Tìm bài viết

Vì Bài viết và hình ảnh quá nhiều,nên Quí Vị và Các Bạn có thể xem phần Lưu trử Blog bên tay phải, chữ màu xanh (giống như mục lục) để tỉm tiêu đề, xong bấm vào đó để xem. Muốn xem bài cũ hơn, xin bấm vào (tháng....) năm... (vì blog Free nên có thể nhiều hình ảnh bị mất, hoặc không load kịp, xin Quí Bạn thông cảm)
Nhìn lên trên, có chữ Suối Nguồn Tươi Trẻ là phần dành cho Thơ, bấm vào đó để sang trang Thơ. Khi mở Youtube nhớ bấm vào ô vuông góc dưới bên phải để mở rộng màn hình xem cho đẹp.
Cám ơn Quí Vị

Nhìn Ra Bốn Phương

Thứ Bảy, 18 tháng 1, 2025

BỮA TIỆC TẤT NIÊN - Truyện phóng tác Nguyễn Giao Kỳ Trung


Gã đàn ông ì ạch băng ngang qua đường tiến về phía công viên. Đến chiếc ghế đá dưới một tàn cây lớn, gã ngã người ngồi xuống rồi duỗi hai chân ra. "No quá", gã vừa đưa tay xoa bụng vừa nói. "Tổ cha mấy thằng trời đánh; biết người ta không biết uống rượu thì lại bắt người ta ăn", gã lẩm bẩm. "Bọn mi cắm đầu uống rượu; nốc vô bao nhiêu thì tè ra bấy nhiêu, đâu có sao". Gã ngừng nói, hít vào thở ra vài lần rồi nói tiếp. "Chỉ tội cho ông nội bọn mi; bị bọn mi ép ních một bụng đầy, bây giờ bụng căng như bụng bò, muốn thở cũng không xong". Bỗng dưng gã bật cười. "Sửu Cò bụng bự như bụng bò". Rồi gã gật gù. "Mình tên Sửu, Sửu là con trâu, trâu cùng loại với bò, vậy thì bụng lớn như bụng bò là phải rồi". 
<!>
Gã chép miệng rồi nói tiếp. "Lát nữa gặp nhau, không biết Dế Già có nhận ra mình được hay không?" Gã đưa mắt nhìn quanh quất. Trời âm u, xám xịt một màu mây; những hàng cây trụi lá đứng trơ vơ trong buổi chiều tàn. Công viên vắng lặng, ngoài gã ra không có một bóng người. Ngoài những chuyến xe buýt thỉnh thoảng cập lề đổ vài hành khách xuống trạm xe đối diện công viên, đường phố cũng vắng tanh, thiếu bóng xe cộ và người bộ hành.

"Vắng quá. Chẳng lẽ ai cũng ở nhà ăn Tất Niên hết hay sao?", gã đàn ông có biệt danh Sửu Cò lại lẩm bẩm. Một cơn gió lạnh từ đâu kéo đến làm gã rùng mình. Gã cúi nhìn chiếc áo nhà binh mình đang mặc trên người gã vừa mới mua ở một tiệm quân trang quân dụng thặng dư. Cũng cùng một loại áo field jacket quân nhân Mỹ thường mặc từ hồi Đệ Nhị Thế Chiến và trong suốt chiến tranh Việt Nam, nhưng kích thước lớn hơn chiếc áo mà gã đã mặc khi gặp Dế Già lần đầu tiên ở ngay chiếc ghế đá trong công viên nầy mười năm trước đó…

***
"Cậu là tỵ nạn Việt Nam hả?"

Câu hỏi đột ngột làm Sửu Cò giật mình. Hắn ngước lên nhìn. Một người đàn ông đến bên cạnh từ lúc nào hắn không hay. Người đàn ông trạc năm mươi tuổi, người gầy ốm, mặc chiếc áo parka màu xanh hải quân dài đến gối. "Dạ, cháu là tỵ nạn thứ thiệt", Sửu Cò gật đầu. "Còn bác là..."

Người đàn ông ngồi xuống ghế bên cạnh Sửu Cò. "Tôi cũng là dân tỵ nạn như cậu", người đàn ông đáp. "Cậu ở trại Pendleton?".

"Dạ đúng rồi; sao bác đoán giỏi vậy?", Sửu Cò ngạc nhiên. Thấy người đàn ông nhìn chiếc áo field jacket hắn đang mặc trên người, Sửu Cò bật cười. "Cháu hiểu rồi, vì chiếc áo nầy".

"Đúng vậy", người đàn ông gật gù. "Cậu ở trại Pendleton, người ta phát cho áo nhà binh". Ông chỉ vào chiếc áo ấm mình đang mặc. "Còn tôi ở trại Fort Chaffee, người ta phát cho chiếc áo ấm dân sự nầy". Ông nhìn Sửu Có rồi hỏi. "Ở Việt Nam, cậu là lính?". Thầy Sửu Cò gật đầu, ông nói tiếp. "Tôi cũng là lính. Thượng sĩ già, ba mươi lăm năm thâm niên quân vụ ".

Cả hai người cùng cười. "Thượng sĩ làm em nhớ đến thượng sĩ của em. Ổng cũng mấy mươi năm thâm niên quân vụ", Sửu Cò đáp, danh xưng thay đổi từ dân sự sang nhà binh. "Em tên Sửu, bạn bè gọi là Sửu Cò", hắn vừa cười vừa tự giới thiệu.
Người đàn ông nhìn Sửu Cò từ đầu đến chân rồi gật gù. “Vì cậu sinh năm con trâu, người cao ốm như con cò?”, người đàn ông hỏi.
“Dạ phải. Thượng sĩ đoán giỏi thiệt, y như là thượng sĩ Bố Già của em”.

“Thuợng sĩ Bố Già?”.

“Dạ phải”, Sửu Cò cười đáp. “Ổng Bắc Kỳ di cư. Ổng đoán giỏi thần sầu; đám lính bọn em chưa nói hết câu ông đã đoán ngay chóc. Đoán giỏi y như thượng sĩ vậy”.
“Tôi nghĩ tôi và ông ấy đoán giỏi vì biệt danh chúng tôi có cùng một chữ Già”, người đàn ông cười đáp. “Ông ấy là Bố Già, còn tôi là Dế Già”.

Sửu Cò cười lớn rồi lắc đầu. “Chắc thượng sĩ nói đùa, chứ làm gì mà có biệt danh diễu như vậy”.

“Ngày xưa tôi chỉ là thượng sĩ thôi, không có biệt danh già trẻ gì cả”, người đàn ông giải thích. "Tôi bị thương, người ta cho về làm thượng sĩ thường vụ, chỉ huy đám tân binh ở Quang Trung. Được mấy tháng, thì có đám sinh viên đến học quân sự một tháng. Cậu biết, nhất quỷ, nhì ma thứ ba học trò mà; mấy ngài sinh viên này chẳng coi quân phong quân kỹ vào đâu. Mỗi buổi sáng, tôi thổi còi đánh thức, họ bảo là dế gáy, cằn nhằn la lối đủ thứ, cả nữa giờ mới sắp hàng xong, quân phục lôi thôi lếch thếch người chẳng ra người, ngợm chẳng ra ngợm”. Người đàn ông ngừng một lát rồi tiếp. “Có một hôm, khi tôi đến trại thổi còi đánh thức thì có một ngài la toáng lên. Con dế già kia đi chỗ khác để cho ông nội mầy ngủ”.

“Cái thằng mất dạy, em nghe là muốn đục cho nó một trận rồi”, Sửu Cò nói.

“Cậu còn trẻ hăng máu, nhưng tôi già rồi; mấy chuyện đó bình thường tôi chẳng để tâm làm gì. Nhưng ngày hôm đó, tôi lại làm như cậu vừa nói. Tôi nắm đầu lôi nó ra khỏi giường, phạt nó chạy quanh vận động trường cho đến khi nó xỉu luôn. Không ngờ nó là con ông cháu cha, nên chỉ một tuần lễ sau, tôi bị thuyên chuyển đến đơn vị tác chiến”. Người đàn ông bật cười. “Tôi vừa đến trình diện mà cả đơn vị đã biết câu chuyện rồi. Từ đó về sau, từ Tiểu Đoàn Trường đến thằng Binh Nhì, ai cũng gọi tôi là Dế Già. Riết rồi chết tên luôn”.

Người đàn ông mang biệt danh Dế Già bất ngờ thở dài. “Nếu hôm đó tôi không hăng máu, thì chắc sẽ tiếp tục phục vụ ở Quang Trung rồi kẹt luôn ở đó trong ngày mất nước, đâu có thể nào lưu lạc đến đây. Chẳng qua là số mệnh mà”. Ông cúi đầu rồi nói nhỏ. “Ngày hôm đó là ngày giỗ vợ con tôi…”

Sửu Cò giật mình, đưa mắt nhìn người ngồi bên cạnh. “Gia đình thượng sĩ bị … bị…”

Người đàn ông gật đầu. “Gia đình tôi có ba người; tôi đi lính, còn vợ tôi và thằng con trai sống gần thị trấn. Lương lính của tôi ba cọc ba đồng, không đủ nuôi vợ con, nên họ làm thêm nghề đánh cá trên sông. Ban ngày ra sông đánh cá, ban đêm về ngủ trong phố. Tết Kỷ Dậu, Việt Cộng đến đêm là pháo kích vào phố. Hai mẹ con sợ quá, nên tối đến ra giữa sông ngủ trên ghe. Tội nghiệp, họ ngây thơ nghĩ rằng chẳng ai dư đạn pháo kích ra sông làm gì, nên ngủ ở đó chắc được an toàn hơn là ngủ trong phố. Không ngờ một đêm, chiếc ghe của họ lãnh nguyên một trái hỏa tiễn 122 ly…”

Người đàn ông lại thở dài, nét mặt đầy vẻ sầu khổ. Sửu Cò nhìn ông ta rồi nói, giọng thương cảm. “Tội quá. Hoàn cảnh của thượng sĩ chẳng khác gì hoàn cảnh của thượng sĩ Bố Già bọn em. Gia đình ổng cũng bị Việt Cộng giết sạch hồi Tết Mậu Thân”.

Người đàn ông quay nhìn Sửu Cò. “Chúng tôi cùng số mệnh. Còn cậu thì sao, gia đình có di tản được không?”

Sửu Cò lắc đầu. “Em là Con Bà Phước, đâu có gia đình”. Hắn cười nhẹ. “Người thân của em chỉ có thượng sĩ Bố Già mà thôi”. Thấy người đàn ông nhìn hắn dò hỏi, Sửu Cò lại mỉm cười rồi giải thích. “Em đến trình diện đơn vị đúng ngày Ba Mươi Tết. Cả ngày không có một hột cơm trong bụng, nhưng chân ướt, chân ráo chẳng có bạn bè, lại không biết đường đi nước bước, nên em đành ngồi yên chịu đói”. Hắn ngừng một lúc rồi nói tiếp. “Không ngờ thượng sĩ Bố Già bắt gặp. Ông ấy cũng trơ trụi như em, Tết đến rồi mà chịu cảnh một thân một mình, không có gia đình, không có thân nhân. Sau khi nói chuyện với nhau một hồi lâu, em thấy gần gũi với ổng nên thú nhận rằng mình đang bị đói. Ống cười nói rằng ổng sẽ đãi em một bữa tiệc tất niên. Rồi ổng dẫn em đến một cái quán nhỏ, bảo em muốn ăn gì thì ăn, ổng bao sân hết”. Sửu Cò cười lớn. “Lúc ấy em đói quá, nên quất một hơi hai tô phở và hai dĩa chả giò. Thượng sĩ Bố Già thì ổng không có ăn. Ống nói ngồi nhìn em ăn, ổng thấy vui nên no luôn”. Sửu Cò ngừng nói, mắt mơ màng, hồi tưởng. “Từ đó về sau, mỗi năm cứ đến ngày Ba Mươi Tết, ổng lại đãi em một bữa tiệc tất niên. Cũng cái quán ấy, cũng hai tô phở và hai dĩa chả giò”. Hắn bật cười. “Riết rồi thành thông lệ, hễ đến ngày Ba Mươi Tết là em nhịn đói suốt ngày chờ ổng dẫn đi ăn”. Hắn thở dài. “Cứ như vậy cho đến khi mất nước”.

“Thượng sĩ của cậu không đi tản được hay sao?”, người đàn ông hỏi.

Sửu Cò lắc đầu. “Dạ không”. Hắn nói tiếp, giọng buồn buồn. “Hăm chín tháng Tư, bọn em đánh một trận chót. Việt Cộng đông quá, bọn em một chọi bốn, năm nên đánh không lại, bị đẩy ra bờ biển, cả trung đội chỉ còn chưa đến mười mống. Thượng sĩ Bố Già ra lệnh bọn em lên một chiếc ghe chèo ra biển”

“Ổng không đi theo bọn cậu sao?”, người đàn ông hỏi nhưng trong lòng đã có câu trả lời.

“Dạ không. Ổng ôm khẩu M60, núp sau một chiếc ghe bắn chận Việt Cộng để bọn em có cơ hội chèo ra xa”. Hắn ngừng nói một hồi lâu rồi thở dài. “Ghe bọn em ra khỏi được khoảng một trăm thước thì ổng hết đạn. Bọn chúng tràn tới; chiếc ghe ổng nấp bắn lãnh một lúc ba quả B40…”

Hai người ngồi lặng yên một hồi lâu. Rồi Sửu Cò nói. “Ống là người thân duy nhất em có trong đời. Năm ngoái, em vừa xuất trại được hai tháng là đến Tết. Từ hồi đi lính đến nay, đây là lần đầu tiên em ăn Tết một mình. Em nhịn đói suốt ngày Ba Mươi, nhưng không có ổng nên …”. Hắn cúi đầu, nói nhỏ. “Năm này chắc cũng vậy thôi”.

“Bây giờ cậu có thấy đói không?”, người đàn ông dịu dàng hỏi.

Sửu Cò nhìn sửng ông ta một hồi lâu, rồi gật đầu. “Không sao, không có Bố Già thì có Dế Già mà”, người đàn ông vừa cười vừa nói. “Tôi biết ở gần đây có chỗ bán phở”. Ông ta đứng dậy. “Đi thôi, ta đến đó để ăn tiệc Tất Niên”.

Hai người lên xe buýt, qua vài con đường, rồi đến một căn chung cư ở tầng trệt cách công viên không xa. Người đàn ông gõ cửa. Một người đàn bà đứng tuổi, mặc đồ bà ba, đi chân trần ra mở cửa. “Chào chị Tám, Tất Niên rồi mà thầy trò tôi muốn ăn phở, có làm phiền chị không?”.

Người đàn bà tên Chị Tám cười toe. “Không, không phiền chút nào. Mời hai anh vào”.

Hai người theo Chị Tám vào nhà. Chị chỉ bộ bàn ghế ọp ẹp ở phòng ăn. “Mấy anh chịu khó chờ một chút”. Rồi chị vào bếp, vừa bày biện đồ đạc chuẩn bị nấu ăn, vừa hỏi hai người đàn ông. “Mấy anh muốn ăn gì?”

Người đàn ông vừa cười vừa trả lời. “Hai tô phở và hai dĩa chả giò cho thằng em của tôi”.

“Trời đất. Em anh coi ốm o, không ngờ lại ăn dữ như vậy”, Chị Tám cười nói. “Còn anh, anh không ăn gì hay sao?”

Người đàn cười và lắc đầu. “Không, tôi không ăn. Gặp thằng em, tôi vui quá nên đủ no rồi”.

Chị Tám thoăn thoắt làm việc. Một lát sau, chị bưng hai tô phở bốc khói và hai dĩa chả giò nóng hổi bày trên bàn ăn. Sửu Cò hít mũi mấy lần rồi khen lấy khen để. “Thơm quá, chưa ăn đã thấy ngon rồi”.

Chị Tám đon đả. “Ông nhà tui có mấy chai bia trong tủ lạnh. Thầy trò anh uống không; hôm nay Tất Niên, tui đãi”.

Người đàn ông lắc đầu. “Tôi bị đau bao tử, không uống được”. Sửu Cò vừa húp nước phở sùm sụp vừa trả lời. “Em cũng không uống được. Chỉ uống có một chút bia là người lảo đảo, còn mặt mày thì đỏ ké như con cắc kè say thuốc rê”.

Cả ba người cùng cười. Chỉ một thoáng, Sửu Cò ăn sạch hết tất cả thức ăn trên bàn. Hắn vỗ bụng bình bịch rồi nói. “Đã quá, hơn một năm rồi mới được ăn phở”.

“Chị tính tiền giùm”, người đàn ông mang biệt danh Dế Già nói với chị Tám.

“Dạ, cả thảy tám đô la”.

Người đàn ông móc ví, lấy ra một nắm bạc lẽ rồi đếm từng tờ. “Một đồng, hai đồng …tám đồng, chín đồng, mười đồng”. Ông đưa xấp giấy bạc cho chị Tám. “Rồi, tám đồng tiền ăn thêm hai đồng tiền buộc boa. Cám ơn chị”.

Sửu Cò và người đàn ông cùng đứng đây một lúc. “Chị Tám nấu ăn ngon hết sẩy”, Sửu Cò nói. “Chị mà mở quán chắc là đông khách lắm”.

Chị Tám cười. “Tui mà mở quán, hai anh phải ghé thăm đó”.

Người đàn ông cũng cười. “Chắc chắn rồi. Chị mở quán đi; mỗi năm một lần, chiều Ba Mươi Tết bọn tui sẽ ghé lại để ăn tiệc Tất Niên”.

***
Nhớ đến đó, Sửu Cò mỉm cười. Một năm sau đó, chị Tám thực hiện được giấc mơ của mình, mở một tiệm phở nhỏ, lấy tên mình đặt tên tiệm. Còn Sửu Cò và người đàn ông mang biệt danh Dế Già, mỗi người lưu lạc một nơi, suốt năm không liên lạc với nhau. Nhưng mỗi năm vào chiều Ba Mươi Tết, họ lại gặp mặt ở chiếc ghế đá trong công viên rồi kéo nhau đến tiệm Phở Chị Tám để sống lại kỷ niệm lần đầu gặp nhau. Riết rồi thành thông lệ; thấy mặt hai người, chị Tám nấu ngay hai tô phở và hai dĩa chả giò bưng đến đặt trước mặt Sửu Cò. Lần nào cũng như lần nào, trong khi Sửu Cò cắm đầu ăn, chị Tám và Dế Già ngồi lặng yên nhìn hắn, thỉnh thoảng miệng điểm một nụ cười. Có lẽ chị Tám cũng muốn mình trở thành một phần của câu chuyện đáng ghi nhớ của hai người, nên dù giá cả càng ngày càng tăng, chị vẫn giữ nguyên giá cũ: tám đồng tiền ăn, hai đồng tiền “buộc boa”.

“Cậu chờ tôi có lâu không?”

Câu hỏi đột ngột làm Sửu Cò giật mình, trở về với thực tại. Hắn ngước lên nhìn. Người đàn ông có biệt danh Dế Già đang nhìn hắn, miệng mỉm cười. Sửu Cò đứng bật dậy như một chiếc lò xo. “A, thượng sĩ đến rồi. Em cũng vừa mới đến đây”.

Hai người cùng ngồi xuống chiếc ghế đá. Người đàn ông nhìn Sửu Cò từ đầu đến chân. “Chà, cả năm không gặp trông cậu có da có thịt hơn mấy năm trước”.

“Có lại tại vì em vừa lấy ....”. Hắn ngừng nói, cười giả lả. “Có lẽ tại em bắt đầu quen mùi bơ sữa của Mỹ rồi, nên thân thể cũng phồng to cho đúng với cái tên Sửu là con trâu của em”.

Hai người cùng cười. Lúc ấy Sửu Cò mới nhìn kỹ người đối diện. Ông ta đã già hơn nhiều, mắt sâu hóm, mặt hốc hác. Giống như những lần gặp nhau trong mười năm qua, ông vẫn mặc chiếc áo parka phát ở trại ty nạn. Sửu Cò nghĩ là ông ta cũng như mình; ăn mặc như mười năm về trước để sống lại kỷ niệm lần đầu tiên hai người gặp nhau. Mười năm là một thời gian dài, chiếc áo đã cũ lắm rồi, bạc phai. Choàng lên thân thể gầy còm của người đàn ông, chiếc áo trông rộng thùng thình như một cái áo tơi dân quê Việt Nam thường mặc trong những ngày Đông mưa dầm gió bấc.

“Em thấy thượng sĩ hình như không được khỏe cho lắm”, Sửu Cò nói.

Người đàn ông cười gượng. “Tôi già rồi, muốn khỏe như mấy người trẻ các cậu cũng đâu có được”. Ông nhìn Sửu Cò rồi hỏi. “Có đói không?”

Sửu Cò gật đầu lia lịa. “Có, có, có. Thượng sĩ đã biết năm nào cũng vậy, đến ngày Ba Mươi Tết là em nhịn ăn chờ thượng sĩ đãi mà”, hắn vừa cười vừa nói.

Người đàn ông cũng cười. “Vậy còn chờ gì nữa. Chúng ta đi thôi”.

Hai người băng qua đường đón xe buýt đến quán Phở Chị Tám. Vừa đến nơi đã chị Tám đứng chờ trước cửa. “A, hai anh đến rồi”, chị đon đả. “Chiều nay quán đóng cửa, nhưng tui biết thầy trò anh thế nào cũng đến nên vẫn mở cửa để chờ”.

Chị dẫn hai người vào quán. Chờ hai người ngồi xuống bàn xong, chị quày quả vào trong bếp. Chỉ một thoáng sau, chị mang thức ăn ra bày trên bàn. “Rồi, hai tô phở, hai dĩa chả giò. Tôi đã nấu sẵn, chỉ chờ khi hai người đến là dọn ra ngay”.

Sửu Cò cười lớn, rồi tay đũa tay muỗng, bắt đầu ăn ngay. Chị Tám và người đàn ông nhìn Sửu Cò rồi nhìn nhau, miệng mỉm cười. Chưa đến mười phút, hắn đã ăn sạch hết thức ăn trên bàn. Húp xong mấy muỗng nước phở cuối cùng, hắn nhìn hai người, cười ngượng ngùng. “Ăn cho lẹ để chị Tám còn đóng cửa về nhà cúng Tất Niên”.

Chị Tám cũng cười. “Không sao; tôi còn phải ở lại đây giúp bọn nhỏ dọn dẹp một lúc nữa rồi mới về”.

Người đàn ông đứng dậy. Ống móc trong túi áo parka ra một nắm giấy bạc lẻ đưa cho chị Tám. “Trả chị mười đồng. Tôi đã đếm sẵn rồi. Cảm ơn chị”.

Sau khi trao đổi mấy câu chúc Tết với chị Tám, hai người đàn ông ra khỏi quán băng qua đường. Đến trạm xe buýt, Sửu Cò nói với người đàn ông. “Em cám ơn thượng sĩ nhiều lắm. Thượng sĩ về trước, em phải trở lại quán chị Tám một chút”. Thấy người đàn ông nhìn mình ngạc nhiên, Sửu Cò cười nói. “Dạ, mắc tiểu quá, chịu không nổi rồi”. Người đàn ông nhìn hắn, cười rồi lắc đầu. Sửu Cò chào người đàn ông một lần nữa rồi băng qua đường trở về quán Chị Tám. Thấy mặt hắn, chị Tám ngạc nhiên. “Ủa, sao trở lại. Bộ bỏ quên món gì hả?”.

Sửu Cò lắc đầu cười. “Đâu có quên gì đâu. Em trở lại để …”. Hắn ngừng nói, móc ví lấy ra hai tờ giấy bạc hai mươi đô la đưa cho chị Tám. “Ông thầy của em ngại chị không nhận, nên nhờ em đưa cái này cho chị”.

Chị Tám giật mình nhìn sững hai tờ giấy bạc trên tay Sửu Cò. “Sao năm nay thầy trò anh lại bày vẻ như vậy?”, chị hỏi. Rồi chị xua tay. “Tui không lấy đâu. Với ai thì tụi nhận, nhưng với thầy trò anh thì tui chỉ lấy tượng trưng mười đồng cho vui mà thôi”.

Sửu Cò dúi hai tờ giấy bạc vào tay chị. “Thì chị cứ xem như là tiền lì xì, lấy đi cho ông thầy em ổng vui”.

Chị Tám cầm hai tờ giấy bạc, tần ngần một lúc rồi nói. “Thôi cũng được”. Chị quay lưng vừa bước về phía quầy tiền, vừa nói. “Khách của quán tui đa số cũng là dân ty nạn trước đây, nhưng chỉ có thầy trò của anh là đặc biệt nhất, có tình có nghĩa với nhau nhiều nhất. Nhờ anh cho tui gởi lời cảm ơn đến ông thầy của anh. Mồng Ba Tết, quán tôi mở cửa lại. Hai thầy trò anh nhớ đến ăn Tân Niên cho vui. Mà không được trả tiền đó, đầu năm tui đãi…”.

Chị nói một hồi mà không nghe tiếng Sửu Cò trả lời liền quay lại nhìn. Sửu Cò đứng vịn tay vào ghế, người lảo đảo nghiêng qua ngã lại như một cọng cỏ trong gió. Rồi hắn từ từ ngã khụy xuống sàn quán, mặt hướng lên trần nhà, hai mắt trợn trừng. Chị Tám thất kinh, hỏi gấp. “Trời ơi, cậu sao vậy?”. Thấy hắn không trả lời, chị quay vào trong bếp, miệng gọi rối rít. “Gọi xe cấp cứu. Gọi xe cấp cứu. Mau lên, mau lên”.

***
“Anh làm em sợ muốn chết luôn”

Sửu Cò mở mắt ra nhìn. Hắn đang nằm trên một chiếc giường hẹp trong phòng cấp cứu của bệnh viện. Vợ hắn đến bên giường, cúi xuống nhìn hắn, trên khuôn mặt hân hoan vẫn còn in đậm nét lo âu. “Anh làm em sợ muốn chết luôn” nàng lặp lại câu vừa nói. “Em đang dọn dẹp chờ anh về để cúng Tất Niên thì bệnh viện gọi đến. Tưởng anh bị tai nạn hay lên cơn đau tim, em sợ muốn đứng tim luôn. Không ngờ khi đến đây, họ nói là anh bị bội thực, phải súc ruột …”. Vợ hắn nhìn hắn rồi trách móc. “Anh thiệt là hết chỗ nói rồi. Già đầu rồi mà như một đứa con nít, thấy thứ gì ăn được là nhét vô bụng. Ăn như vậy có ngày bể bụng chết, hai mẹ con em biết tính làm sao”.

Sửu Cò ráng dấu sự xúc động. “Anh tên Sửu, không ăn nhiều sao thành con trâu cho được”, hắn cười giả lả. Rồi hắn siết chặt tay vợ. “Xin lỗi em. Em đừng lo; lần nầy đặc biệt, không có lần sau nữa đâu”.

Vợ hắn dìu hắn ngồi dậy. “Em đã làm xong thủ tục xuất viện rồi. Chờ lát nữa bác sĩ đến ký là chúng ta về ngay để còn kịp cúng Giao Thừa”.

“Phải đó”, Sửu Cò gật đầu. “Đầu năm đầu tháng mà nằm bệnh viện, cả năm sẽ bị xui tận mạng”.

“Anh nói làm em mới nhớ”, vợ hắn nói. “Khi nãy vừa đến bệnh viện, em thấy xe cứu thương chở một người đến phòng cấp cứu. Em nghe mấy người y tá bàn tán hình như ông ta bị đau ruột dư thì phải”. Vợ hắn chép miệng rồi nói tiếp. “Hình như ổng người Việt. Không biết ổng làm nghề ngỗng gì mà trông thảm lắm. Già rồi, người hốc hác ốm như con mắm, mặc chiếc áo ấm thời Bảo Đại còn làm trùm. Anh biết cái áo ấm xanh hải quân mà người ta phát ở trại ty nạn đó đó”.

Nghe đến đó, Sửu Cò giật mình. “Già, ốm, áo ấm xanh hải quân, trại tỵ nạn?”, hắn hỏi gấp

Vợ hắn không để ý đến vẻ mặt đầy nét kinh hoàng của chồng mình. “Dạ, đúng vậy”. Rồi vợ hắn lại chép miệng. “Tết nhất rồi mà phải vô đây, thật tội quá”.

Sửu Cò nhảy phắt xuống giường. Không kịp mang giày, hắn chạy như ma đuổi, lách qua lách lại qua mấy lớp cửa, đến phòng đợi. Lúc ấy, phòng đợi vắng bệnh nhân; mấy người y tá đang ngồi tán gẫu với nhau. Sửu Cò đến trước một người y tá có vóc dáng Á Đông. “Xin lỗi, cô có phải là người Việt không?”, hắn vừa thở vừa hỏi bằng tiếng Việt.

“Dạ phải”, người y tá gật đầu, trả lời cũng bằng tiếng Việt. “Anh cần chi?”

“Tôi … tôi muốn biết tin tức về một người Việt người ta đưa vào phòng cấp cứu lúc nãy”, Sửu Cò đáp.

“Tối nay có hai người Việt được đưa vào đây. Anh muốn hỏi về người nào, tên gì?”

“Ông ấy tên là … “. Sửu Cò lúc ấy mới sực nhớ là suốt mười năm quen nhau, hắn và người đàn ông mang tên Dế Già chỉ biết nhau qua biệt danh của mỗi người. “Ông ấy là một người già, ốm, mặc chiếc áo parka cũ màu xanh hải quân”.

“À, người đó”, cô y tá nói. “Anh muốn hỏi về ông cụ vô gia cư đó hả?”

“Vô gia cư? Ý cô muốn nói ông ấy là home...là home...…homeless?”, Sửu Cò hỏi, giọng sửng sốt.

“Phải. Ông cụ là người vô gia cư, là homeless”. Cô nhìn Sửu Cò rồi mỉm cười. “Anh đừng lo, ổng không sao, chỉ bị xỉu thôi, bây giờ đang hồi phục”.

“Bị xỉu? Ổng xỉu vì bị đau ruột dư?”

“Không, ổng đâu có bị đau ruột dư”, cô y tá lắc đầu đáp. “Ổng xỉu vì bị đói quá”. Không để ý đến vẻ mặt bàng hoàng của Sửu Cò, cô y tá nói tiếp. “Ổng nói không có tiền nên hai ngày qua ổng không có một hột cơm trong bụng”.

Nguyễn Giao Kỳ Trung
(Houston 09/2019)

Không có nhận xét nào: