Tìm bài viết

Vì Bài viết và hình ảnh quá nhiều,nên Quí Vị và Các Bạn có thể xem phần Lưu trử Blog bên tay phải, chữ màu xanh (giống như mục lục) để tỉm tiêu đề, xong bấm vào đó để xem. Muốn xem bài cũ hơn, xin bấm vào (tháng....) năm... (vì blog Free nên có thể nhiều hình ảnh bị mất, hoặc không load kịp, xin Quí Bạn thông cảm)
Nhìn lên trên, có chữ Suối Nguồn Tươi Trẻ là phần dành cho Thơ, bấm vào đó để sang trang Thơ. Khi mở Youtube nhớ bấm vào ô vuông góc dưới bên phải để mở rộng màn hình xem cho đẹp.
Cám ơn Quí Vị

Nhìn Ra Bốn Phương

Thứ Tư, 20 tháng 4, 2022

Hành trình người Việt tại Mỹ và Lập Pháp Hoa Kỳ - Nhã Duy


Từ làn sóng người Việt tị nạn đến Mỹ đầu tiên vào năm 1975, đến nay cộng đồng gốc Việt tại Mỹ được xem đã khá ổn định với nhiều thành công cá nhân và trong mỗi gia đình.- Nhã Duy - 17 tháng 4, 2022
1982: Những thuyền nhân Việt Nam được tổ chức Medecins du Monde cứu và đưa lên tàu Goelo (ảnh: Michel Setboum/Getty Images) - Thời Sự
Hành trình người Việt tại Mỹ và Lập Pháp Hoa Kỳ
Play Episode - Mute/Unmute EpisodeRewind 10 Seconds1xFast Forward 30 seconds - Trải qua nhiều đời tổng thống, bất luận đảng phái nào, người gốc Việt đã từng bước hội nhập rồi thăng tiến trên đất nước thứ hai của mình. Đọc lại câu chuyện lịch sử để thấy không phải một sớm một chiều hay chỉ riêng với một đời tổng thống nào mới giúp họ tạo dựng nên cuộc sống hiện nay mà đó là cả quá trình trong suốt gần nửa thế kỷ qua.
<!>
Năm 1975, Sài Gòn bị thất thủ. Làn sóng người tị nạn Việt Nam đầu tiên đã di tản với nhiều phương tiện riêng hay do chính phủ Hoa Kỳ giúp đỡ. Khi con số người di tản vượt rất xa kế hoạch đón khoảng 18 ngàn người Việt mà Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ dự tính ban đầu, Tổng thống Gerald Ford của đảng Cộng Hòa đã cho phép có thể nhận đến 200 ngàn người.

Chiến Dịch Gió Lốc (Operation Frequent Wind) đã đưa người di tản rời khỏi Việt Nam bằng trực thăng do Thủy Quân Lục Chiến Mỹ thực hiện cùng làn sóng tự di tản ra các tàu trên biển rồi đến đảo Guam và Phi Luật Tân. Người di tản sau đó được đưa sang các căn cứ quân sự trên đất Mỹ như Camp Pendleton tại California, Fort Chaffee tại Arkansas, Eglin Base tại Florida và Indiantown Gap tại Pensylvania… cuối cùng ước tính vào khoảng hơn 130 ngàn người. Đây là nhóm người Việt tị nạn đầu tiên đến Mỹ sau chiến tranh.

Trong khi nhiều người vẫn còn ở đảo Guam thì Quốc Hội Hoa Kỳ khóa 94 do đảng Dân Chủ chiếm đa số tại lưỡng viện đã họp bàn việc cứu trợ người tị nạn Đông Dương, phần lớn là người Việt Nam. Dân biểu Peter Rodino của đảng Dân Chủ là người đề xướng Đạo Luât Hỗ Trợ Người Di Cư và Tị Nạn Đông Dương (Indochina Migration and Refugee Assistance Act – Dự Luật H.R.6755) tại Hạ Viện, nhằm giúp người tị nạn tái thiết và ổn định bước đầu đời sống mới. Dự luật được các dân biểu Dân Chủ như Edward Kennedy và Liz Holtzman vận động sự ủng hộ trong khi một số dân biểu Cộng Hòa bảo thủ chống đối vì cho rằng người tị nạn Việt Nam vào Mỹ quá nhiều sẽ không hội nhập được vào văn hóa nước Mỹ và phá hỏng hệ giá trị nước Mỹ, thậm chí còn có đề nghị cho định cư tại các vùng lãnh thổ của Mỹ. Tuy nhiên cuối cùng dự luật cũng được Quốc Hội thông qua và Tổng thống Ford ký sắc lịnh vào ngày 23 tháng Năm 1975.

Năm 1979, trước làn sóng vượt biển ồ ạt của thuyền nhân Việt Nam, nước Mỹ đã mệt mỏi trong nỗi ám ảnh về cuộc chiến Việt Nam, theo như thăm dò của CBS/New York Times đã có đến 62 % dân Mỹ không còn muốn nhận thêm người tị nạn Việt Nam. Bất chấp điều này, Tổng thống Jimmy Carter thuộc đảng Dân Chủ vẫn gia tăng gấp đôi số người tị nạn được nhận mỗi tháng, cho phép người tị nạn Việt Nam được nhận ồ ạt vào Mỹ. Một lần nữa, Đạo Luật Người Tị Nạn (Refugee Act of 1980 – Public Law 96-212, S. 643 & H.R 2816) do Thượng nghị sĩ Edward Kennedy của Dân Chủ khởi xướng, cho phép gia tăng số người tị nạn được nhận vào Mỹ và giúp đỡ họ tái thiết đời sống mới.

Đi xa hơn, chương trình OPD (Orderly Departure Program) cho phép người Việt nhập cảnh cũng ra đời vào thời điểm này, giúp cho người Việt được sang Mỹ cùng một số quốc gia khác theo con đường chính thức và an toàn hơn. Chương trình này đã được Phó Tổng thống Walter Mondale của đảng Dân Chủ họp bàn cùng Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc (UNHCR) và nhiều quốc gia khác tại Geneva, Thụy Sĩ vào tháng Bảy năm 1979.

Cao Ủy đã thay mặt Hoa Kỳ cùng các quốc gia để thương lượng với Hà Nội nhằm bảo trợ và xúc tiến chương trình. Sáu tháng sau, tháng Giêng năm 1980, văn phòng ODP được thiết lập tại Bangkok, Thái Lan để bắt đầu nhận và giải quyết hồ sơ bảo lãnh. Mỗi hai tuần, các nhân viên văn phòng OPD Bangkok đã bay sang Sài Gòn để thực hiện các cuộc phỏng vấn. Văn phòng ODP đã phối hợp với Ủy Ban Di Cư Liên Chính Phủ ICM (Intergovernmental Committee of Migration) để lo việc khám sức khoẻ tại Bịnh Viện Chợ Rẫy và thủ tục sang các trại chuyển tiếp hay trực tiếp sang Mỹ cho những người được chấp thuận.

Văn phòng ước tính đã nhận và giải quyết hồ sơ của khoảng 700,000 người Việt Nam, bao gồm nhóm đoàn tụ gia đình, con lai, cựu nhân viên chính phủ và các hãng Mỹ cùng những tù nhân chính trị qua chương trình HO về sau. Theo số liệu từ Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ, loại trừ các hồ sơ không đủ điều kiện và man khai hay định cư tại các quốc gia khác, đã có hơn 558,000 người Việt các diện đã được cho phép nhập cảnh vào Hoa Kỳ cho đến năm 1997.

Ở đây có thể nói thêm riêng về chương trình con lai và H.O (Humanitarian Operation) dành cho những quân nhân Việt Nam Cộng Hòa bị tù sau năm 1975. Năm 1987, Thượng nghị sĩ John McCain thuộc đảng Cộng Hòa đã trình dự luật Amerasian Home Act (S.1601 -100th Congress, 1987-1988) cho phép những người con lai Mỹ được phép định cư tại Hoa Kỳ. Tháng 5 năm 1987, Thượng nghị sĩ Edward Kennedy của đảng Dân Chủ, đã trình nghị quyết 205 (S.Res. 205 -100th Congress, 1987-1988) yêu cầu nhà cầm quyền Việt Nam trả tự do các tù nhân chính trị bị giam giữ, theo sau là nghị quyết 212 (H.Res.212) của dân biểu Robert Dornan thuộc đảng Cộng Hòa tại Hạ Viện, được 58 dân biểu đồng bảo trợ (29 Cộng Hòa và 29 Dân Chủ).

Môt số dân biểu Hạ Viện sau đó cũng tiếp tục đưa các dự luật yêu cầu chính phủ thúc đẩy việc buộc Hà Nội trả tự do cho các tù nhân chính trị và cho phép họ định cư sang Hoa Kỳ. Năm 1991, cũng chính Thượng nghị sĩ Edward đã trình nghị quyết 51 (S.Res. 51 -102th Congress, 1991-1992) với sự đồng bảo trợ của sáu thượng nghị sĩ cả Dân Chủ và Cộng Hoà, yêu cầu Việt Nam cho phép những người ở tù trên ba năm cùng gia đình họ được định cư tại Hoa Kỳ, mở đầu cho chương trình H.O từ năm 1991. Có thể ghi công cho chính Thượng nghị sĩ Edward Kennedy (Dân Chủ), em trai cố Tổng thống Kennedy, là người đã đóng góp rất nhiều để những cựu tù chính trị cùng gia đình được sang Mỹ qua các nghị quyết nói trên.

Bên cạnh đó cũng nhắc thêm là Thượng nghị sĩ John McCain đã tiếp tục đưa ra tu chính sửa đổi, cho phép các gia đình H.O. được sang thẳng Hoa Kỳ mà không phải sang Phi Luật Tân để học Anh Ngữ trong sáu tháng, đồng thời chấp thuận con cái độc thân trên 21 tuổi của các gia đình H.O. và O.D.P. được đi theo cha mẹ theo diện nhân đạo, hay cho phép những người Việt từng làm việc với chính phủ Mỹ và hãng Mỹ được phép định cư (McCain Amendment, H.R 3540).

Các dự luật của lập pháp Hoa Kỳ liên quan đến cộng đồng Việt Nam trên đất Mỹ được nhắc đã không thể đầy đủ hết nhưng đó là những dự luật chính yếu và các nhà lập pháp kể trên đã đóng vai trò rất quan trọng và trực tiếp can dự đến hành trình này. Các dự luật này có thể tìm tại kho lưu trữ hồ sơ của Quốc Hội tại congress.gov/bill cho những ai muốn tìm hiểu cặn kẽ hơn.

Điều quan trọng là đọc lại dăm sự kiện lịch sử để hiểu hơn về hành trình người Việt có mặt trên đất nước Hoa Kỳ và có được như ngày hôm nay ra sao sẽ ít nhiều giúp cho một số người nhìn câu chuyện thời cuộc và tương lai với cái nhìn công tâm và xác thực hơn trong bối cảnh chính trị Hoa Kỳ sau hơn bốn thập niên.

Phó Tổng Thống Walter Mondale, người cứu vớt thuyền nhân


Cựu PTT Walter Mondale năm 2014. Hình: Minnesota National Guard/Wikipedia

Ông Walter Frederick “Fritz” Mondale, cựu phó tổng thống Hoa Kỳ, vừa từ giã cõi đời ở quê nhà Minneapolis, Minnesota, hưởng thọ 93 tuổi.

Chính trị gia hàng đầu có tư tưởng cấp tiến Walter Mondale đã để lại nhiều dấu ấn trong xã hội Mỹ, nhưng với người Việt Nam tị nạn ở khắp thế giới, ông sẽ luôn được nhớ tới như một ân nhân lớn, một trong những người đã mở cánh cửa tự do cho hàng triệu người Việt đã liều mình từ bỏ quê hương vừa bị mất vào tay Cộng Sản, đang lênh đênh trên biển cả hoặc tuyệt vọng trong các trại tị nạn khắp Đông Nam Á. Xin thắp một nén hương lòng tưởng nhớ ông và cầu mong hương linh ông sớm siêu thoát vào cõi vĩnh hằng.

Walter Mondale – chính trị gia cấp tiến

Walter Mondale là một trong số ít chính trị gia hàng đầu của đảng Dân Chủ, từng là ứng cử viên của đảng ra tranh chức tổng thống Hoa Kỳ trong kỳ bầu cử năm 1984 nhưng thất bại trước liên danh đảng Cộng Hòa của các ông Ronald Reagan và George H.W. Bush.

Trước đó, ông là phó tổng thống dưới quyền Tổng Thống Jimmy Carter nhiệm kỳ 1977-1981. Khởi nghiệp là người lính bộ binh trong quân đội Hoa Kỳ tham gia Chiến Tranh Triều Tiên 1951-1953, ông học luật, trở thành luật sư, bộ trưởng Tư Pháp tiểu bang Minnesota (1960-1966) rồi hoạt động chính trị với tư cách thượng nghị sĩ liên bang đại diện tiểu bang Minnesota từ năm 1966 đến khi ông từ giã Thượng Viện để sang Tòa Bạch Ốc năm 1976.

Thời gian ở Thượng Viện, ông Mondale là người khởi xướng hoặc bảo trợ nhiều đạo luật quan trọng về bảo vệ người tiêu dùng, chính sách nhà ở công bằng, cải cách thuế má và xóa bỏ nạn phân biệt chủng tộc trong trường học. Ông ra tranh cử tổng thống năm 1984 với đường lối chấm dứt chạy đua vũ khí nguyên tử, tu chính Hiến Pháp để bảo vệ quyền bình đẳng (equal rights), giảm nợ công của Hoa Kỳ và tăng thuế lên những thành phần giàu có.

Ông cũng ủng hộ mạnh mẽ các đề nghị mở rộng chăm sóc y tế và chăm sóc trẻ em, cùng nhiều chương trình xã hội khác. Ông Mondale cũng là người đầu tiên trong lịch sử chọn một phụ nữ, Dân Biểu Geraldine A. Ferraro của tiểu bang New York, làm người đứng cùng liên danh ứng cử tổng thống và phó tổng thống.

Ông thất bại nhưng một số chủ trương của ông – cũng là đường lối chính trị cốt lõi của đảng Dân Chủ – đang được Tổng Thống Joe Biden tiếp thu và thực thi hiện nay. “Cả đời tôi, tôi làm việc với ý tưởng rằng chính phủ có thể là một công cụ cho tiến bộ xã hội. Chúng ta cần sự tiến bộ đó. Sự công bằng đòi hỏi như vậy,” ông nói với báo The New York Times năm 2010.

Từ giã chính trường, ông trở về với nghề luật sư và tham gia giảng dạy tại Trường Hành Chính Công Hubert H. Humphrey của đại học Minnesota University – ngôi trường mang tên người dẫn dắt về chính trị cho ông, Phó Tổng Thống Hubert Humphrey.

Cuộc khủng hoảng người tị nạn

Ông Walter Mondale – cùng với Tổng Thống Jimmy Carter – lên cầm quyền vào thời điểm nước Mỹ bắt đầu suy thoái sau thất bại trong cuộc chiến tranh Việt Nam và vụ tai tiếng Watergate dưới thời Tổng Thống Nixon.

Sự kiện Sài Gòn thất thủ ngày 30 Tháng Tư, 1975, miền Nam Việt Nam rơi vào tay Cộng Sản đã góp phần chôn vùi sự nghiệp chính trị của Tổng Thống Gerald Ford, đồng thời nước Mỹ chứng kiến chuỗi ngày kinh tế đình trệ, nạn thất nghiệp tăng vọt, lạm phát ở mức hai con số; nguồn cung cấp xăng dầu bị ảnh hưởng của các biến động ở Trung Đông khiến người dân Mỹ phải xếp hàng vài dãy phố để mua xăng với giá cao ngất ngưởng…

Trong lúc đó, cuộc khủng hoảng “thuyền nhân Việt Nam” càng lúc càng bi thảm, gây chấn động lương tâm nước Mỹ, đòi phải có giải pháp.

Khi chiến tranh kết thúc vào năm 1975, Bộ Ngoại Giao đã cảnh báo Quốc Hội Hoa Kỳ rằng người Cộng Sản chiến thắng sẽ trả thù những người Việt Nam đã ủng hộ người Mỹ trong cuộc xung đột. Ngay sau khi Sài Gòn thất thủ, khoảng 125,000 người tị nạn Việt Nam đã đến Hoa Kỳ trong các cuộc di tản do Hoa Kỳ tổ chức và tài trợ. Nhưng sau đó, từ năm 1976 đến năm 1978, Hoa Kỳ từ chối tiếp nhận các cá nhân Việt Nam trừ trường hợp đoàn tụ gia đình.

Nhưng dưới ách cai trị tàn bạo của một “bên thắng cuộc” đang tìm mọi phương cách phi nhân nhất để trả thù bên bại trận, người Việt Nam bao gồm các cựu quân nhân, quan chức chính phủ và gia đình của họ không có lựa chọn nào khác là phải bỏ nước ra đi, nhất là sau khi hàng triệu quân, dân, cán, chính của chế độ Việt Nam Cộng Hòa đã bị trừng phạt trong các trại cải tạo từ Nam chí Bắc; nhà cửa bị tịch thu, sinh kế và học hành bị bóp nghẹt, vợ con bị đày vào các vùng “kinh tế mới” giữa núi rừng lam chướng.

Những khổ nạn của người Việt vượt biển trên những con thuyền cũ kỹ chở hàng trăm phụ nữ và trẻ em, cùng số phận mịt mù của họ trong các trại tị nạn được dựng lên vội vã ở Đông Nam Á được truyền hình Hoa Kỳ trình chiếu đến từng nhà đã gây sốc cho toàn xã hội Mỹ. Ngay sau khi trở thành phó tổng thống, ông Walter Mondale đã tận mắt chứng kiến cuộc khủng hoảng nhân đạo vô tiền khoáng hậu đó khi ông đến các trại tị nạn ở Thái Lan năm 1977, nơi tràn ngập những người cần thức ăn và chỗ ở.

Kế hoạch cứu vớt thuyền nhân

Từ Thái Lan trở về, Phó Tổng Thống Mondale và những người khác bắt đầu lên kế hoạch giúp đỡ người tị nạn. Ông đề nghị mở lại chính sách tiếp nhận người tị nạn Việt Nam đã từng cộng tác với người Mỹ, tăng gấp đôi số người tị nạn được phép tái định cư tại Hoa Kỳ lên 14,000 người mỗi tháng. Ngoài ra, Hoa Kỳ sẽ chi hàng triệu đô la để xây dựng các trại tị nạn tạm thời an toàn và vệ sinh ở Philippines và các nơi khác.

Một phần khác thường trong kế hoạch của ông Mondale là thuyết phục Hải Quân Hoa Kỳ biến các thủy thủ và tàu của họ trong Hạm Đội Sáu ngoài khơi bờ biển Đông Nam Á thành một đoàn cứu hộ, nhằm cứu vớt những người tị nạn trên biển.“Đó là một bước đầu tiên độc đáo. Quân đội không muốn làm việc đó. Họ nói: ‘Chúng tôi ở đây để chiến đấu; chúng tôi không phải là một tổ chức nhân đạo,’” ông Mondale nói với trang mạng MPRNews của Minnesota.

Cũng nên lưu ý rằng dư luận Hoa Kỳ thời điểm đó không thuận lợi cho việc đón tiếp người tị nạn Việt Nam, dù đó là những người đã từng kề vai sát cánh với Hoa Kỳ trong cuộc chiến tranh chống xâm lược của Cộng Sản. Tình hình kinh tế u ám thời hậu chiến, nạn thất nghiệp cùng một số tệ nạn xã hội khác, như nạn nghiện ma túy theo chân những người lính trở về, đã làm cho dân chúng Hoa Kỳ e ngại người nhập cư, lo sợ mất công ăn việc làm và pha trộn về văn hóa.

Tổng Thống Jimmy Carter tán thành các đề nghị kế hoạch của ông Mondale, vấn đề tiếp nhận người tị nạn Đông Dương được nối trở lại, nhưng vấn đề quá lớn mà người Mỹ không thể tự giải quyết. Nhiều quốc gia cho rằng “bi kịch thuyền nhân” là do Hoa Kỳ tạo ra sau khi quyết định từ bỏ miền Nam Việt Nam cho Cộng Sản, do vậy một mình Hoa Kỳ phải chịu trách nhiệm.

Cuối cùng, chính quyền Carter-Mondale quyết định yêu cầu Liên Hiệp Quốc đứng ra chủ trì một giải pháp cho cuộc khủng hoảng; một hội nghị quốc tế đặc biệt về người tị nạn được tổ chức tại Geneva, Thụy Sĩ, ngày Thứ Bảy, 21 Tháng Bảy, 1979, theo yêu cầu của Washington.


Walter Mondale ăn mừng chiến thắng trong cuộc bầu cử sơ bộ năm 1984 với Carter. Hình: United States Library of Congress/Wikipedia.

Và bài diễn văn lịch sử trước Liên Hiệp Quốc

Không giống như rất nhiều nỗ lực quốc tế lớn khác, hội nghị này không được sắp xếp trước. Phó Tổng Thống Mondale cảm thấy thất vọng khi phát biểu trước các đại biểu của Liên Hiệp Quốc, trước những quan chức ngoại giao mà ông thấy: “Họ ngồi đó như những người sắm vai phụ trong một bộ phim, các diễn giả đến rồi đi mà họ vẫn ngồi như kẻ bị hôn mê!”

Và ông đã đánh thức họ dậy bằng một bài diễn văn gây xúc động sâu sắc, nhờ nỗ lực của Martin Kaplan, người soạn diễn văn cho phó tổng thống.

Mở đầu bài diễn văn, ông Mondale nhắc lại một hội nghị khác của Liên Hiệp Quốc được tổ chức cách đó 41 năm, cũng tại Evian gần Geneva khi Đệ Nhị Thế Chiến chuẩn bị bùng nổ. Các đại biểu dự hội nghị năm 1938 đã không đồng ý được kế hoạch giải cứu người Do Thái trước sự truy lùng và đàn áp của Adolf Hitler và hậu quả là hàng triệu người Do Thái đã mất mạng trong các phòng hơi ngạt của Đức Quốc Xã.

“Tại hội nghị đó, nếu mọi quốc gia đồng ý chấp nhận một giải pháp như mỗi nước tiếp nhận 15,000 người Do Thái, thì sẽ không có người Do Thái nào còn lại trong nước Đức đệ tam đế chế để bị đưa đến các trại tập trung,” ông Mondale nói với các đại biểu ở Geneva năm 1979. Ông nhấn mạnh rằng các đại biểu trước đó của Liên Hiệp Quốc đã “thất bại trong cuộc thử nghiệm về nền văn minh” mà cái giá phải trả là vụ diệt chủng người Do Thái ở khắp Châu Âu. “Thế giới văn minh đã ẩn mình trong lớp áo choàng của luật pháp, và kết quả là Holocaust,” ông Mondale nói.

Ông Mondale cho biết các đại biểu bắt đầu chú ý khi ông nói với họ rằng thế giới đang đối mặt với một cuộc khủng hoảng tương tự có tầm thế giới và họ phải chọn một giải pháp mang tầm thế giới thay vì đổ hết trách nhiệm cho Hoa Kỳ.

“Tất cả chúng ta đều biết những con số thống kê nghiệt ngã, số thương vong khủng khiếp của những người tị nạn bị chính quyền Việt Nam ép buộc phải bỏ nước ra đi trên những chiếc thuyền cũ kỹ và không đủ tiêu chuẩn đi biển,” ông Mondale nói với hội nghị. So sánh tình cảnh của người tị nạn Việt Nam với người Do Thái trong Đệ Nhị Thế Chiến, sự tàn ác của chính quyền Cộng Sản Việt Nam với phát xít Đức, ông kêu gọi thế giới văn minh phải hành động trước khi quá muộn.

“Lịch sử sẽ không tha thứ cho chúng ta nếu chúng ta thất bại. Lịch sử sẽ không quên chúng ta nếu chúng ta thành công,” ông Mondale kết thúc bài diễn văn lịch sử, bạn đọc có thể xem lại toàn văn tiếng Anh của bài diễn văn qua lời kể của người soạn thảo Martin Kaplan tại địa chỉ: www.huffpost.com/entry/the-best-speech-i-ever-wr_b_247918.

Cả hội trường im lặng sau câu nói sau cùng của ông Mondale, và sau đó các đại biểu Liên Hiệp Quốc, bình thường vốn nghiêm nghị, đã đồng loạt đứng lên hoan nghênh nhiệt liệt.

Khi các quốc gia cùng tham gia vào kế hoạch giải cứu thuyền nhân Việt Nam, điều kiện trên biển và trong các trại tị nạn cho thuyền nhân bắt đầu được cải thiện. Nhưng cuộc khủng hoảng quá sâu và số lượng người bị ảnh hưởng quá lớn, khiến công việc phải kéo dài nhiều năm. Cuối cùng, hầu hết những thuyền nhân Việt Nam trong các trại tị nạn ở Đông Nam Á đã được các quốc gia từ Bắc Mỹ đến Âu Châu và Úc tiếp nhận, cưu mang và hình thành những cộng đồng người Việt quốc gia ở khắp nơi trên thế giới.
***
Phó Tổng Thống Walter Mondale (5 Tháng Giêng, 1928 – 19 Tháng Tư, 2021) ra đi vào lúc cộng đồng người Việt ở Hoa Kỳ tưởng niệm 46 năm ngày miền Nam thất thủ. Những hồi ức về những ngày cuối cùng của chế độ Cộng Hòa, về chặng đường sinh tử vượt biển tìm tự do lại được nhắc nhở cho các thế hệ sau để không ai bị lãng quên, không gì bị lãng quên. Ăn quả nhớ kẻ trồng cây, tên tuổi và công lao của ông Walter Mondale cũng sẽ được nhớ mãi cùng với sự lớn mạnh của các cộng đồng người Việt tị nạn chúng ta.

Không có nhận xét nào: