Sau vụ nổ kho đạn tại sân vận động Long Khánh hồi chiều ngày 23 tháng 6 năm 1976, một ngày trước ngày bầu cử Thống Nhất Hai miền Nam Bắc – các trại tù nằm chung quanh kho đạn Long Khánh có hòm thư 7590 N9 T9 hay L9 T9...được phân chia đưa đi đến các trại tù khác trên khắp nước. Một số được đưa ra giam trong các trại tù ở ngoài Bắc, số còn lại vào các trại tù ở miền Trung và miền Nam. Ngày 12 tháng 7 năm 1976, toán tù bao gồm các sĩ quan biệt phái cấp nhỏ trong đó giáo viên, giáo sư, Nha sĩ, Bác Sĩ, kỹ sư được phân chia đưa đến các trại tù Ka Tum, phía Tây Bắc tỉnh Tây Ninh, dọc theo biên giới Việt Cao Miên.
<!>
Là một giáo sư biệt phái, tôi nằm trong toán tù này. Cũng giống như các lần chuyển trại tù trước đây, một số tù nhân đổi đi các trại tù khác, cho nên nhân số trong các đội như A, B... được sắp xếp và bổ sung trở lại.
Lần này, trước khi đi vào trại Ka Tum, tôi được bổ sung vào một toán 10 người, tức là lập thành 1 A mới.
Trong A của chúng tôi có 10 người. Tôi có nhiều kỹ niệm với các anh sau đây:
Nguyễn Sáu, Giáo sư Kỹ Thuật tại trung tâm Huấn Nghệ Thủ Đức:
Nguyễn Sáu là người Đà Nẵng, tốt nghiệp Giáo Sư Kỹ Thuật Đà Nẵng. Rất trẻ và rất khỏe. To con và rất năng động.Trong suốt thời gian ở trong tù, nhờ lớn con, khỏe mạnh,Sáu giúp rất nhiều anh em trong A trong các công tác nặng.Vì là độc thân, gia đình ở Đà Nẵng quá xa cho nên suốt 2 năm, trong lúc hầu hết các tù cải tạo, ít nhất 1 lần được gia đình thăm nuôi... thì Nguyễn Sáu vẫn là con mồ côi. Không có thân nhân thăm nuôi. Tuy vậy, Nguyễn Sáu vẫn được anh em trong tù lấy thực phẩm do người nhà đem ra ăn chung. Nhờ chuyên môn kỹ thuật đầy mình,Nguyễn Sáu đã giúp anh em trong tù rất nhiều trong công việc chế biến các dụng cụ dùng trong trại. Như anh em đi lượm các thanh sắt, miếng tole, dây kẽm gai về giao cho anh chế biến thành các thùng đựng nước, các nồi, xoong dùng trong nhà bếp. Thanh sắt anh Sáu rèn, mài thành dao đi rừng, chặt cây về làm giường ngủ, chặt mây về đan giỏ... Sáu và tôi cùng được phóng thích chung một ngày. Đó là ngày 20 tháng 5 năm 1977. Từ trại tù về đến Sài Gòn, hai đứa bơ vơ, rồi cũng phải chia tay để tìm đường về nhà. Sáu tìm đường về nhà quen ở Thủ Đức nơi trước kia anh ở trọ rồi sau đó về Đà Nẵng. Tôi về Phú Lâm, tìm đến nhà của một đồng nghiệp trước kia cùng dạy tại trường Trung Học Đô Thành Quận 6. Sáng mai mới ra xa cảng miền Tây về thăm vợ con ở Trà Vinh. Rồi sau đó mới tính chuyện về quê ở Vạn Giã. Từ ngày hôm rời trại cho đến nay chúng tôi chưa hề gặp lại nhau. Rất mong, Sáu, nếu còn sống đâu đó và đọc bài này, hãy tìm liên lạc lại với nhau.
Nguyễn Ngọc Tường: Vừa tốt nghiệp Quân Nha. Mang cấp bực Trung Úy chưa kịp ăn lương đã phải từ giã cô vợ mới cưới chưa đầy 6 tháng, với cái bầu 3 tháng. Tường người gốc Ban Mê Thuộc, rất đẹp trai và học giỏi. Năm 1968, đậu tú tài 2 về Sài Gòn thi đậu vào năm Dự Bị Nha Khoa, sau đó vào quân Nha. Lấy cô vợ cùng lớp, Nha sĩ, tốt nghiệp cùng năm. Đầu năm 1976, thư nhà báo tin cho Tường biết, Tường đã trở thành “Bố” của một cậu con trai... Lúc còn ở trại Tù Long Khánh, Nguyễn Sáu, Tường và tôi lập thành toán đào giếng trong khối. Long Khánh vùng đất đỏ, ở độ khá cao so với mặt biển. Mực nước ngầm nằm rất sâu dưới lòng đất. Vào mùa nắng, nhu cầu nước rất lớn. Nhiều trại không có nước để cho tù cải tạo giặt giũ, tấm rửa. Chỉ còn cách chờ mưa. Riêng trong khối chúng tôi, 3 đứa đứng ra chịu nhận công tác này. Nơi nào cần giếng, 3 đứa đi đào. Khởi đầu bao giờ cũng khó vì chưa có kinh nghiệm nhưng đào độ 3, 4 cái giếng, chúng tôi gần như học thuộc lòng, dễ như chơi.
Như đã nói, nước ngầm vùng Long Khánh nằm rất sâu trong lòng đất, nên phải đào thật sâu có khi trên 10m mới chạm được mạch nước. Rồi từ đó đào tiếp cho đến khi mực nước trong giếng lên đến thắt lưng. Cũng có lúc không may khi đào 5,6 m rồi mà bỗng dưng đụng phải núi đá ngầm lớn, đành phải lấp lại...Nhờ có cái nghề đào giếng, chúng tôi thường được rảnh và tự do hơn là đi làm các công tác khác. Khi chuyển trại tù về Ka Tum, cái nghề đào giếng cũng còn ăn khách, nhất là những ngày đầu. Tuy nhiên ở Katum, mực nước ngầm nằm không sâu dưới lòng đất cho nên sau đó, trại tù nào cũng có thể tự đào giếng được. Chỉ cần 3,4m sâu trong lòng đất là đã đụng mạch nước rồi. Nhưng rồi chúng tôi lại học được cái nghề mới, chặt tre. Cái nghề này cực lắm. Gai tre đâm nát tay chân. Nhất là các bụi tre nằm sát các nhánh sông hay vũng nước, thì ở đó có cả hàng trăm con vắt bao quanh. Lội qua vũng nước để trèo lên chặt tre, là sẽ bị hàng chục con vắt chun vào quần áo,hút máu khắp nơi.
Người ta nói “Nhất chặt tre, nhì ve gái” là vậy... Cuối năm 1977, Tường được trả về và được trở lại nghề, lúc đó làm tại một phòng răng ở khu Thanh Đa- Sài Gòn.
Nguyễn Vũ Phấn: Đại Úy Bác sĩ. 1 người rất chín chắn, đầm tĩnh. Là người lớn tuổi nhất trong A, anh em trẻ khác luôn luôn giúp anh Phấn trong các công tác khó khăn và nặng nhọc, như cưa cây, đốn tre, đào giếng, khiêng vác gỗ... Anh Phấn lo ẩm thực... Cuối năm anh Phấn cũng được trả về. Anh trở lại làm việc ở bệnh viện Nhi Đồng Quận 1, gần khu chợ Bến Thành. Về sau được một đồng nghiệp của anh, Bác Sĩ Diệp Tuấn Khải cho biết anh đã vượt biên và hiện định cư tại Đức.
Trung Úy Quân Y Nguyễn Ngọc Khôi là một chàng trai trẻ tuổi như Nguyễn Sáu và Nguyễn Ngọc Tường. Cũng vừa mới tốt nghiệp Quân Y, còn độc thân. Rất khỏe và rất vui tính. Lúc nào cũng tỏ ra hào hiệp giúp anh em trong A hay trong B...Mặc dù mới ra trường,theo tôi,anh có khá nhiều kinh nghiệm trong nghề. Chẳng là thế này: Hồi còn nhỏ, tôi thường đi gài bẫy bắt con Dông (con cắc ké trên bãi cát). Dông đực có màu vàng đỏ xanh rất lớn so với con Dông cái, nhỏ, màu xám rằn.
Dông đực (cồ)
Ở miền Trung,dông làm hang lỗ trên các cánh đồng cát, đầy cây gai bàn chãi (một loại xương rồng).Khi rượt bắt nó, tôi vấp chân té vào một bụi gai bàn chải. Tay tôi bị gai đâm khắp nơi. Lúc đó tôi khóc quá trời vì đau. Mấy đứa bạn tìm cách rút từng cây gai ra. Cũng may, chỉ còn có 1 cây đâm sâu trong da ở cườm tay phía dưới ngón tay cái bên trái. Nhìn xuyên qua lớp da, có thể thấy cây gai màu đen, rất rõ. Từ ở lứa tuổi 12, 13 cho đến lúc vào tù, cây gai bàn chải vẫn nằm phía dưới lớp da. Nó không làm độc, cũng chẳng đau đớn gì nên tôi cứ để như thế. Một hôm Khôi thấy tay tôi, Khôi hỏi chuyện gì xảy ra. Tôi kể lại. Đụng phải nghề của chàng, Khôi đề nghị để Khôi... lấy ra. Trời đất! Ở đây có gì mà Khôi dám ra tay. Khôi, dưới sự đồng ý của Đại Úy Bác Sĩ Nguyễn Vũ Phấn, hứa là sẽ giải quyết an toàn cái gai này cho tôi. Khôi nói, chỉ đau một chút thôi. Bằng cách nào? Khôi tĩnh bơ, bằng miếng mẻ chai bén. Khôi lục trong căn lều của A có một cái chai nhỏ. Khôi đập ra và chọn một mảnh bén nhọn vừa ý. Nguyễn Vũ Phấn đốt lửa hơ sát trùng miếng mẻ chai. Nguyễn Sáu cầm chặt tay tôi, Tường rạch thật nhanh một lằn nhỏ trên da tay ngay nơi có cây gai. Tôi đau nhói một chút nhưng Khôi đã trấn an: “Xong rồi, Sơn!” Khôi lấy cây gai ra hồi nào tôi không biết. Rồi Khôi rút trong túi ra một cuộn băng nhỏ mà người nhà đã đem cho Khôi khi đi thăm nuôi, cột chặt nơi vết cắt lại. Máu chảy ra một lúc rồi tạm yên. Suốt cả tuần tôi được anh em cho nghỉ ở nhà lo bếp núc. Đốn cây, cưa gỗ, khiêng vác... các anh lo hết...
Tuyệt vời. Cuối năm 1977 Khôi được phóng thích và trở về làm tại bệnh viện Sùng Chính, Chợ Lớn.
Cuối năm 1978, từ Vạn Giã về Trà Vinh ăn Tết và chuẩn bị đưa Mỹ Phụng và đứa con trai về Nha Trang để chuẩn bị cho chuyến vượt biên, tôi ghé lại Sài Gòn. Tôi tìm đến nhà vợ của Tường và được biết Tường đang giữ phòng răng ở Thanh Đa. Đến gặp Tường, Tường sắp xếp cuối tuần ghé bệnh viện Sùng Chính rủ Khôi đi xem đá banh ở sân Cộng Hòa. Đội PSV của Hòa Lan gặp xã giao đội tuyển Cảng Sài Gòn nhân đội tuyển của Hòa Lan nghỉ mùa Đông ở Châu Á. Tường cho biết, làm trưởng phòng của các cơ quan được ưu tiên nhận vé mời xem các trận đá. Và Tường đã lấy 3 vé. Riêng Bác Sĩ Nguyễn Vũ Phấn hôm đó không thể cùng đi xem đá banh vì phải trực ở bệnh viện Nhi Đồng Quận 1.
Dông Cái
Kiến Trúc Sư Trung Úy Hải Quân Đàm Thanh Việt là một người rất chín chắn, cẩn thận và rất... nghi thức. Lúc nào anh cũng mặc bộ quân phục Hải Quân màu xanh nhạt, bỏ áo trong quần, rất chỉnh tề. Rất ít nói, nhưng mỗi lần Việt góp ý, mọi người đều tán thành. Đơn vị cuối cùng của Việt là căn cứ Hải Quân Đà Nẵng. Trước năm 1975, tác phẩm nổi danh của Hải Quân là bức tượng của Đức Thánh Tổ Hải Quân Trần Hưng Đạo tại bờ biển Đà Nẵng là một trong những công trình kiến trúc có bàn tay và khối óc của KTS Đàm Thanh Việt tham gia xây dựng. Trong những ngày đầu toán tù vừa được chuyển từ trại tù Long Khánh về Ka Tum, KTS Đàm Thanh Việt đã giúp cho toàn Khối nói chung và cho A chúng tôi rất nhiều. Người tù Đàm Thanh Việt đã tận dụng khả năng chuyên môn của mình về mặt kiến trúc cũng như về điêu khắc, đã giữ vai trò chính trong việc xây nơi cư trú cho các tù cải tạo. Anh đã vẽ thành sơ đồ để xây các trại. Anh tính số lượng gỗ, kích thước. Cách đục đẻo trụ, đòn dông, rui, mè, và cách đánh tranh. Các toán đốn cây, đốn theo kích thước mà anh đã tính toán; các đơn vị đi cắt tranh theo số lượng anh cần; các toán ở nhà đục đẽo, phơi tranh, chẻ tre, đánh tranh... Rồi toán dựng nhà xây trại... Nhờ anh, cả doanh trại lớn của đơn vị L2 T4, chỉ trong vòng nửa tháng, đã có được các doanh trại lớn, che nắng che mưa cho cả hàng ngàn tù cải tạo. Nói đến KTS Đàm Thanh Việt, tôi còn nhớ đến hai sự kiện rất là lý thú:
Thứ nhất là cách sống của anh trong trại. Anh không bao giờ câu nệ, phàn nàn gì hết khi trưởng toán phân chia công tác. Chuyện gì giao cho anh, anh cũng vui vẻ nhận lời và thi hành một cách nghiêm chỉnh. Đâu ra đó. Anh vẫn còn độc thân mặc dù, lúc đó anh đã qua cái tuổi 30. Gia đình của anh ở Sài Gòn. Người duy nhất thăm nuôi anh là một bà chị. Trước ngày thăm nuôi, anh đi rừng tìm hai khúc gỗ hình cong, anh về đục đẽo thành hình cái chân tựa vào nền đất và con ngựa gỗ gắn trên hai cái chân hình vòng cung. Anh nói, mai mốt bà chị lên thăm nuôi, anh sẽ tặng cho đứa cháu con của bà chị vừa mới sinh nhật. Đúng như anh đã nói, hôm bà chị lên thăm, anh đã vác con ngựa gỗ đem tặng cho bà chị. Ai nấy trầm trồ vì nó giống hệt như con ngựa người ta bán trong các cửa hàng đồ chơi trẻ em.
Rồi trong những ngày nghỉ, những giờ nghỉ, anh miệt mài đi nhặt các thanh gỗ về đóng thành cái giường ngủ cho anh, rất là tân tiến. Trong khi anh em cứ nằm đại trên đất, hay lấy các thanh gỗ ghép thành cái sườn của một cái giường rồi ngủ cho qua ngày, anh Việt lại có sáng kiến khác. Anh làm thành cái giường rất có nét, đúng tiêu chuẩn của cái giường gỗ. Song thanh giường thẳng tấp và được cạo võ sạch sẽ chu đáo. Một phần đầu giường anh làm rời ra, có thể di chuyển theo độ cao, thấp theo như ý muốn... Nghĩa là giống như mấy cái giường hiện nay, có hệ thống tự động nâng cao hay hạ thấp cái đầu. Tuyệt vời! Với anh, đó là thú đam mê nghề nghiệp và nghệ thuật. Ngoài ra, theo anh, cũng là cách để quên đi những ngày dài trong tù cải tạo.
Một đặc điểm khác của KTS Đàm Thanh Việt là... tình yêu đối với loài thú. Hôm thăm nuôi, có lẽ do anh viết thư xin, bà chị đem theo một con gà con. Anh quý con gà như chính anh. Những ngày đầu, khi đi lao động, anh đem con gà theo bên mình. Phần cơm dù có thiếu, anh cũng dành cho nó một ít. Ngoài ra, khi nào rảnh, anh và con gà đi bắt trùn, bắt dế... Khi con gà lớn, anh làm cái chuồng nuôi nó, nằm sát cái giường của anh. Anh em trong trại hỏi anh chừng nào làm thịt nó, anh cười, lắc đầu, không bao giờ! Khi tôi được phóng thích hồi tháng 5 năm 1977, con gà vẫn còn ở bên anh.
Nhu cầu xây cất doanh trại và nhất là nhu cầu đốn gỗ làm củi chụm để Trung Đoàn L2 T4 bán cho dân lấy tiền quá lớn, lớn đến nỗi, cả khu rừng Katum lúc đám tù mới lên, còn rậm rạp dọc theo bên đường, nay trống rỗng. Phá rừng không tiếc tay. Đó là lệnh của Việt cộng bắt đám tù cải tạo phải đạt chỉ tiêu. Chỉ trong vòng 2 tháng, rừng sạch bách. Muốn có đủ gỗ để Việt cộng đem về Sài Gòn bán, đám tù phải thức dậy sớm, tiến sâu vào sát ranh giới Cao Miên để đốn gỗ.
Đốn gỗ để cho Việt cộng đem đi bán lấy tiền bỏ túi, tù cải tạo phải chọn gỗ đúng kích thước như ban quản giáo phân chia công tác. Đường kính của gỗ phải từ 30 cm và chặt ra từng khúc dài vào khoảng 80 cm. 1 khúc gỗ như vậy có một thể tích là: 1,5 x 1,5 x 3, 14 x 7 = 49 dm3 = 0,049 m3. Tỉ trọng của gỗ trung bình là 800 kg/ m3. Tính ra, mỗi tù nhân phải vác từ rừng sâu ra ngoài đường trước trại tù, xa chừng 2 km đến 3 km... nặng chừng 0,049 x 800 = 49 kg. Nặng gần bằng nửa tạ gạo. Cong lưng! Đến phiên toán chúng tôi được phân phối đi đốn gỗ, trong 5 ngày phải giao 1m3 gỗ cho ban quản giáo. Tính ra, phải đốn chừng 20 khúc gỗ với kích thước như trên là tạm đủ. Mỗi ngày 4 hay 5 khúc là được rồi. Vì gỗ tương đối nặng so với anh em lớn tuổi, cho nên mỗi lần đi, 6 người thay phiên nhau vác 5 khúc gỗ trên đường dài từ 200m đến 300m từ trong rừng ra bãi tập trung.
Theo 2 tên lính cảnh vệ cầm súng trên tay, Sáu, Khôi, Tường, Phấn, Việt và tôi mỗi sáng lên đường. Chừng 15, 20 phút sau, chúng tôi đến bìa rừng. Rừng ven biên giới còn khá rậm rạp. Ở đây anh em tha hồ chặt mây đem về đan giỏ. Nhưng trước hết phải tìm cho ra 1 cây cổ thụ, thường là cây sao, có kích thước thân đường kính vào khoảng 30 cm và còn chừng 4, 5 thước để chúng tôi mới có đủ kích thước gỗ đem về giao cho Việt cộng. Vì nhiều toán đi tìm cây lớn để cho đủ chỉ tiêu, rừng một ngày một mất dần cổ thụ. Vì thế, đám tù cải tạo mỗi ngày phải đi xa và đi sâu vào rừng để tìm cây có kích thước...
Một hôm, trong lúc tiến sâu vào rừng tìm cây, chúng tôi nghe tiếng khỉ kêu réo có vẻ như báo động. Phân biệt dễ dàng tiếng kêu của khỉ mẹ và khỉ con. Tiếng hét của khỉ mẹ nhảy từ bên này qua bên kia, thay đổi hướng liên tục; trong khi đó tiếng con khỉ con cũng vẫn tại một hướng.Việt là người đầu tiên lên tiếng:“con khỉ mẹ đang báo động cho khỉ con vì mình đang tiến vào... nhà của nó.” Và đúng như anh Việt nói, khi chúng tôi tiến về hướng con khỉ con, thì con khỉ mẹ chạy nhảy la hét gần như ngay trên đầu của chúng tôi. Khỉ mẹ muốn chận đứng chúng tôi để cứu khỉ con. Nhưng chúng tôi đã đến sát bên khỉ con rồi. Có lẽ vì mới sanh, còn yếu, nên khỉ con không nhảy theo mẹ kịp và khỉ mẹ cũng không còn đủ thì giờ để cứu con; Nguyễn Sáu đã trèo nhanh lên cây tính chụp lấy khỉ con. Nhưng nó tìm cách thoát thân trong khi con mẹ la hét cầu cứu, dọa nạt bên cạnh. Vì chúng tôi nhiều người nên khỉ mẹ dù rất thương con, dù rất đau lòng, cũng không đủ can đảm lao mình vào cứu con. Khỉ mẹ chỉ nhảy qua nhảy lại la hét... Con khỉ con vừa thoát khỏi tay của anh Sáu, nhảy qua cành khác, nhưng không may, rơi xuống đất một cái bạch. Khỉ con nằm bất động. Anh Việt đứng gần đó vạch lá cây chung quanh, tiến tới và nghiêng mình chụp lấy nó. Anh vội vàng lấy cái nón vải mà anh thường đội trên đầu khi đi rừng, trùm nó lại và bước ra bìa rừng... bỏ mặc tiếng kêu la thảm thiết của khỉ mẹ.
Một loại xương rồng
5 anh em chúng tôi tiếp tục làm công tác. Sau khi tìm được một cây cổ thụ vừa ý, Nguyễn Sáu và Nguyễn Ngọc Tường ra sức cưa, chặt, đục, đẽo...thành 5 khúc.
Mặt trời xế bóng từ lâu, theo lịnh của 2 tên lính cảnh vệ, 6 anh em thay nhau vác củi ra về. Riêng anh Việt được anh em tán thành, chỉ vác đi một đoạn ngắn, phần còn lại lo cho con khỉ. Anh lấy nước cho nó uống và nó bắt đầu tĩnh lại. Gào thét kêu mẹ làm cho anh Việt xốn xao.
Thuở đó ở trong trại, tù cải tạo thỉnh thoảng được phân phối sữa đặc có đường. Mỗi người 1 hay 2 muỗng để chấm bột sắn luộc ăn vào buổi sáng. Riêng phần của anh Việt, anh không ăn. Anh dành cho con khỉ. Nhờ chút ít sữa mà anh để dành nuôi nó, không bao lâu con khỉ bình phục.
Rừng Ka Tum vào cuối Đông. Gió lạnh và có mưa phùn. Đó đây trong trại có thì thầm ngày Chúa ra đời. Giáng sinh năm 1976 tại rừng Katum cũng tịch mịch như đêm Chúa sinh ra từ gần 2000 năm trước tại Thánh địa Jerusalem. Dân chúng lúc đó cũng lầm than như đám tù bây giờ.
Phần ăn của mỗi tù nhân ngày càng sa sút. Đối với Đàm Thanh Việt lại càng ít hơn vì còn phải nuôi thêm hai miệng ăn,con gà và con khỉ. Sức anh cũng kiệt dần. Con khỉ cũng không còn đủ thực phẩm để có thể sống qua mùa Đông. Con khỉ con bị bịnh trở lại. Bỏ ăn mấy ngày. Nhìn gương mặt với cặp kính cận của anh Việt, thấy mà thảm thương làm sao. Anh không còn vui, lười nói chuyện, kể từ khi con khỉ bỏ ăn...
Lại có lịnh chuyện trại, di chuyển sâu vào phía rừng. Kế hoạch xây nhà, cất trại để tránh nắng, đụt mưa lại tái diễn...Có một số tù nhân chuyển trại, mà cũng có thể ra về. Toán của chúng tôi lại sát nhập vào 1 toán tù khác. Lần này chúng tôi làm quenđược bác sĩ Đại úy Lê Cảnh Tư.Theo như anh em mới tái phối trí trại lại cho biết anh Tư là một nhân vật khá đặc biệt. Lúc còn ở đơn vị quân y vùng 2, hầu hết ai cũng biết tên BS Lê Cảnh Tư. Rất cứng đầu. Khi vào tù cải tạo, tánh tình không thay đổi 1 ly. Bướng bỉnh và... gan dạ. Nghe nói anh Tư coi quản giáo không ra gì cả. Nhốt anh, chẳng làm anh thay đổi.
Tình cờ chúng tôi và anh Tư cùng nằm trong cùng B. Một vài ngày sau khi cùng tham gia công tác, tôi mới hiểu tính của anh. Đúng như anh em cho biết. Rất bướng nhưng cũng rất thẳng thắn. Khi B trưởng giao công việc mà anh không nhận, anh nói rất rõ ràng, rằng anh chịu trách nhiệm. Cứ báo cáo như vậy. Anh không trách lỗi cho người khác.
Anh làm quen với chúng tôi. Nhân tiện anh Tư biết anh Việt có nuôi con khỉ và con khỉ đang bỏ ăn. Anh nói với anh Việt để cho anh chăm sóc. Bác sĩ mà!
Vững tin lời bác sĩ, anh Việt bằng lòng giao con khỉ cho BS Lê Cảnh Tư... điều trị...
Chiếc bánh bao nhưn thịt... trong đêm Giáng Sinh 1976 ở rừng Katum:
Mùa đông đã đến thực rồi. Mùa đông năm 1976 tại rừng Katum. Màn đếm xuống thật nhanh trong khu rừng. Ngày nào các toán tù đi công tác ở bên ngoài về cũng tối sẫm. Vội vàng tắm rửa, ăn uống cho qua loa rồi phải xách cái ghế cá nhân ra sân ngồi tập hợp đúng giờ để nghe Việt cộng đọc báo... Quân Đội Nhân Dân.
Đám tù ngồi, gần như người nào cũng gục đầu bất động. Một phần vì cả ngày làm việc cực nhọc; phần khác,do cái giọng lải nhãi, lừ đừ, đọc từng chữ còn chữ mất của cán bộ quản giáo. Chữ viết trên tờ báo đã nhỏ, mà ánh đèn dầu lại le lói và thỉnh thoảng lại bị cơn gió lùa qua, làm mất đi ánh sáng trên tờ báo, cho nên mấy tên cán bộ phải mò từng chữ. Cũng có vài trường hợp báo quá cũ, do xếp đi xếp lại nhiều lần, hàng chữ bị nằm trên vết xếp nhòa, nhìn không rõ, nên có lúc đọc sai. Một câu chuyện vừa có vẽ hài hước, vừa rất thật đã được truyền miệng trong trại tù về cách đọc báo ban đêm của mấy tên quản giáo.
Chẳng là vào cái thời đó, 2 nước ở Trung Đông gây gỗ nhau rất lớn. Chiến tranh thật sự đã diễn ra. Việt cộng lúc đó đã có tòa đại sứ hai nước này. Vì hai nước thuộc quốc gia hồi giáo, rất chống Mỹ, cho nên đã trở thành hai nước anh em với Việt cộng. Báo Quân đội nhân dân thường đăng các tin về hai nước này.
Một hôm, 2 anh quản giáo đem tờ báo cũ, lật ra lật lại tìm một câu chuyện... quốc tế về 2 nước bạn bè ở Trung Đông ra đọc và giải thích cho đám tù nghe...
Một anh đứng canh chừng, một anh lật tờ báo ra đọc.
Cái tựa đề của tờ báo không may nằm trên đường gấp của tờ báo, cho nên mấy cái chữ rất lờ mờ. Sau khi tằn hắn lấy bình tĩnh và dưới ánh sánh le lét của ngọn đèn dầu... anh ta bắt đầu câu chuyện: “ Hai nhà nước nhân dân, bạn bè với chúng ta ở Trung Đông đang gây chiến với nhau. Anh Một răn và anh Một rắc”...
Đám tù đang mơ màng, ngủ gà ngủ gật bỗng ngước đầu lên vỗ tay cười vang trong khu rừng...
I-Răn và I-Rắc. Chữ I hoa, anh ta tưởng là số 1 nên mới đọc là một răn, một rắc...
Những mẫu chuyện hài hước nhưng có thật đã xảy ra rất nhiều vào những ngày đầu đám lính Bắc cộng khi mới chân ướt chân ráo bước vào miền Nam ấm no và văn minh.
------
Hôm qua là ngày Chúa Sinh mà đám tù có đạo không được phép làm lễ đoán mừng chúa ra đời. Tối hôm nay, chủ nhật, 26 tháng 12 năm 1976, một ngày rảnh trong tuần, toán tù thoát khỏi đêm ngồi nghe đọc báo cho nên mặc dù đã trễ 1 ngày, anh em Công giáo vẫn âm thầm rủ nhau làm một cái gì đó để nhớ đến ngàyChúa ra đời.
Trong Khối có anh Trung Úy Hiển,một tín đồ Công Giáo giữ phần nhà bếp chính và thường trực. Anh cao nhồng và ốm như cây sậy. Trên gương mặt xương nhiều hơn thịt, đeo lủng lẳng đôi kính cận thật dày. Anh em gọi anh là Hiển cận. Anh bị bịnh suyễn gần như kinh niên, cho nên anh em đề nghị anh không đi lao động bên ngoài. Đó là lý do mà anh trở thành, nói như VC nói, anh nuôi của Khối. Toán nhà bếp, ngoài anh Hiển là đầu bếp chính và thường trực, còn có thêm 4 anh nữa, hằng tuần các đội thay phiên nhau gởi đến để lo phần nấu ăn cho cả trại.
Anh Hiển rất ngoan đạo. Anh nghĩ đến đêm Giáng Sinh phải có cái gì chút đỉnh để tưởng nhớ.Anh tính cả tháng trước. Mỗi ngày, anh trích ra 1 ít bột khoai mì (bột sắn) của phần ăn trộn, để dành.Sau gần một tháng, anh thấy đủ để làm món bánh bao cho đêm hôm ấy... Trăm hay, không bằng tay quen. Chẳng có ai có sẵn nghề cả, nhưng vào trong tù, vì sinh tồn, đã cố gắng vượt qua tất cả. Người học cái này, người tìm thêm cách khác để giải quyết cuộc sống trong tù. Anh Hiển cũng vậy. Là Trung Úy Quân Vận, anh biết chút ít về tiếp liệu, nhưng nấu ăn, làm bánh... mù tịt. Nay trong tình thế này, anh đã trở thành tay thợ nấu ăn có hạng. Dự tính của anh là làm một số bánh bao nướng cho đêm đón Chúa. Anh bàn chuyện với một số tín hữu Công Giáo trong trại. Tôi không biết BS Lê Cảnh Tư có phải là người Công giáo hay không, nhưng anh có liên lạc với anh Hiển để cùng làm bánh bao phụ với anh. Anh Hiển cần người phụ cho nên rất vui khi anh Tư tự nguyện đến giúp. Anh chia một phần bột bánh bao để anh Tư tự nhào trộn, vò thành cái bánh. Ngoài bột ra, anh Hiển không có gì để làm nhưn. Đành làm bánh bao không nhưn... vậy.
Chiều chúa nhật hôm đó, các B trưởng hợp nhau bàn chuyện, lấy lý do trời lạnh và không có giờ đọc báo, xin phép ban quản giáo cho phép anh em đốt thân gỗ khô nằm ở phía góc Tây của trại, hơ ấm trước 9 giờ tối. Đó là giờ bắt buộc tất cả tù cải tạo phải lên giường và êm lặng. Quản giáo bằng lòng và không quên lời hăm dọa là không tụ tập để bàn chuyện phản động và phải giữ trật tự giải tán trước 9 giờ tối.
Thân gỗ khô cháy đỏ rực cả góc phía Tây trại. Một số anh em lớn tuổi đã lên giường sớm hay làm vài chuyện riêng tư...số còn lại anh em tù quây quanh khá đông đủ. A của tôi vắng mặt 2 anh. Anh Toàn, gốc người Tàu lai ở chợ Lớn,giáo viên trường Tiểu Học Quận 6 Đô Thành Sài Gòn và anh KTS Đàm Thanh Việt. Mấy ngày con khỉ bị bịnh, giao cho anh BS Tư chăm sóc, anh không thấy vui, cho nên hôm nay cũng vắng mặt anh.
Anh Hiển đứng giữa đám đông,cạnh thân cây cháy rực, ngỏ ý vài lời về ngày Chúa sinh ra đời. Một vài anh em được đề nghị kể chuyện về Chúa, về kỷ niệm của mình trong những ngày Giáng Sinh trước đây. Những tia nóng ấm phát ra từ thân cây cháy đỏ tỏa ra cùng với những mẫu chuyện riêng tư của một số anh em trong tù, đã làm cho cả đám tù quây quanh ấm lòng.
Một lúc sau, anh Hiển cho biết, hôm nay đón Chúa, anh có làm một ít bánh để cùng chung vui. Rồi anh Hiển giới thiệu người phụ tá đầu bếp hôm nay là BS Lê Cảnh Tư. Anh Tư bước ra, giới thiệu với anh em,một số bánh bao làm bột mì do anh Hiển đã để dành mỗi ngày một ít trong phần ăn. Ý của anh Hiển không ngoài mục đích là muốn đóng góp một cái gì đó để nhớ đến ngày sinh của Chúa. Cả đám tù quây quần vỗ tay tán thưởng...
Anh Hiển chia 2 phần bánh bao riêng ra.Phần bánh bao nhiều, do anh Hiển làm và phần kia ít hơn, là phần của anh Tư phụ giúp. Đám tù lại tiếp vỗ tay... vui mừng. Không ngờ một tay bướng bỉnh như Lê Cảnh Tư mà cũng có biệt tài làm bánh và muốn giúp anh em.
Anh Hiển nói thêm: “Năm nay, mình ở đây, ăn bánh bao nướng chứ không phải bánh bao hấp.” Các chiếc bánh bao bằng bột khoai mì (bột củ sắn), màu nâu nhạt chứ không trắng như bán ở chợ, lần lượt được đặt trên các miếng tole nhỏ, đưa vào đặt trên đống than cháy hồng rực nóng. Bánh bao của anh Hiển được nướng trước. Với độ nóng rừng rực của lửa, bánh cũng phồng lên, mặc dù không nhiều vì thiếu bột nổi, như vẫn thấy hồng chín mơn mởn. Đợi cho chín xong tất cả số bánh bao đợt một bánh của anh Hiển làm, anh em nhận mỗi người một cái bánh bao nướng.
Một phút êm lặng trước khi ăn. Anh Hiển cám ơn Chúa đã cho anh em món ăn. Mời các anh em thưởng thức...
Tiếng vui cười thỏa thích. Đã đời. Ngon như chưa từng ăn bao giờ.Anh emnói với nhau,ăn nhín nhín để thưởng thức vì mình không có nhiều. Vừa ăn vừa trò chuyện. Vừa ăn vừa so sánh. Bánh báo ở chợ bà Chiểu không bằng. Bánh bao của Vĩnh Ký ở Chợ Lớn vẫn thua xa... Sau đợt bánh bao của anh Hiển, đến phần bánh bao của anh Tư. Vì bánh của anh Tư làm ít hơn, không đủ chia cho mỗi người một chiếc nên phải chia đôi,chia ba.
Đến khi xé chiếc bánh bao ra làm đôi làm ba, mọi người la lên, vừa kinh ngạc vừa thích thú. Bánh bao có nhưn, bánh bao có nhưn... anh em ơi!!! Anh Hiển vô cùng ngạc nhiên, nhìn anh Tư. Mặt anh Tư không thay đổi. Vẫn lầm lừ, bướng bỉnh như thường ngày.
Một vài anh em chưa chịu ăn thử, có thể vừa e ngại mà cũng có thể muốn biết cho rõ sự tình. Mấy chục con mắt hướng về anh Tư:
- Nhưn gì vậy Tư? Thịt gì vậy Tư?
Anh Tư không trả lời. Anh chỉ cười nhẹ cho xong chuyện:
- Ăn đi mà! Không chết đâu. Thịt gì cũng được. Chết tôi chịu cho. Anh nào không dám ăn, đưa cho tôi. Coi nè!
Anh Tư nhanh tay tét cái bánh bao ra làm hai, cắn một miếng vừa có bột vừa có thịt. Ăn ngon lành. Và các anh em khác làm theo. Mà ngon thiệt. Mỗi người chỉ lủm được một hay hai miếng là hết.
- Ngon quá. Còn nữa không anh Tư? Tiếc quá!
Lửa tàn, bánh bao hết, dù có nhưn hay không có nhưn. Giờ sinh hoạt cũng không còn. Sau một động tác lễ kết thúc quen thuộc ở nhà Thờ, anh Hiển cùng tất cả, ai về trại nấy mà trong lòng vẫn còn ấm ức. Thằng Tư làm nhưn bánh bao bằng thứ thịt con gì mà ăn ngon quá vậy? Tuần lễ sau, Đàm Thanh Việt gặp Lê Cảnh Tư hỏi bình tình của con khỉ. Tới đâu rồi anh Tư? Con khỉ đã bình phục được chút nào không? Nếu thấy không được, anh giao lại cho tôi. Tôi sẽ cố gắng lo cho nó. Chị tôi vừa gởi thuốc Tây cho tôi. Hy vọng có thể giúp nó.
Cứ mỗi lần hỏi anh Tư, anh Tư nói trấn an anh Việt. Nó sắp sửa khỏe lại rồi. Đàm Thanh Việt bỏ qua mấy lần. Nhưng rồi chờ mãi sốt ruột, cuối tuần hôm sau Đàm Thanh Việt quyết đòi con khỉ lại. Anh Tư không còn cách nào khác, đành thú thật. Nó chết từ 2 tuần trước. Nó chết 2 ngày, trước ngày Chúa sinh. Anh Việt buồn bã, trở về giường mình nằm đắp mền ngủ suốt ngày chủ nhật hôm đó.
Vài ngày sau anh kể câu chuyện con khỉ mà anh nhờ anh Tư chữa trị, đã chết trước đêm Giáng Sinh cho anh em trong trại nghe. Phải chăng anh Tư đã làm thịt con khỉ của anh Việt để làm nhưn bánh bao cho anh em ăn trong đêm Giáng Sinh???!!! Anh em nghĩ trong đầu về cái bánh bao có nhưn do anh Tư làm mà muốn nôn mữa. Ôi, con khỉ mà anh Đàm Thanh Việt đã ân cần, nâng niu săn sóc, rồi giao cho anh bác sĩ Lê Cảnh Tư điều trị, nay đã trở thành miếng thịt làm cái nhưn cho mấy chiếc bánh bao mà anh em đã ăn ngon lành trong buổi chiều tối chủ nhật ngày 26 tháng 12 năm 1976 tại trại tù Ka Tum. Anh em chúng tôi đã thích thú ăn cái bánh bao có nhưn thịt khỉ... trong cái đau buồn của anh KTS Đàm Thanh Việt....
Trần Hữu Sơn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét