độ Decoux giam giữ tù binh Cộng Sản trong cuộc nổi dạy ở miền Nam vào tháng 11/1940)
Tại Huế, khoảng 3 giờ đêm tiếng mõ, tiếng chuông, tiếng kêu cứu vang lên khắp nơi. Đồng bào quanh chùa đánh mõ, gõ thùng thiếc báo nguy. Đợt tấn công đầu, Cảnh sát Dã chiến bị đẩy lui. Sau đó, Đỗ Cao Trí cho lệnh nổ súng. Giáo sư, sinh viên và học sinh tranh đấu trong vụ cách chức Linh mục Viện trưởng Cao Văn Luận trong hai ngày 17-18/8 cũng bị bắt giữ tại tư gia.
Theo Đại sứ Pháp, người có mặt bên ông Nhu suốt thời gian tấn công chùa chiền, viên chức Việt còn bỏ vũ khí, truyền đơn vào các chùa để vu cáo Phật giáo âm mưu lật đổ chính phủ. Anh em ông Diệm-Nhu cũng cắt hết điện thoại của các cơ quan Mỹ hầu mong bưng bít sự thực. Các phi vụ bị tạm ngưng. Báo chí bị kiểm duyệt gắt gao.(CLV, SV, 17:28; FRUS, 1961-1963, III:598-9)
Ngày 6/9, ông Nhu biện bạch với một viên chức CIA Mỹ rằng ngày 8/5 đang đi nghỉ mát với gia đình. Nhu cũng không liên quan gì đến việc ban hành thiết quân luật hay tấn công chùa chiền. Tối ngày 18/8, các Tướng đã yêu cầu Diệm ban hành thiết quân luật. Ngày 19 hay 20/8, Đỗ Cao Trí cũng vào gặp Nhu trình bày một kế hoạch tấn công các chùa và danh sách những người cần bắt mà Trí đã chuẩn bị từ một tháng trước. Nhu chỉ là con dê tế thần trong cuộc khủng hoảng này. Từ sau ngày 21/8, Nhu vẫn theo đuổi chính sách hòa hoãn. Nhân viên CIA có cảm tưởng Nhu dấu diếm sự thực [deception]. (FRUS, 1961-1963, IV, Tài liệu 69)
Để che đậy cho tội ác có thể bị truy tố ra trước Tòa Hình sự Quốc tế này, trong buổi họp chính phủ đặc biệt vào 5 giờ rưỡi sáng ngày 21/8, ông Diệm hoàn toàn im lặng về cuộc đánh chùa, bắt tăng ni, mà chỉ nói nhiều đơn vị Cộng Sản đang xâm nhập một số tỉnh lﬠquận lần thủ đô nên phải thiết quân luật để tảo thanh theo điều 44 Hiến pháp. Ngoại trưởng Vũ Văn Mẫu và Phó Tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ phản đối nhưng không kết quả.
Đúng 6G00 sáng, Tổng thống Diệm chính thức tuyên bố thiết quân luật qua đài phát thanh. Đồng thời tiết lộ vì Tướng Lê Văn Tị bệnh nặng đã cử Trung tướng Trần Văn Đôn làm Quyền Tổng Tham Mưu Trưởng, và Tướng Tôn Thất Đính được phong làm Tổng trấn. Sau đó, ra lệnh giới nghiêm từ 9 giờ tối đến 5 giờ sáng.(AFP) Đài phát thanh quân đội cũng đọc một nhật lệnh dài của ông Nhu, kêu gọi Thanh Niên Cộng Hòa phải ủng hộ chính quyền.
Ngay trong ngày 21/8, Tướng Đôn báo cáo qua điện thoại với Tướng Harkins rằng chính ông Diệm ra lệnh Thiết quân luật để chống lại Phật giáo. Hiện mới chỉ sử dụng một tiểu đoàn Dù, 1 tiểu đoàn TQLC, và quân cảnh ở Sài-gòn. Tuy nhiên, các đơn vị ven đô đều đặt trong tình trạng báo động. Thiết giáp cũng xuất hiện trên đường phố Sài-gòn, Chợ-lớn và Huế.
Cuộc tổng tấn công chùa chiền xảy ra khi Đại sứ Henri Cabot-Lodge mới từ Honolulu qua Tokyo, và dự định ghé thăm Hong kong ít ngày, trước khi tới Sài Gòn để trình ủy nhiệm thư vào ngày 26/8. Oat-shinh-tân vội gửi một chuyến phi cơ quân sự đặc biệt cho Lodge tới ngay Sài Gòn. Khoảng 21G30 ngày 22/8, Lodge mới có mặt tại thủ đô miền Nam.
Đại sứ Cabot-Lodge là một lãnh tụ quan trọng của Đảng Cộng Hòa Mỹ. Năm 1960, Lodge từng đứng chung liên danh với Richard M. Nixon, nhưng bị liên danh Kennedy-Johnson của đảng Dân Chủ đả bại khít khao. Từ tháng 6/1963, khi Oat-shinh-tân hỏi ý kiến về việc đề cử Lodge, ông Diệm không phản đối, nhưng không dấu sự bất mãn và lo ngại. Ông Nhu mỉa mai Lodge là Toàn quyền [Gouverneur General], trong khi ông Diệm tuyên bố dù có gửi 10 Lodge qua Việt Nam, Mỹ vẫn phải huấn luyện người bắn pháo binh vào Dinh Gia Long.
Trong buổi tiếp kiến Kennedy vào trưa ngày 15/8, Cabot-Lodge có cảm tưởng rằng Kennedy đặc biệt lo ngại về tình hình Việt Nam, và hàm ý rằng chế độ Diệm đang đi vào đoạn kết. Cuộc tấn công chùa chiền ngày 21/8 đặt Lodge trước một việc đã rồi. Một cái tát xiếc, như một ký giả Mỹ nhận định, nếu xét kỹ những áp lực và đòi hỏi “hòa hoãn với Phật giáo” của Oat-shinh-tân.
Ngay trong ngày 23/4, Cabot-Lodge cho nhân viên đi tiếp xúc hầu hết các nhân vật cao cấp Việt để có được một hình ảnh rõ ràng về tình hình. Lodge còn mời các ký giả Mỹ tới tham khảo hầu cải thiện liên hệ giữa Tòa Đại sứ với các ký giả. Không kém quan trọng, Lodge cho người đi tháo gỡ dây kẽm gai mà Cảnh sát giăng kín trụ sở USOM, đích thân tiếp xúc hai nhà sư xin tị nạn, và gặp đại diện nhóm Caravelle.Lodge còn tiếp xúc với Đại sứ Italia Giovanni d’Orlandi và Khâm sứ Vatican Salvadore d’Asta. Chỉ trong vòng 24 giờ, Lodge đã nắm vững được tình hình. Trước hết, quân đội không dính líu gì đến cuộc tấn công chùa chiền, và nhóm Tướng Dương Văn Minh, André Đôn, Lê Văn Kim muốn làm đảo chính.
Hai biến cố khác chấn động dư luận là việc Ngoại trưởng Vũ Văn Mẫu đột ngột từ chức chiều ngày 22/8, và cạo đầu phản đối chính sách đàn áp Phật giáo. Hôm sau, ông Diệm không chấp thuận cho ông Mẫu từ chức, chỉ cho nghỉ dài hạn ba tháng, qua Nepal hành hương. Ngày Thứ Bảy, 24/8, ông Mẫu tới đại học Luật khoa nói chuyện với sinh viên, và trước khi ra về hẹn sẽ gặp lại vào ngày hôm sau. Nhưng từ ngày này, ông Mẫu bị giam lỏng tại gia. Hai ngày sau, 26/8, trên đường ra phi trường để qua India, ông Mẫu bị Tướng Tôn Thất Đính cản lại tịch thu thông hành theo lệnh của ông Diệm. (Nhân 1964 a:39) Mãi tới ngày 29/8, ông Mẫu mới được rời nước.
Biến cố thứ hai là ngày 23/8 sinh viên Y-Dược Sài Gòn xuống đường ủng hộ cuộc tranh đấu của Phật tử và sinh viên, giáo chức tại miền Trung. Việc sinh viên Y-Dược, được coi là cốt cán của chế độ và những thành phần bảo thủ nhất trong xã hội, nghiêng về phe Phật Giáo cho thấy uy tín chế độ đã suy tàn. Anh em ông Diệm-Nhu tìm cách vuốt ve, nhưng không thành công. Sáng Chủ Nhật 25/8, hàng chục ngàn sinh viên học sinh biểu tình tại Chợ Bến Thành và nhiều địa điểm khác trong thủ đô. Hai anh em ông Diệm-Nhu thẳng tay đàn áp. Nhiều người chết, bị thương, hay bị bắt giữ. Vì dám chống đối chế độ, sinh viên, học sinh được chụp ngay cho cái mũ “Cộng Sản.”
Chưa hết. Cuộc tấn công chùa chiền ngày 21/8 gây nên những phản ứng sâu đậm khắp thế giới. Từ ngày 11/6, bức hình tự thiêu của Thượng tọa Quảng Đức đã trở thành biểu tượng của cuộc tranh đấu của Phật giáo và chính sách giáo phiệt Ki-tô của anh em ông Diệm. Vào thượng tuần tháng 8/1963, một số nước Phật giáo chính thức yêu cầu triệu tập Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc thảo luận. Ngày 22/8, từ Nam Vang, chính phủ Hoàng Gia Cao Miên ra tuyên cáo:
“Chính phủ Hoàng gia Căm-bốt kinh hoàng đón nhận tin chính phủ Sài-gòn đàn áp man rợ các tăng ni và Phật tử Nam Việt Nam vào rạng sáng ngày 21/8/1963. Việc tấn công các chùa bằng lực lượng tinh nhuệ của chính phủ, việc tàn sát tăng ni, việc bắt giữ, việc phong tỏa các nơi thờ tự đang diễn ra tại thủ đô Việt Nam là một thách thức thế giới văn minh. Trong lịch sử hiện đại chỉ có chế độ Hitler mới dám vi phạm những tội ác chống lại quyền tối thượng của con người như thế.”
Tiếp đó, chính phủ Sihanouk kêu gọi các quốc gia tố cáo và ngăn chặn tội ác đàn áp Phật giáo của chính phủ Diệm. Nam Vang còn kêu gọi Vatican cho lệnh chính quyền Diệm và tín đồ Ki-tô phải theo đúng nguyên tắc cao cả của Ki-tô giáo. (CĐ số 896, ngày 23/8/1963, Phnom Penh gửi Paris; CLV, SV, d. 17)
Ngay đến Vatican, điểm tựa vững chắc nhất của chế độ Diệm, cũng bất bình. Khâm sứ Vatican d’Asta từng bảo thẳng ông Diệm rằng việc tấn công chùa chiền và đàn áp Phật Giáo làm hại cho uy tín Vatican và đi ngược lại quyền lợi của quốc gia Việt Nam.
Tại Mỹ, dư luận báo chí cực kỳ sôi nổi. Hầu hết các cơ quan ngôn luận đều yêu cầu chính phủ Mỹ có thái độ tức khắc. Tờ New York Times kịch liệt lên án chính phủ Diệm, mà sự mất lòng dân, độc tài và tàn bạo biểu lộ qua cuộc đàn áp Phật giáo. Báo này cũng chỉ trích chính phủ Kennedy đã không sử dụng áp lực thích đáng với ông Diệm và chậm trễ trong việc minh định thái độ. (CĐ số 4879/83, Đại sứ ở Mỹ gửi BNG; CLV, SV, 17:29) Những báo khác gọi chế độ Diệm là độc tài, cảnh sát trị, làm mất giá trị sự tham chiến của lính Mỹ trong cuộc chiến chống Cộng. (CLV, SV, 17:33) Chỉ riêng tờ New York Herald Tribune muốn chính phủ Kennedy tiếp tục yểm trợ chính phủ Diệm trước hiểm họa Cộng Sản. Marguerite Higgins, trong loạt bài viết về chế độ Diệm trên New York Herald Tribune, lập lại hầu như nguyên văn lời tuyên truyền của chế độ Diệm: không hề có kỳ thị tôn giáo mà những biến động ở Việt Nam thuần có tính cách chính trị, do Cộng Sản giật dây, với sự hỗ trợ của báo chí ngoại quốc, đặc biệt là Mỹ.
Trong khi đó, việc Đại sứ Trần Văn Chương từ chức (hoặc bị ông Diệm cách chức, nếu muốn) cũng gây bối rối cho chế độ. Rồi ngày 24/8/1963, ông Vũ Văn Thái—cựu Giám đốc Ngân sách và Ngoại viện, hiện đang làm cho cơ quan LHQ tại Lome, Togo— cũng viết thư cho Harriman, đề nghị Tổng thống Diệm và gia đình phải ra đi. Nội dung thư ông Thái cũng tương tự như thư riêng của ông Vũ Văn Mẫu gửi Chester Bowles từ New Dehli.(FRUS, 1961-1963, IV:114-5. Ngày 5/9/1963, Harriman mới chuyển thư này cho Bundy, Cố vấn ANQG của Kennedy).
Chính phủ Kennedy bồn chồn theo dõi những phản ứng bất lợi này. Các viên chức cao cấp Mỹ không muốn cuộc tranh đấu của Phật Giáo khiến tình hình quân sự và chính trị miền Nam thêm suy thoái. Bởi thế, Oat-shinh-tân đẩy mạnh kế hoạch bắt vợ chồng ông Nhu và Tổng Giám Mục Thục ra đi. Mối quan tâm duy nhất của người Mỹ chỉ còn là số phận ông Diệm. Đa số vẫn muốn giữ ông Diệm; nhưng vấn nạn là thật khó tách rời ông Diệm khỏi các anh em. [Tối ngày 22/8/1963, tức khoảng 8G56 ngày 23/8/1963, Roger Hilsman chỉ thị cho Lodge: Chính sách về Phật giáo không thay đổi; tìm cách giảm quyền lực Nhu]. (FRUS, 1961-1963, III:605)
Vận mệnh nhà Ngô rơi gọn vào bàn tay tân Đại sứ Cabot-Lodge. Những tiết lộ của Tướng André Đôn, Quyền Tổng Tham Mưu trưởng, trong buổi nói chuyện với Trung tá Lucien Conein tại Bộ Tổng Tham Mưu ngày Thứ Sáu, 23/8, cung cấp cho Lodge những viên đạn đầu tiên để bắn vào phe bênh vực ông Diệm quanh Kennedy. Trước hết, André Đôn yêu cầu đài V.O.A. cải chính là Cảnh sát đặc biệt của ông Nhu mà không phải quân đội đã tham gia cuộc đàn áp, tấn công chùa chiền. Tướng Đôn cũng khẳng định khoảng 1,420 tăng ni bị bắt giữ khắp miền Nam trong đêm 21/8 không phải cán binh Cộng Sản.
Nhận định về anh em họ Ngô, Tướng Đôn cho rằng ông Nhu là “khối óc” [thinker] của ông Diệm; nhưng ông Diệm có quyền quyết định tối hậu. Vẫn theo Tướng Đôn, Lệ Xuân hành xử như “vợ” [platonic wife] của ông Diệm. Ông Diệm chưa bao giờ lấy vợ và không quen có đàn bà bao quanh. Chín năm qua, Lệ Xuân lo chăm sóc ông Diệm sau mỗi ngày làm việc mệt nhọc. Lệ Xuân săn sóc, nói chuyện, giúp ông Diệm giải tỏa áp lực, và giống như bất cứ người vợ Việt Nam nào, thống trị gia đình. Giữa ông Diệm và Lệ Xuân không có liên hệ tình dục. Ông Diệm chưa hề trải qua mùi vị tình dục. Tình trạng giữa ông Diệm và Lệ Xuân, theo Tướng Đôn, giống như Hitler và Eva Braun.
Tướng Đôn còn tiết lộ ông Diệm rất thích những thanh niên đẹp trai. Một Trung sĩ làm vườn, nhờ đẹp trai, đã được ông Diệm cất nhắc lên hàng Trung tá, trông coi dinh điền quân đội. Theo Tướng Đôn, không thể tách rời ông Diệm với vợ chồng Nhu. Nếu phải chọn giữa hai anh em ông Diệm và Nhu, Đôn muốn thấy ông Nhu ra đi. (FRUS, 1961-1963, III, tài liệu 275)
[Xin đừng vội trách ông Đôn bịa đặt. Tối ngày 26/8, ông Diệm (dù đã 66 tuổi) nói với Đại sứ Lodge là ông ta từng cảnh cáo Lệ Xuân rằng “sẽ lấy vợ,” nếu Lệ Xuân không ngừng phát ngôn bừa bãi.(VNNB, I-C: 1955-1963, tr. 326) Trong hồi ký của McNamara, đoạn nói về Lệ Xuân, cũng tương tự như nhận định này. McNamara còn gọi Lệ Xuân là “một mụ phù thủy.”
Vài Tướng lãnh Việt còn đi xa hơn, cả quyết từng thấy bà Lệ Xuân lả lơi, tình tứ bên ông Diệm. Tướng Nguyễn Chánh Thi thường gọi Lệ Xuân là “đĩ điếm,” làm ô uế Dinh Độc Lập.]
Đêm Thứ Bảy 24/8, sau khi nhân viên Mỹ tiếp xúc với các Tướng Lê Văn Kim, Nguyễn Khánh, v.. v… Cabot-Lodge gửi công điện báo cáo về những Tướng muốn xin yểm trợ làm đảo chính. Tuy nhiên, theo Lodge, thực trạng Sài-gòn cho thấy một âm mưu đảo chính chẳng khác gì “viên đạn bắn trong đêm.”
Tại Oat-shinh-tân, tối ngày 24/8 [sáng Chủ Nhật, 25/8 VN], XLTV Ngoại trưởng George W. Ball chỉ thị cho Cabot-Lodge:
Phải áp lực cho vợ chồng Nhu ra đi; nếu Diệm không đồng ý, sẽ phải tái xét lại vấn đề ủng hộ Diệm. Lodge được quyền nói với các Tướng đang âm mưu đảo chính rằng Mỹ sẽ tuyên bố cắt quân và kinh viện để chứng tỏ việc ngưng yểm trợ Diệm. Ngoài ra, Lodge cũng được quyền cho VOA cải chính rằng quân đội không dính líu gì đến cuộc tấn công các chùa chiền. (CĐ số 243; FRUS, 1961-1963, III, Tài liệu 281).
Xin mở dấu ngoặc nhỏ để bàn thêm về công điện số 243 của Ball vào tối 24/8 nói trên. Công điện này chấp thuận trên nguyên tắc đề nghị của Lodge: Phải áp lực vợ chồng Nhu-Lệ Xuân ra đi, nếu ông Diệm không đồng ý, sẽ phải tái xét lại việc ủng hộ ông Diệm. Thật ra, kế hoạch bắt ông Thục và vợ chồng ông Nhu ra đi đã được cựu Đại sứ Nolting dàn xếp từ thượng tuần tháng 8/1963. Nhưng công điện 243 gửi đi khi TT Kennedy, McNamara, Rusk cùng Giám đốc CIA John McCone đều không có mặt tại Oat-shinh-tân. Bởi thế, mặc dù được Kennedy phê chuẩn trước khi gửi đi (Roger Hilsman, To Move A Nation, tr.487-8), có người chê trách Ball vượt quá quyền hạn. (dựa theo luận cứ của Tướng Taylor; Swords and Plowshares, tr. 292-4) Thứ nữa, nếu Ball vượt quá quyền hạn, trong các phiên họp HĐ/ANQG Mỹ kế tiếp phải có ai đó chống lại. Sự thực hoàn toàn trái ngược: Khi được Kennedy hỏi ý kiến, không một ai bài bác công điện tối ngày 24/8 của Ball. Cuối cùng, sau một loạt những cuộc hội họp sôi nổi, ngày 30/8 HĐ/ANQG Mỹ quyết định quay mặt cho các Tướng làm đảo chính (tức rút lại sự bảo vệ chế độ Diệm). Ngoài ra, nếu ông Ball vượt quá quyền hạn, hẳn không thể tiếp tục ngồi ở Bộ Ngoại Giao, và dưới thời chính phủ Johnson (1963-1969) còn được giao trách nhiệm tìm hòa bình cho miền Nam.
Công điện 243 là hậu quả trực tiếp đầu tiên của cuộc tấn công các chùa chiền. Trước ngày này, cố vấn của Kennedy chia làm hai phe về vấn đề Việt Nam. Phe quân đội, kể cả Bộ trưởng Quốc Phòng McNamara, và CIA muốn tiếp tục ủng hộ ông Diệm. Trong khi đó, phe dân sự, gồm Bộ Ngoại Giao và Cố vấn An Ninh Quốc Gia, muốn tách rời ông Diệm khỏi ảnh hưởng các anh em, nghĩa là phải đưa ông Thục, Nhu và bà Lệ Xuân rời nước. Người đứng sau chủ trương “Diem must go” hay “không thể chiến thắng với anh em ông Diệm” này là Tướng Roger Hilsman, Phụ tá Bộ trưởng Ngoại giao đặc trách Viễn Đông vụ (mới thay W. Averell Harriman vì Harriman được thăng chức Thứ trưởng Ngoại giao đặc trách Chính trị vụ). Hilsman là một cựu chiến binh Thế chiến thứ hai, chuyên viên về du kích chiến. Hilsman đã thảo công điện số 243 nói trên, và được Harriman chấp thuận. Mike Forrestal, một nhân viên Ban Tham mưu HĐ/ANQG tại Bạch Cung, gửi cho Kennedy, đang nghỉ cuối tuần ở Hyannis Port. Trong khi đó, XLTV Ngoại trưởng Ball gọi điện thoại cho Kennedy, trình bày về công điện trên. Kennedy chấp thuận cho gửi qua Sài Gòn nếu các cố vấn cao cấp đồng ý. Ball gọi Rusk ở New York, Rusk đồng ý dù không thích lắm. Harriman gọi CIA, John McCone không có mặt, nên Richard Helms, Phó Giám đốc đặc trách kế hoạch, đồng ý. Forrestal gọi Thứ trưởng Quốc Phòng Gilpatric, cả Gilpatric và McNamara chấp thuận. Gilpatric gửi một bản sao công điện cho Maxwell Taylor, cố vấn quân sự của Kennedy. Taylor chống lại, nhưng McNamara không đồng ý với Taylor. Theo Robert Kennedy, em trai Tổng thống Kennedy, sau này Kennedy hối tiếc, và cho việc gửi công điện trên là một sai lầm.(McNamara, In Retrospect, 52-5)
Ngay trong ngày Chủ Nhật, 25/8, tại Sài Gòn, Cabot-Lodge triệu tập một phiên họp đặc biệt với Tướng Harkins, Tư lệnh MACV, và John H. Richardson, trưởng lưới CIA. Sau đó, điện về Oat-shinh-tân, đề nghị cho các Tướng xúc tiến việc đảo chính. Lodge cũng tiết lộ đã thông báo cho các Tướng biết rằng Mỹ chỉ muốn loại Nhu, vẫn giữ Diệm; nhưng về ông Diệm, tùy thuộc ở quyết định của các Tướng. (FRUS, 1961-1963, III, tài liệu 285)
Mặc dù các cố vấn của Kennedy không nhất trí về đảo chính, và chính Kennedy không muốn thay ngựa, cuối cùng Oat-shinh-tân cho Cabot-Lodge toàn quyền quyết định. (Ibid., III: tài liệu 286)]
Tóm lại, cuộc tấn công các chùa chiền đêm 20 rạng 21/8 là một dấu mốc cực kỳ quan trọng trong liên hệ giữa anh em ông Diệm và chính phủ Kennedy. Mặc dù tự nó—và toàn bộ cuộc tranh đấu của Phật giáo nói chung—chưa đủ lật đổ chế độ Diệm, cuộc tấn công đêm 20 rạng 21/8 này chặt đứt mối liên hệ thiết thân suốt hơn 9 năm trời giữa ông Diệm và nước Mỹ. Phản ứng của anh em ông Diệm và Lệ Xuân—qua cách chụp mũ Cộng Sản để đàn áp, chống Mỹ để tự vệ (đồng hóa tham vọng cá nhân và gia đình với chủ quyền “quốc gia”), hoặc móc ngoặc Hà Nội—đã tạo phản ứng nghịch chiều. Trên con đường độc đạo của mình, anh em ông Diệm sống sót thêm được hơn hai tháng nữa phải được coi như một phép lạ.
Khi không còn thể lấy giấy gói lửa được nữa, trong tháng 10/1963, anh em ông Diệm-Nhu sai thủ hạ (Trần Hữu Duệ, một tay chơi nổi danh Sài Gòn) dùng nữ sắc và rượu thịt gài bẫy quay phim con heo các đại diện “khả kính” trong phái đoàn điều tra Liên Hiệp Quốc. Hành động này không những tự nó là một hình tội cản trở công lý, mà còn bộc lộ rõ “đạo đức” của anh em ông Diệm-Nhu.
[Cuốn Nhật ký Đỗ Thọ nhắc đến màn gài bẫy này từ nhiều thập niên trước. Mới đây cựu Đại tá Nguyễn Hữu Duệ, Tham Mưu trưởng Lữ Đoàn Phòng vệ phủ Tổng thống, cũng thú nhận trên báo Văn Nghệ Tiền Phong tiểu xảo trên. Một cựu sĩ quan thông dịch cho phái đoàn Liên Hiệp Quốc hồi đó, hiện ngụ tại Houston, Texas, đã tiết lộ với tác giả thủ đoạn này từ lâu. Vậy mà nhũng người muốn che đậy tội ác cho họ Ngô—dù biết rõ hơn ai hết vụ dàn cảnh quay phim con heo trên—vẫn cố vin vào “báo cáo” của phái đoàn LHQ (danh số A/5360, sau khi các thành viên được trao tặng những tấm hình một đời khó quên ô nhục của mình) để ngụy biện cho chính sách kỳ thị tôn giáo của anh em ông Diệm hay vụ tấn công rạng sáng ngày 21/8/1963. Tội nghiệp cho bốn chữ “lương thiện trí thức!”].
PHÂN ĐOẠN II: Chính các Tướng đề nghị đảo chính
Cuộc đảo chính 1/11/1963 tiến triển theo hai giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất là kế hoạch đảo chính ngày 1/9/1963, và rồi mới tới cuộc đảo chính ngày 1/11/1963.
1. Kế hoạch đảo chính ngày 1/9/1963:
Kế hoạch đảo chính do chính các Tướng đề nghị với viên chức Mỹ từ tháng 6/1963. Người đứng ra tiếp xúc với tình báo Mỹ là Trung tướng André Đôn. Tháng 6/1963, giữa cao trào tranh đấu Phật Giáo, Tướng Đôn cùng em rể là Lê Văn Kim (lấy Gabrielle Trần Văn Đôn) đã yêu cầu đại sứ Nolting cho phép làm đảo chính, nhưng Nolting giận dữ từ chối. Ngày 8/7/1963, ông Đôn lại tiết lộ ý định với một sĩ quan CIA.
Khoảng đầu tháng 8/1963, André Đôn gia nhập nhóm Tướng Minh, qua đường dây Tướng Kim. Từ vài năm trước, hai Tướng Minh và Kim đã tìm cách đảo chính. Những ngày kế tiếp, nhiều người tham gia, ngoại trừ Huỳnh Văn Cao (vì là thành phần tín cẩn của chế độ) và Tư lệnh Hải Quân. Tại QĐ IV, dù Tướng Cao không được tiếp xúc, Tư lệnh Phó đồng ý. Tướng Nguyễn Khánh, Tư lệnh QĐ II, đồng ý nhưng vẫn ở Pleiku, có lẽ để nếu cần sẽ phản lại.
Ngày Thứ Sáu 23/8, nhân dịp anh em ông Diệm-Nhu tấn công chùa và bắt giữ tăng ni trên toàn quốc, Tướng Đôn lại than phiền với nhân viên tình báo Mỹ, và hỏi ý kiến về việc lật đổ chế độ. Tướng Kim, với cương vị phụ tá báo chí của Tướng Đôn, cũng nối lại liên hệ với tình báo Mỹ. Gặp Rufus Phillips, Giám đốc Phòng Cải Cách Điền Địa của cơ quan USOM, ngày 23/8, Kim than phiền quân đội đã trở thành “tay sai” của Nhu: Chính ông Nhu đã mưu mẹo để các Tướng yêu cầu ban hành thiết quân luật. Tướng Kim còn tiết lộ ông Nhu đã cho lệnh Cao Xuân Vỹ dùng Thanh Niên Cộng Hòa tổ chức phản biểu tình các học sinh, sinh viên dự trù vào ngày 25/8. (FRUS, 1961-1963, III, tài liệu 174)
Việc công khai đàn áp Phật giáo ngày 21/8 không chỉ tạo cho nhóm Tướng Minh thêm một lý do để đảo chính mà còn khiến rất nhiều người thân cận chế độ xa lánh anh em Diệm. Sáng Thứ Bảy 24/8, khi Phillips đến nhà Bộ trưởng Phụ tá An Ninh Nguyễn Đình Thuần ăn sáng, ông Thuần nói đến lúc vợ chồng Nhu phải ra đi. Theo Thuần, ngày 23/8, ông Diệm viết thư cho Lệ Xuân, yêu cầu từ nay đừng tuyên bố gì nữa. Đồng thời, cho Tướng Bénoit Trần Tử Oai, Cục trưởng Tâm Lý Chiến, và Tổng Giám đốc Thông Tin biết lệnh này. Theo Thuần, nếu Mỹ cả quyết, các Tướng sẽ hành động.(FRUS, 1961-1963, III, Tài liệu 273)
Đại tá Đỗ Mậu (Giám đốc An Ninh Quân Đội), Tướng Nguyễn Khánh (Tư lệnh Quân đoàn II), Trần Thiện Khiêm (Tham Mưu trưởng Liên quân), hay Nguyễn Văn Thiệu (Tư lệnh Sư đoàn 5 Bộ binh, từng “rửa tội” để mua chuộc lòng tin của anh em ông Diệm-Nhu) đều thay đổi thái độ. Ngày 22/8, Đại tá Đỗ Mậu gặp Tướng Đôn, xin gia nhập tổ chức đảo chính. (Mậu 1993, tr. 614) Trưa ngày 24/8, Thiếu tướng Khánh yêu cầu được gặp một nhân viên CIA để minh định không yểm trợ ông Nhu. Theo Khánh, các tướng đã chán nhận lệnh của họ Ngô, và muốn biết Mỹ có yểm trợ hay chăng. Nếu các nhà chính trị, trong trường hợp bị cắt viện trợ, muốn ngả theo Cộng sản hay chủ trương trung lập, quân đội sẽ nổi dậy. Theo Khánh, Trần Thiện Khiêm là đồng minh chắc chắn nhất của Khánh. (Ibid., III, tài liệu 284)
Trung tá Phạm Ngọc Thảo—người thân của Tổng Giám Mục Thục, từng cứu giá chế độ trong cuộc đảo chính hụt 11/11/1960, và đang giữ chức Thanh tra Ấp Chiến Lược, nhưng sau này được Cộng Sản truy tặng chức liệt sĩ—cầm đầu một nhóm đảo chính khác. Albert Thảo hợp tác với nhóm ông Huỳnh Văn Lang và cựu đảng viên Cần Lao trong Liên Kỳ Nam-Bắc Việt cũ. Hai Tướng Khiêm và Raymond Khánh cũng có liên hệ; nhưng cả hai lại nghi Albert Thảo là Cộng Sản nằm vùng, hoặc vì một lý do nào đó, chỉ ậm ừ cho qua.
[Theo tài liệu Mỹ, Albert Thảo đã vận động đảo chính từ nhiều tháng trước ngày 30/8, và cũng báo cáo với cơ quan CIA tại Sài-gòn (CAS) về âm mưu đảo chính của hai nhóm Trần Kim Tuyến, Huỳnh Văn Lang.(FRUS, 1961-1963, IV:40) Ngày Thứ Sáu, 30/8, cơ quan CIA báo cáo rằng có 3 tới 5 tiểu đoàn theo Thảo. Lực lượng này đủ sức duy trì tình thế từ 3 tới 4 tiếng đồng hồ, trong khi chờ đợi các Tướng nhập cuộc. Thảo muốn đảo chính trong vòng 1 tháng, hoặc sớm hơn. Thảo muốn mời Vũ Văn Mẫu, Trần Văn Chương, Trần Lê Quang, Vũ Văn Thái, Huỳnh Văn Lang, Nguyễn Hữu Châu. Thảo cũng liên lạc với các lãnh tụ Đại Việt. Thảo nói muốn cầm đầu ngành An ninh quân đội, tham gia chính phủ.(FRUS, 1961-1963, IV, tài liệu 22)
Mới đây, hồi ký Nhân chứng một chế độ của ông Huỳnh Văn Lang, nhất là tập III, đã trình bày khá đầy đủ về liên hệ giữa ông và Phạm Ngọc Thảo. (Xem thêm Chính Đạo, VNNB, I-C: 1955-1963, tr. 307, 325). Tuy nhiên, trường hợp Albert Thảo khá phức tạp. Albert Thảo là loại tình báo tam tứ trùng, vừa liên lạc với Mỹ, Dinh Gia Long, các phe đảo chính, vừa có thể cung cấp tin tình báo cho Cộng Sản. Không phải vô tình mà sau này Cộng Sản phong Albert Thảo làm liệt sĩ.]
Ít ai ngờ nhất là ngay Trần Kim Tuyến—người thân cận của ông Nhu, vừa nắm cơ quan Mật vụ của chế độ, vừa lo kinh tài cho đảng Cần Lao—cũng mưu đảo chính từ tháng 7/1963. Vì việc này, ông Tuyến bị đầy đi làm Tổng Lãnh sự ở Phi Châu (Cộng Hòa Arab, rồi Morocco), nhưng vì gốc an ninh tình báo nên các quốc gia trên không nhận, phải tạm lưu trú ở Hong Kong.
Tóm lại, muốn đảo chính ông Diệm không chỉ có Tướng Minh, người nổi danh chống đối chế độ. Hầu hết các Tướng và Tư lệnh đơn vị, cùng những người “thân tín” của họ Ngô đều muốn ra tay.
Nhiệt thành, hăng say nhất trong việc lật đổ chế độ Diệm là lực lượng sinh viên, học sinh. Như đã lược thuật, sinh viên học sinh bắt đầu chú tâm đến thời sự sau cái chết của nhà văn Nhất Linh vào tháng 7/1963. Tới tháng 8/1963, họ mới tìm được cơ hội nhập cuộc. Ngọn lửa tranh đấu đầu tiên được thắp lên ở Huế, khi ông Diệm cách chức Viện trưởng Đại học của Linh mục Cao Văn Luận. Ngày 15/8, sinh viên và học sinh Huế biểu tình, chính quyền thả cả quân khuyển để đàn áp. Xô xát dữ dội. Một số bị bắt. (Nguyễn Ngu Í 1964a:43) Hai ngày sau, trong lễ bàn giao giữa Linh mục Luận và ông Nguyễn Hữu Thế, đến lượt các Giáo sư từ chức tập thể: Lê Khắc Quyến, Khoa trưởng Y khoa (người đã từ chối chứng nhận các nạn nhân cuộc thảm sát tối 8/5 trước Đài Phát Thanh Huế là do mảnh lựu đạn gây nên); Bùi Tường Huân, Khoa trưởng Luật khoa; Tôn Thất Hanh, Khoa trưởng Khoa học; Nguyễn Văn Trường, Ban Khoa học Sư phạm; Lê Tuyên. Tân Viện trưởng Thế phải vào Sài-gòn báo cáo. Linh mục Luận cũng bỏ vào Đà-nẵng. Các giáo sư lại ký kiến nghị yêu cầu đưa Linh mục Luận trở lại. (Nguyễn Ngu Í 1964b:28)
Chiều đó, sinh viên Huế cản đường Bộ trưởng Giáo dục Trình khi ông Trình ra phi trường vào Đà-nẵng.Ngày Thứ Ba, 20/8, Viện trưởng Thế cho lệnh những buổi hội họp trong khuôn viên trường phải xin phép trước.
[Thứ Hai, 19/8/1963: Sinh viên Huế hủy bỏ một cuộc biểu tình vì sợ bị chụp mũ Cộng Sản (ngày kỷ niệm Cách Mạng tháng 8/1945)].
Tại Sài Gòn, ngày 23/8—sau cuộc tổng tấn công chùa chiền và nhất là việc tân Đại sứ Cabot-Lodge đến nhận nhiệm sở sớm hơn hạn định—sinh viên Y-Dược khoa biểu tình đòi trả tự do cho Phật tử. Hai ngày sau, Chủ Nhật 25/8, hàng ngàn sinh viên học sinh tụ họp trước chợ Bến Thành, Sở Thú, bến Bạch Đằng v.. v… Một nữ học sinh tên Quách Thị Trang bị bắn trọng thương, rồi qua đời trong Tổng Y viện Cộng Hoà. Theo kết quả sơ khởi khoảng 500 sinh viên, học sinh bị bắt. Quân đội và Cảnh sát thẳng tay đàn áp. Hơn 200 xe đạp và xe gắn máy mà học sinh, sinh viên sử dụng để kéo đến chỗ biểu tình bị bỏ rơi gần các khuôn viên đại học vào xế trưa. Từ đêm trước các đơn vị quân đội, có cả tuần thám xa, đã kéo về thành phố ngăn chặn các ngả đường. Các công sự phòng thủ, kẽm gai được giăng ra tại nhiều ngã tư và dọc đường từ Bộ Ngoại Giao tới trường Luật, nơi cựu Ngoại trưởng Mẫu dự định đến hội thảo. Theo tin ngoại giao Pháp những cuộc truy lùng, bắt giữ tiếp tục khắp nơi. Các trường học phải đóng cửa để đề phòng bạo động.(CLV, SV, 17:84)
Mật Vụ Miền Trung của Dương Văn Hiếu truy tầm và bắt giữ bất cứ ai bị nghi ngờ tham dự đảo chính hay biểu tình. Các trại tù lớn nhất là trại Lê Văn Duyệt (nằm trong Quân trấn Sài-gòn, do Thái đen cầm đầu), Võ Tánh (Chợ Bà Chiểu, do Nguyễn Thiện Giai cầm đầu), Sở Thú, bến Bạch Đằng. (Ngày 18/9/1963, Tướng Minh khẳng định với quan chức Mỹ là trong trại Lê Văn Duyệt có tới hai trại tù giam giữ người chống chế độ; FRUS, 1961-1963, IV:272-3) Theo các nhân chứng, Mật vụ miền Trung tra tấn nạn nhân tàn nhẫn hơn cả VC hay Mật thám Pháp. Có người chỉ vì ngồi chung xe một đồng nghiệp trùng tên với một nghi can mà ông ta không hề quen biết, cũng bị bắt giam, lấy cung và tra tấn hơn ba tháng. Nhiều nhân viên MACV và Tòa Đi sứ Mỹ cũng bị bắt vì tình nghi liên hệ vào việc tổ chức đảo chính. (Phỏng vấn ông Phạm Chung, một nhân chứng từng đi tù cả thời Việt Minh lẫn Diệm, năm 1999-2000)
Không khí Sài Gòn ngột ngạt kinh hoàng.
Tối Chủ Nhật 25/8 ấy, thêm một biến cố khác xảy ra trong hậu trường chính trị. Nhân dạ tiệc chào mừng Đại sứ Lodge tại tư dinh Quyền Ngoại trưởng Trương Công Cừu, ông Nhu chính thức gặp mặt một sứ giả của Hà Nội. Đó là Mieczylslaw Maneli, Trưởng đoàn Poland [Ba Lan] trong Ủy Ban Quốc Tế Kiểm Soát Đình Chiến. (Maneli 1971, tr. 137-9). Theo Maneli, từ mùa Xuân 1963, nhiều nhân vật ngoại giao đã yêu cầu Maneli gặp Nhu. Trong số này có Đại sứ Pháp Lalouette, Đại sứ India Ram Goburdhun, Đại sứ Italia d’Orlandi và Khâm sứ Vatican d’Asta. Họ cho biết đã nói với Nhu về Maneli, và Nhu ngỏ ý muốn gặp. Ngay sau buổi gặp sơ khởi, Maneli vội báo cáo về Warsaw, đồng thời thông báo với Đại sứ Liên Sô Tovmassian ở Hà-nội và Hà Văn Lâu. Lâu và Đại sứ Liên Sô tán thành.
Tình hình nghiêm trọng hơn khi trong bản tin phát thanh của đài V.O.A. vào lúc 8 giờ sáng địa phương ngày Thứ Hai, 26/8, phát ngôn viên BNG Mỹ khẳng định quân đội VNCH không đánh chiếm chùa chiền, mà chỉ có các lực lượng trực thuộc Phủ Tổng thống, không thuộc quyền Bộ Tổng Tham Mưu. Ngoài ra còn bình luận rằng viện trợ Mỹ có thể bị cắt.(Lodge không hài lòng về bản tin này; FRUS, 1961-1963, III, tài liệu 287)
Bài phát thanh này khiến ông Nhu tin rằng Cabot-Lodge quyết định loại bỏ mình. Nhu bèn hạ lệnh bắt giữ tất cả những người chống đối. (Ibid., III:637n2)
Ngày 27/8/1963, Đại sứ Lalouette báo cáo về Paris rằng André Đôn tuyên bố Diệm đã lợi dụng và phản bội lòng tin của quân đội, cuộc tấn công chùa và bắt giữ tăng ni Phật tử làm hoen ố danh dự quân đội. Lực lượng tấn công chùa là LLĐB của Lê Quang Tung và Cảnh sát của Cò Túc [Tư?], dưới sự chỉ huy của Tôn Thất Đính. Tung, Tư và Đính là ba trụ cột của cuộc đảo chính do Ngô Đình Nhu cầm đầu.
Hiện nay Nhu quyền thế nhất nước. Diệm chỉ còn là lãnh tụ thứ hai. Chân dung Diệm bị Thanh Niên Cộng Hòa gỡ bỏ tại công sở trong vài quận đô thành. Chính Đính cho lệnh bắt giữ Vũ Văn Mẫu ngày hôm qua. Cũng có tin Hồ Tấn Quyền, Tư lệnh Hải quân, đã bị bắt. (CLV, SV, 17:42)
Sau một buổi họp mật, Lodge, Harkins cùng Richardson quyết định tạm thời không cho Harkins tiếp xúc với các Tướng, để Conein và nhân viên CIA khác lo việc liên lạc. Nhóm ông Đôn-Minh sẽ được lưu ý là Mỹ không nhúng tay vào đảo chính; và khuyến cáo ông Đôn tránh đổ máu, hoặc giảm thiểu đổ máu tối đa.
Tối đó, Đại sứ Cabot-Lodge trình ủy nhiệm thư cho Tổng thống Diệm. Theo Lodge, ông ta bảo thẳng ông Diệm rằng tại Massachusetts người ta nghĩ Lệ Xuân là Quốc trưởng VNCH, và dân chúng đọc những bài báo mà Lệ Xuân gọi những vụ tự thiêu là nướng thịt sư. Ông Diệm trả lời rằng đã nói với Lệ Xuân vài lần, nhưng Lệ Xuân khẳng định là một Dân biểu có quyền phát biểu ý kiến.
Khi Lodge nêu vấn đề phóng thích những người bị bắt, ông Diệm nói đã thả gần hết. Để chứng tỏ Phật tử là thiểu số trong nước, ông Diệm trưng dẫn một tài liệu do chùa Xá Lợi xuất bản; theo đó, tại Việt Nam chỉ có hơn 1 triệu tăng ni, Phật tử, và khoảng 2 triệu người liên hệ. Trước khi cáo từ, ông Diệm nhắc nhở Lodge rằng Mỹ kiều phải biết giữ trật tự. (FRUS, 1961-1963, III, Tài liệu 292, 296)
Buổi gặp mặt này chẳng có gì vui vẻ. Hôm sau, 27/8, Cabot-Lodge gặp ông Nhu. Ông Nhu yêu cầu Mỹ phải ngưng những lời tuyên bố làm tổn hại quốc thể VNCH. Người Mỹ nói quá nhiều, trong khi tại Việt Nam người ta nói quá ít. Về những lời tuyên bố của Lệ Xuân trên báo Life ngày 16/8, ông Nhu nói vợ mình là một Dân biểu, có quyền tự do phát biểu ý kiến. Ông Nhu còn tuyên bố đã chỉnh đốn lại tình hình trước ngày Lodge tới Sài-gòn (dự trù vào 26/8). Nhờ vậy, không còn cuộc tự thiêu nào.
Những lời biện bạch của ông Diệm về Phật giáo trong buổi sơ kiến trình ủy nhiệm thư—như Phật giáo chỉ là thiểu số ở Việt Nam, hay Phật giáo đã bị Cộng Sản xâm nhập—và giọng điệu khiêu khích của ông Nhu trong buổi gặp mặt ngày 27/8, đẩy Lodge vào vị thế khó thể dung thứ ngay cả với ông Diệm. Rồi đến buổi họp báo cùng ngày 27/8 của Tướng Tôn Thất Đính để giải thích lý do tấn công các chùa chiền, huênh hoang tự nhận mình là “anh hùng quốc gia,” đã bẻ gãy được âm mưu của Cộng Sản, Phật Giáo và “bọn phiêu lưu quốc tế.” Ngoài ra, còn tin đồn tòa Đại sứ sẽ bị tấn công, chiếm đóng, âm mưu ám sát cá nhân Cabot-Lodge, v.. v… Không còn là cái tát xiếc nữa mà đã trở thành công khai thách đố, khiêu khích.
Thời gian này, Oat-shinh-tân cũng cử Paul Kattenburg, Trưởng đoàn Việt Nam, qua Sài Gòn thị sát tình hình. Khi tiếp Kattenburg ngày 28/8, ông Diệm ra sức biện minh việc đàn áp Phật giáo. Trước khi từ biệt, ông Diệm nói với người bạn quen biết đã 10 năm: “Cố giúp chúng tôi.” Kattenburg chua chát đáp: “Xin giúp chúng tôi nữa.”
Trong khi đó, nhân viên Tòa Đại sứ tiếp tục liên hệ với các Tướng làm đảo chính. Ngày 26/8, Conein gặp Tướng Khiêm, và một nhân viên CIA khác (Spera) gặp Tướng Khánh, hứa Mỹ sẽ tiếp tục viện trợ sau khi thành lập chính phủ mới. Ngày 27/8, Conein hứa với Khiêm sẽ cho gia đình các Tướng an toàn ra ngoại quốc trong trường hợp đảo chính thất bại, và sẽ cung cấp sơ đồ phòng thủ trại Long Thành của LLĐB. Hôm sau, 28/8, Conein giao cho Khiêm sơ đồ phòng thủ nói trên. Ngày 29/8, một nhân viên CIA gặp cả hai Tướng Minh và Khiêm. Để trấn an các Tướng, Phillips tìm gặp riêng Tướng Kim, xác định rằng Lodge đã phái nhân viên CIA trên đến gặp Minh và Khiêm, và còn thêm rằng chính Tổng thống Kennedy cho lệnh. Khi Kim muốn người Mỹ tiếp tay thảo kế hoạch, Lodge cũng đồng ý.(FRUS, 1961-1963, IV:79-80) Viên chức Mỹ còn thu xếp để các nhóm và cá nhân chống chế độ hợp tác với các Tướng.
Nhưng nhóm Tướng Minh vẫn còn nghi ngại bị người Mỹ gài bẫy. Ngày 29/8, khi Trung tá Conein tiếp xúc, ông Minh nói không tin Kennedy đồng ý cho làm đảo chính; ngoại trừ trường hợp Mỹ tuyên bố ngưng viện trợ kinh tế cho chế độ Diệm. Lodge vội gửi điện văn về Oat-shinh-tân, và ngày 30/8, Hội đồng ANQG Mỹ chấp thuận yêu cầu của Tướng Minh.(Gravel, II: 238-239, 738-739; FRUS, 1961-1963, IV:21, 32-3) Ngày 29/8 [30/8 VN], HĐ/ANQG Mỹ còn cho lệnh Tướng Harkins tiếp xúc với các Tướng để họ hết hoài nghi, đồng thời nhấn mạnh Mỹ muốn loại bỏ vợ chồng Nhu, nhưng không đề cập gì đến số phận ông Diệm.
Anh em ông Diệm-Nhu đã đoán biết âm mưu của các Tướng nên điều động Lực Lượng Đặc Biệt [LLĐB] của Lê Quang Tung vào thủ đô, chốt chặn các vị trí bằng thiết giáp. Tối ngày 29/8, có tin ông Nhu sẽ bắt giữ các Tướng chủ chốt trong vòng 24 giờ. Nhân viên CIA cấp tốc báo động cho Tướng Kim, nhưng việc này không xảy ra.
[Người báo tin có thể là ký giả Mỹ, hay một nhân viên thân cận với Dinh Gia Long, vì nhân vật mà tên họ chưa được giải mật này đã từng tiết lộ trước tin các chùa chiền sẽ bị tấn công đêm 20 rạng 21/8]
Ngày 30/8, ông Nhu triệu tập các Tướng ở Bộ Tổng Tham Mưu, tuyên bố vụ rắc rối với Phật giáo đã qua, nhưng những kẻ đứng sau lưng chưa bỏ cuộc. Nhiệm vụ của quân đội là phải nghe lệnh chính phủ. CIA muốn Nhu ra đi. Có nỗ lực vận động báo chí quốc tế chống lại VNCH. Nhiều viên chức Mỹ tại Sài-gòn xúi dục và cổ võ các phóng viên, ký giả chống lại chính phủ Việt Nam. Đại sứ Lodge đã hiểu rõ tình thế hơn, và Nhu có thể lèo lái ông ta. Theo Tướng Khiêm, ông Nhu còn tâm sự sẽ theo bất cứ điều gì người Mỹ muốn và được Tổng thống Kennedy ủng hộ. Nhu nói thân với Richardson, Trưởng sở CIA.(FRUS, 1961-1963, IV:90-2) Những lời tuyên bố của ông Nhu ít nữa cũng có một tác dụng tâm lý: Những người âm mưu đảo chính không khỏi lo âu về tâm ý thực sự của người Mỹ. Các Tướng còn phân vân chẳng hiểu vợ chồng Nhu có ăn lương CIA hay chăng.
15 Tướng tham dự, kể cả Trần Văn Đôn, Dương văn Minh, Trần Văn Minh, Trần Thiện Khiêm, Lê Văn Nghiêm, Lê Văn Kim, Phạm Xuân Chiểu, Trần Tử Oai, Nguyễn Khánh, Nguyễn Văn Là, Trần Ngọc Tám, Nguyễn Giác Ngộ, Văn Thành Cao, Mai Hữu Xuân, Huỳnh Văn Cao.
Quan trọng hơn nữa, nhóm Big Minh cảm thấy chưa có đủ lực lượng, vì chưa thuyết phục được Tướng Tôn Thất Đính, Tư lệnh Vùng III kiêm Tổng trấn Sài Gòn.
[Nỗ lực thuyết phục Đính đã bắt đầu sau cuộc họp báo ngày 27/8 của Đính. Phe đảo chính dùng kế khích tướng, dèm pha rằng Đính đã bị Nhu lừa, và chính phủ Diệm phải chịu ơn Đính mới đúng. Rồi xúi Đính vào gặp Diệm, yêu cầu Diệm phong mình làm Bộ trưởng Nội Vụ. Diệm giận dữ từ chối, bắt Đính lên Đà-lạt “nghỉ phép.” Lợi dụng cơ hội, nhóm đảo chính thuyết phục Đính ngả theo. Tuy nhiên, Đính chưa quyết định dứt khoát].
[Theo Dương Văn Minh, mãi tới tháng 10/1963, Tôn Thất Đính mới đi tìm ông Minh. Sau một hồi chuyện vãn, Đính đột ngột nói: “Đại ca, quê hương chúng ta đang bị nguy hiểm. Đại ca bảo tôi phải làm gì?” Ông Minh ra chỉ thị cho Tướng Đính về đảo chính. Những ngày kế tiếp, ông Minh tìm cách hòa giải giữa Tướng Đính và Kim vì sau cuộc đảo chính hụt 11/11/1960, Đính đã cho lệnh bắt giữ Kim, lúc ấy đang là Chỉ Huy trưởng trường Đà-lạt. (VNNB, I-C: 1955-1963, tr. 361-2) Ngày 26/5/1964, ông Khánh nói với Cabot-Lodge rằng sau khi nghiên cứu hồ sơ của Ngô Đình Diệm về cuộc đảo chính 11/11/1960, những người chủ mưu có liên hệ chặt chẽ với Pháp và muốn ủng hộ Kim làm Thủ tướng.(FRUS, 1964-1968, I:381)].
Cuối cùng, sau hơn 24 giờ cắt liên lạc với tình báo Mỹ, sáng Thứ Bảy, 31/8, ông Khiêm mới báo cho Tướng Harkins biết rằng kế hoạch đảo chính vào ngày hôm sau, 1/9, bị tạm gác. Theo Khiêm, Big Minh vẫn chưa thực sự tin chính phủ Mỹ đồng ý cho đảo chính vì cấp bậc của Conein quá nhỏ; cần những người như Harkins hay Lodge xác định. Do đề nghị của Harkins, Khiêm hứa sẽ dàn xếp cho Harkins gặp Tướng Minh. Đồng thời tiết lộ rằng André Đôn có kế hoạch yêu cầu ông Diệm cải tổ chính phủ, đưa ba Tướng nắm các bộ Quốc Phòng, Nội Vụ và Tổng Nha Thông Tin; Ngô Đình Nhu sẽ làm Thủ tướng hoặc điều hợp tổng quát.(Gravel, II:265; FRUS, 1961-1963, IV: Tài liệu 32, 33 [tr.65-6])
Chiều đó, khi gặp Phillips, Lê Văn Kim nói Nhu và LLĐB của Lê Quang Tung phòng thủ kỹ càng, khó thể hành động. Sẽ tiếp tục chuẩn bị, nhưng cần bí mật. Khi Phillips nói Khiêm đã gặp Tướng Harkins và tuyên bố các Tướng đồng ý cho Nhu làm Thủ tướng; đổi lại, quân đội được nhiều quyền hơn, Kim rất giận dữ. Kim hẹn gặp lại vào buổi tối. Khi gặp lại, Kim nói Khiêm không báo cáo gì cho Minh về buổi gặp Harkins. Các Tướng không bao giờ chấp nhận Nhu; họ chưa thể ra tay vì Nhu và Tung đã chuẩn bị, và các Tướng thiếu phương tiện. (FRUS, 1961-1963, IV:64-6)
Lý do nào đi nữa, âm mưu đảo chính ngày 1/9 phải đình hoãn. Lúc 18G00 ngày 31/8, Lodge báo cáo về Oat-shinh-tân là các Tướng chẳng có tinh thần hay tổ chức để thực hiện.
[Theo tờ Times of Viet-Nam, cơ quan ngôn luận bán chính thức của vợ chồng ông Nhu, cuộc đảo chính này dự trù vào ngày 28/8, nhưng bị ông Nhu bẻ gãy bằng cách tuyên bố Thiết quân luật ngày 21/8; Times of Viet-Nam, 2/9/1963; Công điện số 747, ngày 2/9/1963, Saigon gửi Paris; CLV, SV, 17:51]
Ngày 4/9, cơ quan CIA Sài-gòn nhận định về âm mưu đảo chính thất bại trên như sau: Hai bên “không thắng, không bại.” Diệm-Nhu biết rằng Mỹ khuyến khích các Tướng làm đảo chính, và CIA nhúng tay vào vụ này. Có thể họ biết gần hết những phương cách CIA đã thực hiện. Có thể chính phủ VNCH nhận hiểu họ còn gặp khó khăn với các lãnh đạo quân đội, đa số dân chúng, và chính phủ Mỹ. Diệm-Nhu đang thẩm giá sự kiện chính phủ Mỹ yểm trợ một lãnh đạo khác và sẽ đi đường xa để khuyến khích, và yểm trợ lãnh đạo mới ấy. Bước sắp tới, cả hai chính phủ VNCH và Mỹ phải đạt được thỏa thuận để Mỹ có thể tiếp tục viện trợ, dù thay đổi đôi chút về hình thức cũng như việc thực thi. (FRUS, 1961-1963, IV:92-3)
2. Cuộc đảo chính ngày 1/11/1963:
Sau khi các Tướng tạm ngừng đảo chính, người Mỹ chẳng có lựa chọn nào khác hơn tiếp tục liên hệ với chính phủ Diệm. Một mặt, Oat-shinh-tân thực hiện kế hoạch “áp lực và thuyết phục” [Pressures and Pursuasion Track].(Hilsman, To Move A Nation, tr. 508) để loại anh em ông Diệm. Mặt khác, Cabot-Lodge vẫn mở cửa cho một giải pháp đảo chính.
a. Thục và Lệ Xuân ra đi:
Ngay trong ngày 31/8, Cabot-Lodge điện về Oat-shinh-tân, yêu cầu chuyển sang áp lực ông Diệm thay đổi nhân sự và chính sách Phật Giáo qua phương thức “áp lực và thuyết phục.” Về nhân sự, cần ông Thục và bà Lệ Xuân rời nước; ông Nhu sẽ lo kế hoạch ấp Chiến lược; và lập thêm chức Thủ tướng, giao cho ông Nguyễn Đình Thuần phụ trách. Về chính sách, cần phóng thích sinh viên, học sinh, tăng sĩ và Phật tử, hủy bỏ Luật số 10, các chùa chiền phải được giải tỏa và trùng tu, và chính phủ tỏ thái độ hòa hoãn với Phật Giáo. Lodge yêu cầu đích thân Kennedy tuyên bố những điều kiện trên tại Oat-shinh-tân.(FRUS, 1961-1963, IV:66-7) Lodge cũng thêm rằng có tin Nhu đang bí mật tiếp xúc với Cộng Sản qua trung gian hai đại sứ Pháp và Poland [Ba Lan], vì hai chính phủ này muốn một giải pháp trung lập giữa Bắc và Nam Việt Nam. (Maneli đã tiết lộ với CIA việc tiếp xúc với ông Nhu; rồi ngày 30/8, Đại sứ Lalouette cũng xác nhận với Lodge về việc Nhu móc nối với Cộng Sản). Để tạo áp lực tâm lý, từ nay, Lodge không nói chuyện với anh em ông Diệm-Nhu nữa nếu chưa tham khảo Bộ Ngoại Giao. Chính phủ Việt Nam, theo Lodge, đã hành xử như “những kẻ dối trá và tội phạm” [has acted both as liars and criminals].
Trong buổi họp tại Bộ Ngoại Giao sáng Chủ Nhật, 31/8 (khoảng nửa đêm cùng ngày tại Sài Gòn), Phó Tổng thống Johnson và các cố vấn của Kennedy không đi đến quyết định rõ ràng nào. Đa số muốn cho ông Diệm cơ hội chót, tức vẫn giữ ông Diệm, chỉ đưa ông Thục, và bà Lệ Xuân rời nước; riêng ông Nhu sẽ chỉ còn lo kế hoạch ấp Chiến lược.(FRUS, 1961-1963, IV:69-74, 80-1) Oat-shinh-tân chỉ thị Lodge tiếp xúc lại với ông Diệm, và Kennedy sẽ dùng buổi họp báo ngày 2/9 tại Mỹ để áp lực (như Lodge đã đề nghị). Nếu không thể dùng đường lối ngoại giao và chính trị để thuyết phục, Mỹ sẽ tạm ngưng viện trợ. Ngoại trưởng Rusk còn cho lệnh Lodge, nếu cần, bảo thẳng ông Diệm phải chứng tỏ cho người Mỹ thấy rằng chính phủ Kennedy “không thể đòi hỏi quốc dân Mỹ bị giết để yểm trợ Bà Nhu trong khát vọng nướng thịt sư.”(Ibid., IV:76-9)
Ông Nhu dường như bất chấp áp lực của Mỹ. Ngày 1/9, các báo thủ đô chạy tin lớn trên trang nhất lời tuyên bố ngày 29/8 của Tổng thống Pháp de Gaulle—đề nghị hai miền Bắc và Nam tham dự một hội nghị hoà bình, thống nhất, và trung lập hoá miền Nam.(CLV, SV, 91:156) Thực ra, de Gaulle chỉ lập lại những gì đã từng nói với Kennedy trong chuyến thăm Pháp từ 31/5 tới 2/6/1961. Nhưng ở thời điểm liên hệ Mỹ-Việt đang căng thẳng này, đề nghị của de Gaulle mang một ý nghĩa đặc biệt. Nói theo Bộ trưởng Văn hóa Trương Công Cừu, chính phủ Diệm “hiểu rõ mọi hàm ý của Paris.” Ông Nhu cũng đã cho Bản tin Việt Tấn Xã ngày 30/8 đăng trên trang nhất trọn bài diễn văn của de Gaulle.
Thật khó đoán de Gaulle có hàm ý gì. (Thời gian này, Trần Văn Hữu cũng chủ trương trung lập, và có liên hệ với Bộ Ngoại Giao Pháp. Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam cũng cổ võ trung lập.) Chỉ biết lời tuyên bố trên gây sôi nổi dư luận Mỹ. Ngày 30/8, New York Herald Tribune nhận định rằng de Gaulle muốn yểm trợ Diệm, gây ảnh hưởng ở Việt Nam. Tờ New York Times cho rằng de Gaulle bày tỏ sự bất mãn với chính sách Mỹ. Tờ Washington Post nghĩ de Gaulle muốn Pháp sẽ thay thế Mỹ. Phía sau hậu trường, ngày 30/8 [31/8 tại Việt Nam], Đại sứ Pháp Hervé Alphand giải thích với Ngoại trưởng Rusk rằng giải pháp trung lập có thể thực hiện được vì hiện nay Mao Trạch Đông muốn chiến tranh, trong khi Hồ Chí Minh muốn hòa bình, và Hồ vốn chống Trung Hoa. Rusk không đồng ý, coi nền trung lập giả hiệu ở Việt Nam là điều nguy hiểm nhất, sẽ tạo nên những khó khăn cho các nước lân bang, kể cả Indonesia. Alphand hứa sẽ tuyên bố với báo chí rằng Pháp không có ý định dàn xếp với Diệm hay bành trướng ảnh hưởng và làm hại Mỹ. Rusk đề nghị Alphand giải thích rằng lời tuyên bố của de Gaulle phản ảnh quan điểm dài hạn của Pháp. Alphand cũng hết sức bệnh vực ông Diệm. Theo Alphand, mặc dù Diệm không được ưa thích, nhưng chưa tìm được ai thay. Rusk xác nhận không chống ông Diệm mà khó khăn chính là Nhu. Rồi hỏi ý Alphand về việc cho Nhu qua Pháp; Alphand đáp không hiểu Nhu có chịu qua Pháp nghỉ hưu hay chăng. (FRUS, 1961-1963, IV:59-61)
Tại Sài Gòn, Đại sứ Lalouette cũng muốn hòa giải giữa ông Diệm và Cabot-Lodge. Nhân dịp Lodge đến thăm xã giao, ngày 31/8, Đại sứ Pháp ca ngợi ông Diệm là quốc trưởng có khả năng nhất ở Đông Nam á; nhưng không là một nhà chính trị, không biết ăn nói, không biết cách gây thiện cảm với báo chí, v.. v… Phần Nhu rất thông minh, phụ giúp Diệm đắc lực. Theo Lalouette, ông Diệm có thể chiến thắng CS. Hiện trạng tại Việt Nam là do giới truyền thông tạo nên. Báo chí đã tạo nên sự xúc động quá mức ở hải ngoại hơn trong nước. Trong thời Pháp thuộc, nhiều sư tự thiêu nhưng chẳng gây nên phản ứng gì trong dân chúng. Tình hình đã êm dịu dần. Phật tử được phóng thích, Luật số 10 sẽ bị rút lại. Các chùa sẽ được sửa chữa do chính phủ chịu phí tổn. Một lễ sẽ được tổ chức tại chùa Xá Lợi. Lệ Xuân sắp rời nước trong vài tháng để thăm India và Mỹ. Lalouette thêm rằng các viên chức Việt muốn được nói chuyện với Lodge, nhưng Lodge đứng xa, nên họ lùi lại. Rồi Lalouette đi thẳng vào vấn đề, hỏi: “Cần làm gì để hài lòng Mỹ?” Lodge đáp: “Loại bỏ vợ chồng Nhu.” Lalouette nghĩ rằng chuyện này không được, và đề nghị đưa một ai đó lên làm Thủ tướng, giảm bớt trách nhiệm của Nhu. Vẫn theo Lalouette, trong một hai năm nữa, chiến tranh du kích sẽ tàn đi. Việt Cộng đang thất vọng, và tinh thần xuống rất thấp ở miền Bắc. Khi cuộc chiến tranh du kích chấm dứt, sẽ có thể giao thương, gạo miền Nam, than miền Bắc. Sau đó sẽ đi đến thống nhất. Khi Lodge từ biệt, Lalouette nói: Hãy trấn an dư luận Mỹ và đừng đảo chính. (FRUS, 1961-1963, IV:58-9)
Lời khuyên của Lalouette khó thay đổi định kiến của Lodge với chế độ Diệm, những người mà Lodge đánh giá như “dối trá và tội phạm.” Chiều Thứ Hai, 1/9, Cabot-Lodge áp lực ông Nhu phải thực hiện ngay lời hứa với Đại sứ Nolting từ ngày 10/8: Đó là bắt Tổng Giám Mục Thục rời nước và Lệ Xuân ra đi. Phần ông Nhu cũng đồng ý rút lên Đà Lạt.(VNNB, I-C: 1955-1963, tr. 288, 325-6, 336-7, 339-41)
Ông Nhu chưa chịu buông xuôi, quyết đổ thêm dầu vào lửa. Sáng ngày 2/9, ông Nhu tiếp Maneli ngay tại Dinh Gia Long. Trưa đó, tờ Times of Vietnam đi một bản tin nẩy lửa, 8 cột, với tựa “CIA Financing Planned Coup d’ état” [CIA tài trợ kế hoạch đảo chính], lên án Mỹ và CIA đã âm mưu tổ chức cuộc đảo chính vào ngày 28/8 nhưng không bị Nhu bẻ gãy. Theo báo này, từ tháng 1/1963, các chuyên viên đảo chính Mỹ—từng thành công ở Turkey, Guatemala, Đại Hàn, nhưng thất bại ở Iran và Cuba—lũ lượt kéo tới Việt Nam. Mỹ đã tiêu từ 10 tới 24 triệu MK để thực hiện đảo chính, và quĩ mật này Quốc hội Mỹ không hề hay biết. Kế hoạch đảo chính thoạt tiên dự trù vào ngày 28/8, nhưng phải ngưng lại vì Việt Nam đã ra tay trước, thiết quân luật từ ngày 21/8. Các ký giả quốc tế ở Manila đã được “tin mật” rằng Diệm sẽ dừng lại ở Manila vào ngày 29/8, trên đường lưu vong. Giờ mưu định đảo chính là 11 giờ tối ngày 28/8, nhưng sau đó phải hoãn lại vì chính phủ Việt Nam biết rõ mọi chi tiết, và cương quyết chống đến cùng, cho dẫu phải tử chiến trên đường phố Sài-gòn. Tổng thống de Gaulle, vẫn theo báo này, tỏ ra rất bất mãn (indignant) vì một cuộc đảo chính tương tự không dễ dàng thành công, chỉ làm lợi cho Cộng Sản. Với cuộc tranh đấu của Phật Giáo, tờ báo Mỹ ngữ của ông Nhu thách đố các tu sĩ tiếp tục tự thiêu. (CĐ số 747, ngày 2/9/1963, Sài-gòn gửi Paris; CLV, SV, 17:51)
Sự khiêu khích mới này khiến Cabot-Lodge khó tha thứ cho ông Nhu. Nhưng người Mỹ thường tự hào họ là người của hành động [doers]; và, chẳng mấy quan tâm đến những lời sỉ vả, nhục mạ thô tục mà người Á Đông ưa thích (kiểu Mao Trạch Đông cho quân lính xếp hàng dài theo biên giới Nga, đồng loạt tụt quần trận, chổng mông về phía phòng tuyến Nga).
Bởi thế, Cabot-Lodge đẩy mạnh hơn kế hoạch “chuyển tiếp” của mình. Để tạo thêm áp lực, Lodge khai thác tối đa hành động ve vãn Cộng Sản của ông Nhu, với sự tiếp tay của Pháp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét