Kính dâng hương linh Giáo sư Trần Ngọc Ninh - Tôi thường đi thăm mộ bà cụ tôi ở Loma Vista Memoral Park ở Fulleton, ngọn đồi Ngoạn Mục nhìn xuống vùng biển Quận Cam. Lên đây nhiều lúc là để đi tìm thân tâm an lạc.Đây là một trong những khu nghĩa trang sớm nhất của người Việt tị nạn do hội Tương Tế Hưng Yên thành lập nằm trong Công viên này.Mỗi lần thăm viếng, trước khi ra về, trong khi chờ cho tuần nhang cháy hết, hai vợ chồng chúng tôi thường đi thắp nhang cho những ngôi mộ ở đây. Tại đây cũng có mộ của một vài bác sỹ Y khoa tôi quen biết hay nghe nói tới.
<!>
Một lần chúng tôi khám phá ra một tấm bia của Thầy Trần Ngọc Ninh trên một sinh phần của Thầy đã làm sẵn cho ngày mình về cõi Phật. Trên cùng bia có hàng chữ Tây Phương Cực Lạc, dưới là chữ vạn Phật giáo tay chỉ về bên trái của Đức Phật A-Di-Đà (chủ trì Tây Phương Cưc Lạc). Chính giữa là tên Thầy (không tước vị), ngay dưới là hàng chữ Orgyen Karma. Đây chính là pháp danh của thầy. Bên trái là ngày tháng năm sinh và cố quốc Việt Nam. Bên phải phần dành cho ngày về Tây Phương Cực Lạc còn để trống. Dưới cùng là hình hoa sen.
Ngôi mộ sát bên là mộ của cô Trần Ngọc Ninh mất vào mùa đại dịch Covid-19 vừa qua, đám tang chỉ tổ chức trong vòng gia đình, thân quyến nên chúng tôi không tham dự được.
Hiển nhiên Orgyen Karma là từ Phạn ngữ Phật giáo Tây Tạng. Giáo sư Trần Ngọc Ninh là một học giả uyên bác về Phật học đã từng đóng góp rất nhiều trong việc thành lập Viện Đại Học Vạn Hạnh Saigon, Việt Nam (được Bộ Giáo dục Việt Nam Cộng Hòa cấp giấy phép ngày 17 tháng mười năm 1964, với Thượng tọa Thích Minh Châu làm viện trưởng). Giáo sư cũng đã là thầy giảng dậy về Phật học tại đây và xuất bản nhiều tác phẩm về Phật giáo.
Orgyen Karma phải là pháp danh thầy ưng ý mang đầy ý nghĩa.
Hãy tìm ý nghĩa riêng rẽ của Orgyen và Karma.
+ Orgyen
Trong Phật giáo Tây Tạng, orgyen dịch từ Tạng ngữ Uddiyana, một địa danh cổ được cho là ở Thung Lũng Swat ngày nay thuộc Kashmir, Pakistan. Đây coi như là một nơi thiêng liêng trong Phật giáo liên quan thiết yếu với sự xuất hiện của Đức Phật dưới dạng Chakrasamvara và được tin là nơi sinh của Đại sư Padmasambhava, Liên Hoa Sinh (Sinh Ra Từ Hoa Sen) (cũng thường được biết dưới tên là Guru Rinpoche), người đóng một vai cột trụ trong việc thành lập Phật giáo Tây Tạng (xem dưới).
· Chakrasamvara
Khuôn mặt thứ nhất của Orgyen là Chakrasamvara, tiếng Tạng là Khorlo Demchok là một Chư Tôn Thiền Định Yidam đáng kể trong Phật giáo Kim Cương Thừa Tây Tạng.
Phạn ngữ Chakrasamvara = chakra + samvara: Chakkra = cakra = xa (bánh xe, vòng tròn, chu kỳ). Samvara có nhiều nghĩa có một nghĩa phát gốc từ quan niệm Saiva của Samvara, “the supreme pleasure,” ‘ Cực Lạc’
(Sai- ~ khoái: khoái lạc, khoái cảm). Vì thế Chakrasamvara hiện nay dịch là Thắng Lạc Kim Cương và ngài cũng là ‘Wheel of Bliss’, ‘Bánh Xe Hạnh Phúc, Hoan Lạc’.
-Biểu Tượng
Ngài là biểu tượng cho Hợp nhất của Trí tuệ và Từ bi giúp người tu hành đạt được giác ngộ tối thượng.
-Hình Tượng
© Photograph by Gabe Hiemstra.
The National Museum of Nepal (Rashtriya Museum).
Thường diễn đạt với Phật mẫu Vajravarahi ôm nhau diễn tả trạng thái không tách rời nhau được của hai sắc thái Trí tuệ và Từ bi của ngài (đối chiếu với vũ trụ thuyết là nòng nọc, âm dương
nhất thể, trứng vũ trụ, thái cực).
Hình tượng thường có nhiều mặt và tay, đôi khi với mặt con lừa trong vài truyền thống và trang sức nhiều châu báu.
Phật mẫu Vajravarahi cũng là một khuôn mặt nổi bật thường ôm chặt Ngài.
Cũng cần phân biệt Chakrasamvara với Samantabhadra.
Samantabhadra (kỷ vật của tác giả mua ở Tây Tạng).
(Lưu ý Samantabhadra không có trang sức).
Hai hình tượng khác nhau nhưng liên hệ với nhau.
Samantabhadra, trong một vài truyền thống Phật giáo Tây Tạng thường được coi như là Phật nguyên thủy (primordial Buddha), là Pháp Thân (Dharmakaya) hay là nền tảng tột cùng của Sinh. Còn Chakrasamvara, ngược lại chỉ là Yidam (một chư thần Thiền định) là một Sambhogakaya (Bảo Thân) biểu hiện cho sự hợp nhất giữa trí tuệ và phương tiện.
Cả hai khác nhau về thực thể nhưng có thể liên kết qua quan niệm Tam Thân (Three Kayas) Phật (Kaya chính là Việt ngữ Cây, Thân cây vì thế Three Kayas dịch là Tam Thân) trong đó Samantabhadra được coi là nguồn cội của tất cả (đối chiếu với vũ trụ thuyết, vũ trụ tạo sinh thì Samantabhadra, nam, nõ ôm Samantabhadri, nữ, nường là nguyên lý căn bản nường nõ, nòng nọc, âm dương sinh ra tất cả).
Để phân biệt thì Samantabhadra mang nguyên lý nõ nường nguyên thủy (trần truồng) nên không có trang sức trong khi Chakrasamvara có rất nhiều trang sức mang ý nghĩa hỗ trợ cho việc tu tập thiền định, ví dụ như có cả hình sọ người (ở hình tượng đồng ở trên, vành trang phục đầu có 6 sọ người).
-Mandala
Mandala này được nhận thức như là cung điện vũ trụ của Chakrasamvara và Vajravarahi tọa lạc ở trung tâm. Hai vị này là hiện thân của sự hiểu biết bí truyền của Yoga Mật tông. Vòng ngoài 6 cánh hoa sen là sáu thần nữ. Vòng quanh mandala là 8 vùng chôn cất của Ấn Độ, mỗi vùng ngự trị một vị thần ở dưới một cây. Nghĩa trang là chỗ thích hợp cho tĩnh tâm về Chakrasamvara và là biểu hiện của các thế giới hiện hữu khác nhau. Dưới cùng ghi lại năm dạng nữ thần Tara, một tùy thân mật giáo ở bên trái và hai hiến nhân bên phải.
Mandala này là một bức họa sớm nhất còn sống sót lại của Nepal. Kiểu cách liên hệ với Nepal thủ ký và thủ ký lá kè Đông Ấn của thế kỷ 12.
Nhìn theo vũ trụ tạo sinh thì mandala diễn đạt cấu trúc đại và tiểu vũ trụ. Vòng tròn nhỏ ở tâm có hình Chakrasamvara và Vajravarahi ôm nhau diễn đạt hư không, hư vô (nòng nọc, âm dương khi nhìn dưới diện đối cực là triệt tiêu là số bù, zero có một nghĩa là hư không, hư vô); diễn đạt thái cực khi nhìn dưới diện nhất thể và lưỡng nghi khi nhìn dưới diện phân cực [theo duy dương là mặt trời. Ở đây là mặt trời hoa sen 6 cánh là 6 nữ thần là mặt trời âm nữ (số 6 là Tốn, OII, âm O thái dương II, O (phương ngữ Huế O là người nữ) thái dương, nữ thần thái dương như Âu Cơ có mạng Tốn là một O Thái Dương], là Càn âm. Vòng tròn bên ngoài bao quanh đầu 6 cánh hoa diễn đạt không gian Khôn. Ta có Càn Khôn mang tính nòng âm của Phật giáo nói chung, nhất là của Mật tông Tây Tạng (hoa sen cũng có thể liên hệ với Tổ sư Liên Hoa Sinh của Phật giáo Tây Tạng, xem dưới).
Hình vuông diễn đạt Đất vuông ứng với tứ tượng. Vòng tròn lớn ngoài cùng diễn đạt bầu trời. Ta có Đất Trời.
Rõ như ban ngày mandala diễn đạt cấu trúc Càn Khôn đại vũ trụ và Trời Đất tiểu vũ trụ bao gồm tam thế, thế giới muôn sinh, ở đây mang tính nòng âm của Phật giáo Mật tông Tây Tạng.
Mạn-đà-la Chakrasamvara biểu tượng cung điện của ngài dùng trong thiền định và tế lễ.
Tóm gọn lại theo Mật tông Chakrasamvara biểu tượng cho Hợp nhất Trí tuệ (Chakrasamsara) và Từ bi (Vajravarahi) đưa tới Giác ngộ tối thượng.
Có cả trăm pho sách lý giải điều này. Tuy nhiên khá đơn giản khi đem đối chiếu với vũ trụ giáo. Ta thấy Trí tuệ Chakrasamvara là Yab (nọc, nõ, nam, cha, dương) (Yab ~ Việt ngữ chém, đâm, với Anh ngữ jab, đâm bằng vật nhọn, nọc, nõ) và Từ bi Vajavarahi là Yum (nòng, nường, nữ, mẹ, âm) (Yum ~ đùm là bao túi, là đùm bọc, túi bao là nang là nường). Yab Yum là nõ nường, nòng nọc, âm dương (xin mở một dấu ngoặc ở đây, tôi dùng từ nòng nọc với nghĩa nguyên thủy nường nõ cùng với nghĩa yab yum Tạng ngữ trong khi Hán Việt âm dương hiểu theo nghĩa liên hệ với mặt trời là từ có rất muộn sau này. Dịch nòng nọc Đông Sơn nguyên thủy hơn dịch âm dương Hoa Hạ). Chakrasamvara, Bánh Xe Hoan Lạc yab ôm Vajravarahi yum, nường là nõ nường, nòng nọc (âm dương), ở dạng nhất thể là vũ trụ, Càn Khôn. Trí tuệ và Từ bi là Càn Khôn, vũ trụ. Chakrasamvara là vũ trụ có một khuôn mặt tối thượng là hư không, mang tính Không. Giác ngộ tối thượng là đạt tới Tính Không. Thật là giản dị.
Một lần nữa ta thấy rõ Phật giáo là vũ trụ. Thấu hiểu, thấy rõ lý lẽ, luật vũ trụ là hiểu thấu giáo lý, luật, pháp Phật (cả hai là một) là đạt được giác ngộ tối thượng.
Cũng nên biết tính nhị nguyên rất đậm nét trong Mật tông Tây Tạng. Ví dụ điển hình là các Đa Lai Lạt Ma là hiện thân của Bồ Tát Avalokiteshvara mang tính nhị nguyên (ở Tây Tạng Avalokiteshvara là người Nam, ở Đông Nam Á là Phật Bà). Đặc biệt tính nhị nguyên trong Mật tông được thể hiện rất ‘hiện thực’ (rất X) thấy ở dạng giao phối nõ nường vì pha trộn với tín ngưỡng cổ truyền Bon mang đậm tính nường nõ, nòng nọc, tiền thân của vũ trụ giáo.
· Padmasambhava.
Khuôn mặt thứ hai của Orgyen là Padmasambhava hay Padmakara, Liên Hoa Sinh (= Padma-, hoa sen, + sambhava, sinh ra từ), tương truyền rằng ngài sinh ra từ một đóa hoa sen. Ngài còn được gọi là Guru Rinpoche (Đạo Sư Quý Báu), vì ngài có nhiều phép thần thông trừ khử được ma quái và thiên tai. Ngài có thể nắm bắt được tia sáng mặt trời nên có một dạng là Nhật Quang Đại sư (Suryarasmi Guru).
Ngài vốn là một Đại sư Ấn Độ đem Phật giáo vào Tây Tạng trở thành tổ sư ngành Ninh Mã (Nyingmapa), một trong bốn tông phái lớn của Tây Tạng và được các đệ tử gọi là ‘Phật Thứ Nhì’.
Có nhiều học thuyết của giáo phái Ninh Mã của Đại sư Liên Hoa Sinh giảng dậy Phật tử giúp đạt tới giác ngộ, trong đó có sáu điểm cụ thể: 1. học nhập tâm giáo lý, lời Phật dậy, 2. chọn theo một ngành, một tông thích hợp với mình, 3. sống khiêm tốn, không kiêu ngạo, coi thường quyền uy, danh vọng thế gian, bỏ qua các danh hiệu lừng lẫy của tục thế. Trau dồi tâm thức vút lên cao…, 4. buông xả (upeksa). Sống theo mọi sự kiện xảy ra, có gì ăn nấy, giầu sống theo giầu, nghèo sống theo nghèo, không kiêu sang hay tán thán…, 5. Vô tư, không thiên kiến, coi nhân gian là như thế, mỗi con người là như vậy. Quan sát thế gian như một người đứng trên đỉnh núi cao nhìn xuống, 6. Cấp cao nhất thứ 6 này là đạt tới tính không, tương ứng với Không (Sunyata)…
…….
Vì vậy tóm lại Orgyen có thể là một nơi chốn thiêng liêng liên quan thiết yếu với sự xuất hiện của Đức Phật dưới dạng Chakrasamvara, biểu tượng cho hợp nhất trí tuệ (Chakrasamsara, nọc, nõ, nam, cha, yab, dương) và từ bi (Vajravarahi, nòng, nường, nữ, mẹ, yum, âm) đưa tới giác ngộ tối thượng. Chakrasamsara cũng được tin là nơi sinh của Sư tổ Padmasambhava, Liên Hoa Sinh (Sinh Ra Từ Hoa Sen) nên liên hệ với Liên Hoa Sinh.
(Dựa theo Lama Yeshe Wisdom Archive).
Karma
Còn Karma như đã biết là Nghiệp. Phạn ngữ Karma có nghĩa đen là “action” (hành động) hay “doing” (làm, việc).
Theo biến âm k = h (như kết = hết, kanji Nhật kai = Hán Việt hải: Hokkaido: Bắc Hải Đảo), ta có kar(ma) = hạt (hột) của quả. Quả có hạt, hột là nhân mọc ra cây. Cây lại sinh ra quả có hột. Ta có vòng nhân qủa. Karma dính liền với vòng nhân quả thấy rõ qua karma ruột thịt với क karman, the spiritual principle of cause and effect (nguyên lý tâm linh của nhân và quả).
Như vậy karma theo Việt ngữ là làm, làm nên, gây nên gắn liền với luật nhân quả.
Trong Phật giáo karma thường phát triển tự nhiên theo sự thúc đẩy, năng lực vận hành từ ý tưởng, cảm nhận,hành vi, cư xử, tư cách đi kèm với hậu quả, kết quả (nhân quả) của chúng. Từ đâu tạo thành nghiệp? Theo Phật giáo có Tam Nghiệp gồm: Ý (ý nghiệp), Miệng (khẩu nghiệp) và Thân (thân nghiệp).
Nghiệp có nghiệp ác (ác nghiệp) làm khổ người và làm khổ chính mình (vì nghiệp quả): nghiệp chướng là một thứ nghiệp ác làm, tạo ra chướng ngại. Chướng ngại gây ra do kết quả của hành vi xấu ác.
Nghiệp thiện, nghiệp lành đưa tới thành quả tốt, an lạc…
Nghiệp báo, quả báo: là sự báo đáp, báo đền, đền trả tương xứng, sòng phẳng, báo ứng ngay nhãn tiền, hiện tại hay mai sau ở kiếp này hay kiếp sau (ác nghiệp kiếp trước đã làm kiếp này phải chịu gọi là túc nghiệp) (vì thế Hán Việt nghiệp có thêm một nghĩa là nhân, nguyên nhân).
…….
Chúng ta làm nên karma, nghiệp chúng ta phải nhận, chấp nhận, chịu nghiệp vì tự mình tạo nghiệp.
Đã mang lấy nghiệp vào thân,
Cũng đừng trách những trời gần hay xa.
(Nguyễn Du, Kiều).
Chúng ta hưởng và trả nghiệp theo bổn phận một cách công bằng theo nghiệp báo, quả báo. Không ai giúp ta trừ khử nghiệp riêng của mình. Đức Phật cũng đã từng dậy Ngài không rũ được nghiệp của ai. Không một đấng tạo hóa thần linh nào giúp ta trừ bỏ nghiệp của mình. Nghiệp tự nó không tiêu tan đi, chúng ta phải thực hiện, làm lấy qua những thực hành thanh tẩy đặc biệt.
Hiểu thấu được nguyên lý và luật karma là tìm thấy được ánh sáng của thế giới con người tiểu vũ trụ của mình và của cả đại vũ trụ.
….
Tóm lại
Hai từ Orgyen và Karma được dùng nhiều trong văn hóa Tây Tạng. Nhiều Đạo sư dùng Orgyen làm tên, danh hiệu hay tước hiệu vì liên hệ với nơi sinh và chính cả với Đại Sư Liên Hoa Sinh.
Orgyen Karma dùng theo nghĩa kết hợp của hai từ nhấn mạnh sự quan trọng của hành động giác ngộ và nguyên lý nhân quả trong Mật Tông Tây Tạng và sự liên kết của nó với dòng trí tuệ của Liên Hoa Sinh.
Từ những ý nghĩa này tôi tin là với kiến thức uyên bác về Phật giáo, Giáo sư Trần Ngọc Ninh đã chọn một ý nghĩa thâm sâu riêng cho pháp danh của mình và có lẽ khó có ai thấu rõ được. Orgyen Karma bao trọn nghĩa của Phật giáo dưới dạng Thiền tông Yima và Mật tông Hoa Liên Sinh. Orgyen Karma bao phủ trong màn huyền bí của Mật tông Tây Tạng.
Trước khi chấm dứt xin nói thêm rộng ra một vài điểm đáng nhớ của tôi với Thầy.
Tôi không có cơ duyên làm học trò ruột của thầy (tôi chọn ngành sản phụ khoa đi thực tập tại Bảo Sanh Viện Hùng Vương) nhưng rất thích mẫu người thầy thuốc uyên bác đa văn hóa của thầy. Tôi học chữa trị con bệnh theo ba mặt thể xác, tâm linh và xã hội nên không bỏ sót một giờ giảng dậy nào của thầy. Thầy dậy gẫy xương nhưng không phải chỉ mổ, chỉ nắn, chỉ ráp xương mà lưu ý đến cả cái gẫy đổ của tâm hồn và đời sống của bệnh nhân. Những bài giảng của Thầy thật hấp dẫn mang đầy kiến thức y học, khoa học, triết học, văn hóa loài người…
Những ngày có giờ học của thầy ở Bệnh viện Bình Dân, thường là vào lúc trưa, Thầy thường tới muộn vì bận mổ hay bận công việc ở Bộ Giáo Dục (lúc đó thầy làm Tổng Trưởng Giáo Dục), tôi thường ra quán cóc ở góc bệnh viện ăn lót dạ trước giờ học nên là người nghe lời giảng cuối cùng của Thầy rồi mới rời lớp học, mặc dù có khi đã hơn hai giờ chiều.
Khi đi thực tập tại Bệnh Viện Bình Dân tôi chỉ may mắn có dịp được vào phòng mổ dự khán xem thầy mổ một vài lần. Tôi còn nhớ mãi câu thầy mắng anh bạn cùng lớp ‘trong phòng mổ các anh phải đi ngang như cua’ (không quay lưng lại phía người bệnh đang nằm trên bàn mổ để tránh gây nhiễm trùng). Sau này mỗi khi mổ xẻ bệnh nhân tôi lại nhớ câu thầy dậy này và tôi vẫn giữ lời khuyên của thầy là di chuyển ngang như cua trong phòng mổ.
Tôi cũng nhớ lời dậy bảo của Thầy Phạm Biểu Tâm lúc cầm dao mổ lần đầu tiên: ‘các anh phải cầm dao mổ như cầm cây cung kéo đàn vĩ cầm’.
Lần đầu được giáp mặt nói chuyện cởi mở với Thầy là vào một buổi trưa lúc nghỉ giải lao ở Bệnh Viện Saint Paul khi tôi đi phụ mổ cho Thầy Đặng Trần Hoàng (lúc đó tôi làm nội trú ủy nhiệm ở Bảo Sanh Viện Hùng Vương). Thầy nói chuyện rất thân mật coi tôi như là một đàn em, một đồng nghiệp.
Khi qua Hoa Kỳ có nhiều dịp gặp Thầy hơn trong các buổi họp mặt y học và văn hóa.
Tháng 8 năm 1989 trong Hội Nghị Quốc Tế Y Sĩ Việt Nam Tự Do Kỳ II tổ chức ở Little Saigon, Quận Cam Thầy giao cho bác sĩ Vũ Đình Minh, Huỳnh Hữu Cửu và tôi nói chuyện về văn chương trong chương trình văn hóa của đại hội. Tôi nhận nói về cách viết truyện ngắn của riêng tôi. Lúc đó tôi viết rất nhiều truyện ngắn, sau này đã xuất bản thành các tác phẩm như Tình Thù, Chiếc Mặt Nạ Da Người, Những Mảnh Đời Tị Nạn, Đi… Truyện Cái Bát Đựng Tiền đã được Đài BBC đọc và trả 70 Bảng Anh cho tiền tác quyền (lúc đó thời tỵ nạn số tiền 100 Mỹ Kim này lớn vô cùng), truyện ngắn Sân Sau Nhà Họ Yang đã được tạp chí Nhịp Cầu ở Đức dịch qua tiếng Đức… Thầy nhiều lần đã tới phát biểu ý kiến trong những buổi ra mắt sách của tôi. Hôm thuyết trình ở Đại Hội Thầy giới thiệu tôi: ‘Bác sĩ Nguyễn Xuân Quang đã làmột nhà văn thành danh’, câu nói khích lệ này đã khiến có người không đồng ý và bất mãn với Thầy…
Lần cuối cùng gặp thầy gần đây, đã trên một trăm tuổi rồi mà thầy vẫn còn minh mẫn lạ thường. Thầy nói chuyện về Phật giáo liên tục hơn hai tiếng đồng hồ…
Cuối cùng thử ‘xủ’ một quẻ dịch nòng nọc (âm dương) về cuộc đời Thầy xem sao?
Thầy sinh ngày 6 tháng 11 năm 1923 (không biết giờ sinh) và mất ngày 16 tháng 7 năm 2025 (không rõ giờ mất), hưởng đại thọ 103 tuổi.
Sinh ngày 6: số 6 là số Tốn OII, tầng 1 là O thái dương II, thái dương II phía ngành âm O. Tháng 11: số 11 là số Đoài IIO (tầng 2: 3, 11) là thái dương II của âm O phía ngành dương. Năm 1923: cộng các số lại là 15, Càn (tầng 2: 7, 15). Tất cả ba: ngày 6 Tốn OII, tháng 11, Đoài IIO, năm 1923, cộng các con số lại = 15, Càn III đều có thái dương II. Cuộc đời Thầy mang tính thái dương sáng chói, dũng mãnh…, một thầy thuốc ưu tú, một học giả uyên bác…
Mất ngày 16 (Khôn tầng 3: 0, 8, 16), tháng 7 Càn (tầng 1) năm 2025 (cộng lại = 9, Chấn, tầng 2: 1, 9). Ta có ngày Khôn tháng Càn là Càn Khôn vũ Trụ. Năm Chấn IOO là khuôn mặt dương I của thái âm OO, là đại diện của Khôn ngành dương, lưỡng hợp với Càn III, là lưỡng hợp đại vũ trụ (thái là đại).
Như vậy ngày mất là ngày Thầy về với Càn Khôn, Vũ Trụ, với Đại Vũ Trụ ngành thái dương, về với Phật, với cõi Phật, với Niết Bàn, với Tây Phương Cực Lạc, về Orgyen Karma với vũ trụ Chakrasamvara Trí tuệ và Từ bi nhất thể, với vũ trụ huyền bí của Liên Hoa Sinh của Mật tông Tây Tạng…
Dĩ nhiên đây chỉ là chuyện bói toán ‘nói dựa’… vào các con số nhị nguyên, nòng nọc (âm dương) thôi, ai không tán đồng xin bỏ qua.
Kể từ bây giờ mỗi lần lên thăm mộ bà cụ tôi, chắc chắn chúng tôi sẽ ghé thăm mộ Thầy và Cô thắp một nén nhang tưởng nhớ.




Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét