Tìm bài viết

Vì Bài viết và hình ảnh quá nhiều,nên Quí Vị và Các Bạn có thể xem phần Lưu trử Blog bên tay phải, chữ màu xanh (giống như mục lục) để tỉm tiêu đề, xong bấm vào đó để xem. Muốn xem bài cũ hơn, xin bấm vào (tháng....) năm... (vì blog Free nên có thể nhiều hình ảnh bị mất, hoặc không load kịp, xin Quí Bạn thông cảm)
Nhìn lên trên, có chữ Suối Nguồn Tươi Trẻ là phần dành cho Thơ, bấm vào đó để sang trang Thơ. Khi mở Youtube nhớ bấm vào ô vuông góc dưới bên phải để mở rộng màn hình xem cho đẹp.
Cám ơn Quí Vị

Nhìn Ra Bốn Phương

Thứ Sáu, 24 tháng 12, 2021

ĐÁNH ĐU VỚI TINH - BS Hoàng Thế Định

             (Hình minh hoạ)

         Những năm 40 và đầu 50, đất Phủ Ngự Viên ở Huế rộng mấy chục mẫu, với từ đường tọa lạc chính giữa, quanh vùng chỉ có vài nhà người dân ở bốn góc của khoảng đất. Về sau, trường Nguyễn Du được dựng trên đất khuôn viên phủ, rồi tiếp theo, mấy chục nhà lần lượt mọc lên, trở thành một xóm nhà. Người dân tự động mở con đường kiệt hình chữ U quanh Từ Đường Ngự Viên với hai lối ra vào qua đường Nguyễn Du.  Trong đám nhà chi chít thuộc xóm Nguyễn Du, có gia đình của anh chị Hồ Tá H. với một bà mẹ già và 7 đứa con. Anh H. là một hạ sĩ quan trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa nên không bị đi tù. 

<!>

Từ năm 1978, anh H. lao vào "cơn sốt trầm" ở Huế, làm một người trong những nhóm cơm đùm cơm nắm, (chứ không phải ngậm ngãi) đi tìm trầm trong những rừng sâu thuộc hai tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên (về sau nhóm tìm trầm còn phải vào tận rừng thuộc tỉnh Quãng Bình); anh H. trở thành đại lý xuất nhập trầm ở Huế. Anh làm ăn thành công vượt bực nhờ sự góp sức của chị vợ mà trước 1975, chị là nhân công có tay nghề cao trong việc gọt, dũa trầm cho một nhà bên cạnh. Con đường kiệt dẫn đến nhà anh chị H. những năm 80 luôn tấp nập người ra vào; họ là những con buôn từ nhiều nơi tìm đến và nhất là những người từ rừng sâu trở về với những bao đựng trầm đã kiếm được. Thời gian đó, những người tìm trầm thường bị sốt rét và không ít người chết vì bệnh nầy nếu không chữa trị đúng mức. 

Một số khác vì thiếu chuẩn bị về địa bàn, họ đi quá sâu vào rừng những nơi ít người tới, mong dễ tìm được nhiều trầm hơn, và họ bị lạc đường rồi bỏ mình trong rừng vì đói khát, bị tai nạn mà không ai biết để tiếp cứu hoặc mất mạng vì thú rừng hung dữ. Người dân lúc đó nhất là những người vào lứa tuổi 25-40 trong số những người thất nghiệp tràn đầy trong xã hội Cộng Sản, dù luôn nhớ câu đồng giao "ăn của rừng, rưng rưng nước mắt", nhưng thấy nghề đi rừng còn có được cái ăn, họ vẫn dấn thân liều mình không để cái đói hành hạ. Trong mấy chục năm khói lửa mà quân, dân miền nam chống quân Cộng Sản Bắc Việt xâm lăng; những người sống nghề rừng trong đó có những người tìm trầm chẳng dám bén mảng đến những vùng rừng sâu mà phần lớn là nơi xẫy ra những trận giao tranh ác liệt, đến khi dứt tiếng súng, họ quay trở lại rừng. Người đi tìm trầm phải ở lại hàng tuần trong rừng, vì quá khó khăn nên ai cũng mong kiếm những khúc trầm giá trị, bán được nhiều tiền.

 Việc định giá phẩm chất của trầm tùy thuộc trầm có trữ lượng dầu nhiều hay ít: một mảnh trầm được định giá thuộc loại nhất, nhì khi mà vừa gọt dũa một lớp mỏng bên ngoài, đã thấy dầu trầm màu đà sẫm, hoặc dựa vào trọng lượng lớn hơn nhiều so với cùng một số lượng. Trầm là một loại tinh dầu có mùi hương thơm rất dễ chịu, dầu trầm được tích tụ từ cây có cái tên nghe khá lãng mạn: "cây Gió". Cây Gió phải được già đúng mức, có khi phải cần đến hàng trăm năm mới có khả năng tiết ra chất dầu quý giá nầy. Một điểm đặc biệt là dầu trầm được phát tiết nhiều ở những cây Gió bị những vết thương tích do sấm sét hoặc gió mưa làm đổ gẫy cành. Từ xưa, những người tìm trầm khi thấy một cây gió chưa đủ kỳ hạn tạo trầm, họ dùng vật nhọn tạo những vết thương sâu trong thân cây, vài năm hay có khi cả chục năm sau trở lại, họ có thể thu hoạch được trầm từ những cây bị thương tích kể trên. Chiến tranh vừa gieo tang thương chết chóc hoặc thương tích cho người mà cũng gây những vết thương cho cây cối trong rừng trong đó có cây Gió..     .Loại trầm 1 hoặc 2 bán được giá vì là dành cho xuất khẩu. Nhiều công ty trong cũng như nước ngoài từng sản xuất những loại xà phòng với mùi thơm của trầm rất được ưa chuộng. Trầm loại 3 thường chỉ để bán ở chợ, dùng xông trong những ngày kỵ giỗ hay những ngày Tết. Các loại trầm kém hơn nữa dùng để nghiền ra làm nhang.

          Nhiều người buôn bán, nghĩ rằng họ làm ăn phát đạt là nhờ ngôi nhà, vì vậy mà cho dù được giàu có lên, họ cũng không đổi chỗ ở. Anh chị H. cũng vậy, nhờ trầm họ trở nên giàu có rất nhanh, nhưng họ không muốn dời đến hai căn nhà mới tậu rộng lớn gấp mấy lần nhà đang sống. Hai ngôi nhà mới mua, một là căn phố hai tầng trên đường Trần Hưng Đạo, trung tâm thành phố Huế; ngôi nhà thứ hai gần như là biệt thự của một bác sĩ đã quá vãng ở Thành Nội. Cả hai nơi đều được đứng tên của chị H. và giao cho vợ chồng đứa con gái đầu của anh chị cai quãn. Mọi sự giao dịch buôn bán trầm giường như đều xẩy ra dười mái hiên nhà mái tôn của anh chị H. trong xóm Nguyễn Du, bên trong nhà chỉ dành cho phòng ngủ của anh chị H. và phòng chung cho các con còn trong tuổi đi học. Thế mà một số lớn viên chức chính quyền sở tại nhất là những tên công an thường xuyên đi thẳng vào nhà trong, ngang nhiên ngồi hút thuốc trên bộ bàn ghế đặt trước bàn thờ tổ tiên; chúng đến để chờ anh H. mời nhậu nhẹt, dĩ nhiên là do anh H. thết đãi mọi thứ.    

          Gia đình anh H. vừa là hàng xóm vừa là thân chủ của tôi. Tôi lớn lên tại Phủ Ngự Viên, khi thành gia thất, đã ra riêng, nhưng sau 10 năm ở tù Cộng Sản trở về, không còn nhà cửa; gia đình nhỏ của tôi với vợ và 4 đứa con phải về sống nhờ dưới mái hiên của Từ Đường Ngự Viên. Ngày ngày tôi phải kiếm sống bằng cách "khám bệnh chui" trong "căn nhà mái hiên" đó và mặc dầu chẳng dám quảng cáo, bà con bệnh nhân cũng tìm đến. Đến khi bị thuế vụ và công an đến ép tôi dẹp bỏ cái "phòng mạch", tôi đành xếp dụng cụ khám bệnh và thuốc men vào một giỏ xách, đạp xe đến nhà bệnh nhân khi họ yêu cầu. Anh H. cũng có ý muốn giúp tôi, nên mỗi lần các con anh có bệnh lặt vặt anh chị cũng mời tôi sang giúp và anh trả công rất hậu. Về sau thì chính anh H. là người thỉnh thoảng bị bệnh vì anh phải làm việc, giao dịch và đi lại quá nhiều mà ít khi được nghỉ ngơi, lại thêm phải nhậu nhẹt và hút thuốc liên tục trong giao tế, nhất là với đám công an khu vực và nhiều nơi khác tìm đến.

          Một hôm, vào một ngày nóng bức của tháng 7 năm 1987, gia đình tôi đang ngồi bệt trên nền xi-măng quây quần quanh mâm cơm chiều, một anh công an dựng chiếc xe Honda ngoài sân và bước lên bậc cấp. Anh ta khẽ chào chúng tôi, một thái độ không bao giờ thấy của một công an đối với người dân. Tôi chống gối đứng dậy, lúc đến gần mới nhận ra cấp bậc thiếu tá trên cầu vai của anh. Anh nói nhỏ: 

-Tôi tìm bác sĩ Định, mấy người phía trước đường dẫn tôi vào đây.
-Vâng, tôi là Định.
Anh công an rầu rầu nói: 
-Con tôi bị bệnh nặng, nhờ bác sĩ cứu giúp. 
-Anh chờ tôi đi lấy dụng cụ khám bệnh và thuốc men!
Vợ tôi nói:                  
-Anh không ăn cho xong bữa cơm rồi hãy đi!
-Anh về rồi ăn cũng được. 

Anh công an phóng xe như bị ma đuổi, sau 15 phút đã đến nhà anh ta, đó là một căn trong dãy nhà dành cho nhân viên Ty Công An Thành Phố Huế nằm trên con đường cạnh cánh đồng An Cựu trước kia. Mọi vật đã hoàn toàn đổi khác, cánh đồng nầy xưa với màu xanh tươi mát vào mùa lúa thì nay đã trở thành đô thị, nhà cửa san sát; nhà của viên chức nhà nước và biệt thự của các vị quyền thế. Với cấp bậc thiếu tá công an mà nhà chỉ có vỏn vẹn 2 phòng; thì rõ ràng anh ta không được một chức vụ quyền uy bao nhiêu. Vừa vào bên trong, tôi đã thấy trên chiếc giường kê bên trái phòng ngoài, đứa bé gái 8 tuổi nằm mê man, mùng, mền đang còn ngổn ngang trong một góc giường. Anh ta nói:                                              

-Tôi vừa đưa cháu từ bệnh viện về. Họ nói cháu bị bệnh nặng quá, không cứu được nữa.                                                                                       

Tôi kẹp nhiệt cho cháu nhỏ, trong khi chờ đợi, tôi hỏi:
-Bệnh viện bảo cháu mắc bệnh gì? Có kết quả thử nghiệm gì không?      

-Họ không tìm ra bệnh. Họ cũng chẳng thử nghiệm gì hết. Trẻ con nằm la liệt trong phòng bệnh, mỗi giường nhỏ cho 2 bệnh nhân, có nơi 3 em một giường, tôi thấy bôi bác mất vệ sinh quá!                                         

Ống nhiệt chỉ 38 độ C, sốt không cao lắm, nhưng người em mềm như bún, mắt em lờ đờ, môi khô nẻ. Qua khám nghiệm và dựa vào lịch sử bệnh trạng do ba của em bé kể, tôi nghi em bị bệnh thương hàn mà vì không chữa trị làm cơ thể mất hết sức chống chỏi. Anh công an lo lắng theo dõi từng tiến trình khám bệnh của tôi, tôi nói:                                             

-Bệnh cháu khá nặng, tôi sẽ cố gắng hết sức mình để chữa cho cháu. Cháu phải được chuyền nước biển và các thuốc khác nữa. Anh chở tôi đi mua thuốc! Cháu chỉ được uống nước cháo với muối. Anh vội vã đi vào phòng sau dặn chị vợ những điều tôi vừa nói về cháu gái. Anh trở ra vừa đi vừa nhét ví vào túi quần sau. Qua hơn nửa giờ tìm hỏi nhiều nơi bán thuốc, kể cả những nơi buôn bán lậu, nhưng anh công an biết chỗ và chỉ cho tôi vào hỏi mua, cuối cùng tôi đã tìm ra được dịch chuyền và những thuốc cần thiết.

Sáng sớm hôm sau, anh công an lại đến nhà chở tôi sang thăm bệnh cho con anh ta. Trên đường đi anh vui mừng kể lại mọi diễn biến tốt từ sau khi cháu được chuyền dịch pha các loại sinh tố trợ lực và thuốc uống Chloramphenicol.               

Những ngày sau, tôi tự mình đạp xe đến thăm đứa bé bị bệnh. Sau một tuần, như mọi ngày, khi tôi vừa đến nhà đã thấy cháu đi lại trong phòng, mẹ nó ở phòng sau bước ra, cười chào tôi và nói: 
       
-Cháu đòi ăn cả ngày, nhờ bác sĩ kiểm tra lại cho cháu! Tôi đi gọi điện chồng tôi về gặp bác sĩ.
Mấy phút sau anh công an từ Ty Công An Thành Phố Huế đã về đến nhà, anh tươi cười bắt tay tôi:              

-Vợ chồng tôi vô cùng cảm ơn bác sĩ đã cứu mạng cháu. Chúng tôi thật may mắn gặp bác sĩ tận tâm. Nhà chật hẹp quá, mời bác sĩ sang quán bên cạnh uống ly nước giải khát.

Tôi theo anh công an vào quán nước cạnh nhà, anh chọn một bàn để ngoài hiên không có ai chung quanh. Sau khi uông vài hớp nước, anh công an nhét vào giữa hai tay tôi phong bì với mấy lời cảm ơn về công lao của tôi. Tôi chưa kịp nói gì thì anh ta nói, giọng trầm xuống đầy nghiêm trọng:

-Tôi có chuyện nầy muốn nói với bác sĩ, trước hết xin hỏi bác sĩ có quen thân với anh Hồ Tá H. không?                                                          
Tôi hơi ngỡ ngàng vì bỗng dưng câu chuyện lại chuyển sang người hàng xóm của tôi, tôi nói:                                                                                           
-Có! Anh H. là hàng xóm ở ngay sau chỗ tôi đang ở, tôi cũng thường chữa bệnh cho gia đình anh ấy. Anh H. rất tốt bụng với bà con lối xóm.               

-Tôi biết, vì vậy mà tôi nói bác sĩ giúp anh ấy. Sắp tới anh H. sẽ gặp điều không tốt, không chừng nguy hiểm đến tính mạng. Anh ấy nên đi khỏi Huế thì hơn.                                                                                                       

Thoạt nghe, tôi choáng váng chưa biết phải làm gì thì anh công an nói thêm:                                                                                                              
-Bác sĩ nên nói với anh H. càng sớm càng tốt.
Tôi gật đầu lia lịa nhưng người thì vẫn như trong cơn mơ, anh công an đứng dậy vào trong quầy trả tiền rồi bước ra đi gần lại tôi, nói nhỏ:

-Bác sĩ nhớ cho là chỉ mình bác sĩ biết thôi nha!                        

Từ giã vợ chồng anh công an và cháu gái nhỏ, tôi lấy chiếc xe đạp bước ra đường, không leo lên đạp mà lững thững dắt xe đi, lòng mãi nghĩ đến mối đe dọa tính mạng anh H. Tại sao, lại có những người muốn gây thù oán đến độ trầm trọng như thế với một con người hiền từ và có lòng tốt như anh H.? Tại sao anh công an đó lại biết tường tận về việc nầy?                                       

          Tối hôm đó, khi biết chắc chắn anh H. đang ở nhà, tôi liền sang nhà anh. Đến giờ đó mà vẫn còn vài người đang giao dịch buôn bán ngoài mái hiên; nghe tôi muốn gặp anh, chị dẫn tôi vào tận phòng của anh chị. Thấy anh H. đang nằm dài nhắm mắt, tôi định bước ra thì anh đã ngồi dậy:                        
-Anh đừng ngại, tôi chưa ngủ, mời anh ngồi tạm đây!                            

Vừa ngồi xuống chiếc ghế thấp cạnh giường anh, tôi chưa kịp nói gì thì anh lại
nói:                                                                                                            
-Mấy thứ thuốc anh cho tốt quá, tôi đã lành hẳn rồi. Mãi bận rộn mà chưa thanh toán tiền thuốc cho anh.                                                                       

Tôi ngỡ ngàng khoác tay:                                                                                
-Anh H.! Tôi sang đây giờ nầy không phải để hỏi việc tiền thuốc men đâu, tôi có việc nầy cần nói với anh.                                                                      

Anh H. ngồi gần lại phía tôi khi thấy vẻ trịnh trọng trên khuôn mặt tôi. Tôi thuật lại chuyện tôi gặp gỡ với anh công an tỉnh:                                              

-Anh H. nầy! Suốt 2 tuần qua tôi bận chữa trị cho đứa bé gái con của một anh công an có cấp bậc cũng khá lớn; anh ấy biết anh và biết rõ về công việc làm ăn giao dịch của anh, anh ấy còn biết anh là người có tấm lòng tốt đối với mọi người. Anh công an ấy có ý nhắn với anh rằng anh nên cẩn thận trong lúc nầy. Khi tôi thoạt nghe, người tôi như rung từng thớ thịt đến độ đứng không vững còn đầu óc tôi thì thật là như trong cơn mơ kinh hoàng. Anh ta còn nhắn mạnh thêm với tôi là nếu anh tìm cách đi khỏi Huế, sinh mạng anh mới được an toàn.                                                                   

Anh H. ra chiều suy nghĩ nhiều lắm rồi anh hỏi tôi:                               -Anh công an có nói là sự nguy hiểm cho tôi đến từ đâu không?                 

Tôi lắc đầu:                                                                              -Anh ta không hề nói với tôi là ai hay việc gì sẽ mang đến nguy hại cho anh và tôi cũng không dám hỏi điều bí mật mà tôi nghĩ là vượt quá khả năng và lòng tốt của anh ấy. Tôi chỉ lặp lại tất cả những gì anh ấy nói.                  

Anh H. ngồi như bất động một hồi rồi anh rút một điều thuốc đưa lên môi, anh bật lửa thắp thuốc mà mắt nhìn vào khoảng không vô định. Một lúc khá lâu sau, anh vừa lắc đầu vừa nói như đang nói với chính mình:                

-Tôi không thể làm gì khác! Tôi đã lỡ ngồi trên mình cọp.                    

Câu nói của anh H. làm cho tôi càng mù mịt về sự việc anh đang đối đầu hay đang giao dịch trong nghề nghiệp của anh. Anh H. và tôi ngồi yên lặng một hồi lâu, rồi tôi phá tan yên lặng đến ngột ngạt, đặt tay lên cánh tay anh H. và lựa lời khuyên can dựa theo lời của anh công an:                                 

-Theo thiển ý của tôi, anh nên thu xếp vào Sài-Gòn một thời gian, tạo dựng công việc làm rồi đưa gia đình theo vào trong đó cho yên thân. Sài-Gòn quá rộng so với Huế, ở đó chẳng ai để ý đến anh cũng như nghề nghiệp của anh.                                                                                                          

Anh H. vẫn ngồi yên. Tôi không biết là anh có nghe lời tôi nói hay không. Bên ngoài, tiếng sinh hoạt lao xao đã ngừng hẳn từ lâu, tôi nhìn đồng hồ treo trên tường, đã quá nửa khuya, tôi đứng dậy vỗ nhẹ vào vai anh H.:     -Việc nầy anh cần suy nghĩ thật kỹ, cân nhắc hơn thiệt cho anh và cho cả gia đình, nhưng trên hết là không thể khinh xuất lời anh công an. Anh nên giữ gìn sức khỏe để có quyết định sáng suốt trong việc quá hệ trọng nầy. Ngày mai tôi lại sang thăm anh.

          Công việc làm ăn của tôi không được suông sẻ cho lắm, cứ vài ngày lại có một hai tên công an khu vực đến tìm hỏi vớ vẫn hoặc xin tiền để phục vụ đòi hỏi vật chất của chúng. Dù vậy, sau một ngày lăn lộn kiếm sống, sau cơm chiều tôi vẫn sang thăm anh H. và cũng muốn nghe anh nói quyết định thoát hiểm của anh như thế nào. Bao nhiêu lần tôi vẫn không gặp được anh H., quá sốt ruột và quá lo lắng về anh H., tôi đành đem chuyện nói với chị H. Nhìn nét mặt chị không tỏ vẻ gì ngạc nhiên, tôi biết anh H. đã nói sự việc với vợ. Tôi lặp lại lời tôi đã khuyên anh nên lánh vào Sài-Gòn kiếm việc sinh sống. Chị H. nói:                                                              

-Vợ chồng tôi rất cảm ơn anh, một láng giềng quá tốt, đã lo lắng cho chúng tôi như vậy. Tôi cũng có khuyên anh nên vào nam một thời gian cho tình hình lắng dịu rồi hẵng hay.                                                                              

Tôi phân tích với chị H.:                                                                 
-Chị nghĩ xem, anh công an nói với tôi chuyện anh H. không phải vô cớ mà dựng chuyện làm gì? Với cấp bậc của anh ta, dĩ nhiên là anh ta biết nhiều việc trong tỉnh Bình Trị Thiên (thời gian đó 3 tỉnh Quãng Bình, Quãng Trị, Thừa Thiên hợp thành một).  
                                                                                  
Chị H. bứt tóc than thở:                                                                         

-Tôi muốn điên lên được anh à, không ngủ được cả mấy ngày nay, đầu tôi như muốn nổ tung ra.                                              Tôi cố hỏi chị H. xem chị có biết việc gì có thể dẫn đến việc nguy hiểm tính mạng của anh, chị H. đều lắc đầu bảo không biết, chị nói:                     

-Anh cũng thấy đó, vợ chồng tôi chỉ có nghề buôn bán trầm nầy, đổ mồ hôi sôi nước mắt mới có miếng cơm cho cả bầy con. Tôi quả quyết với anh là anh H. không có dính dáng chuyện chính trị chính em gì đâu.                         

-Tôi cũng chỉ cầu mong mọi việc tốt đẹp cho anh chị, không có chuyện gì rắc rối xẩy ra. Tôi cũng sắp tính chuyện vào nam kiếm sống đây chị à, nghe trong nam người ta cho mở phòng bán thuốc, thì chắc mở phòng khám bệnh cũng được.

          Bốn hôm trước khi tôi vào nam tìm đường kiếm sống, anh H. đã vào Sài-Gòn. Tôi mừng thầm là anh ấy đã chọn con đường sống đúng đắn qua lời thuyết phục của tôi: "ở Huế, anh là người giàu có, nhưng so với Sài-Gòn thì tiền bạc của anh chẳng thấm vào đâu và chẳng ai để ý".

          Sau 6 tháng với mấy lần thay đổi trú ngụ mấy lần, cuối cùng tôi đã xếp đặt được nơi ăn chốn ở khá vững vàng và nhiều bệnh nhân thân chủ tìm đến, tôi đã yên tâm và quyết định về Huế thăm vợ con. Sau khi hàn huyên tâm sự, chuyện làm ăn và mọi sinh hoạt trong gia đình; tin đầu tiên mà vợ tôi cho tôi biết là anh H. đã chết. Vợ tôi kể:                                             - Trong thời gian anh H. đi khỏi Huế, chị H. vẫn điều hành việc buôn bán trầm tại nhà vẫn như cũ. 2 tháng sau, anh H. từ Sài-Gòn trở ra, cũng không thấy gì lạ xẩy ra. Một hôm, anh H. nói với vợ là một cơ quan của Đồng Hới thuộc tỉnh Quảng Bình thường làm ăn buôn bán với anh mời anh ra để nhận tiền bạc mà họ đã thiếu anh. Chị H. gọi đứa con rể đến nhà để chở anh, vì chị nghĩ anh lại đã có tuổi không thể lái xe gắn máy đi đường xa trên 100 Km. Theo T., tên người con rể thuật lại về cái chết của nhạc phụ của anh là xe chở hai cha con đã bị lật và đầu anh H. bị đập vào tảng đá lớn bên đường, nhạc phụ anh đã chết ngay tại chỗ.                                     

Ngay hôm sau tôi sang nhà chị H. để an ủi gia đình chị sau một mất mát quá lớn lao. Thấy tôi, chị H. chỉ lắc đầu và khóc sướt mướt, chị không nói mà chỉ dùng tay đấm vào ngực mình. Chị H. uất ức về việc chồng bị hại một cách hết sức mờ ám mà không nói được. Tôi vào bàn thờ gia đình anh chị, nhìn ảnh anh H. chụp lúc tươi cười; đúng là nụ cười thường thấy trên khuôn mặt của anh ấy những lúc thấy tôi vừa sang chơi. Tôi thắp 3 nén nhang và vái anh 3 vái. Đứng một hồi lâu bên bàn thờ của anh H., tôi mãi nhớ xây quanh câu anh H. đã nói với tôi: "Tôi không thể làm gì khác! Tôi đã lỡ ngồi trên đầu cọp"                                                                                  

-"Cọp" nầy là cái gì? Công việc gì? Với ai?                                            

Chị H. mời tôi ra ngồi uống nước, ngồi bên chiếc bàn mà trước đây vẫn để chính giữa nhà, nay để sang một căn bên, tôi nhìn quanh nhà đầy trướng liễn mà người thân và bạn bè đến phúng điếu anh H., tất cả cũng bạc màu sau thời gian 4 tháng. Trong nhà không còn nghe tiếng ồn ào của đám trẻ con anh chị H., vì chị đã cho những đứa trên 10 tuổi đến sống với chị ruột chúng ở ngôi nhà lớn ở Thành Nội. Chị thì vẫn tiếp tục việc dũa đẽo trầm, nhưng giao dịch buôn bán không còn tấp nập như trước. Về sau, tôi được biết là các vị chủ các đại lý buôn bán trầm ở Huế, Đà Nẵng, Quảng Trị giống như anh H. đã chuyển sang công việc thương mại khác sau cái chết đầy bí ẩn của anh H.                                                                        

Vì sao anh H. quay trở lại Huế để rồi chết một cách đột ngột đầy thảm thương như vậy? Một tại nạn xe cho 2 người mà anh H. ngồi sau thì chết ngay tại chỗ, trong khi người con rễ giữ tay lái lại không một vết trầy da, áo quần không một vết sướt. Mọi người trong xóm Nguyễn Du đều nhận ra điều bí ẩn trong cái chết của anh H.

Những năm cuối 80 qua đầu 90, thời thế đã đổi khác; tỉnh Bình Trị Thiên rộng lớn, nay đã rã ra để trở về thành 3 tỉnh như cũ. Trước đây, tuy gom chung 3 tỉnh thành một, nhưng người của tỉnh Quảng Bình vẫn nắm hết  guồng máy điều hành; nay mỗi tỉnh riêng biệt, hành chính cũng như nhân sự đã thay đổi khác.                                                                                    

Cuối năm 1991, trước khi vào Sài-Gòn để bay sang Mỹ theo chương trình tị nạn chính trị cho tất cả quân cán chính VNCH bị Cộng Sản lùa vào tù sau 1975; tôi đi thăm từng nhà trong xóm để nói lời chia tay. Lúc đến nhà chị H. như mọi khi, tôi vào thắp nhang trên bàn thờ anh H., khi định kiếu từ, chị H. mời tôi ngồi nán lại và chị đã kể tất cả sự thật về cái chết của anh H. Thời gian tuy đã khá lâu mà mỗi lần nhắc đến anh H. không lúc nào chị cầm được nước mắt. Nhắc đến chuyện cũ, uất ức về cái chết thảm thương của chồng, lòng căm hận của chị sôi sục trở lại, chị H. nói trong nước mắt:                  

  -Như anh biết, vợ chồng tôi buôn bán làm ăn lương thiện, chẳng có điều gì mờ ám; mà chúng nó, bọn công an Đồng Hới, thay vì lo an ninh  cho dân thì lại dành công việc làm ăn của dân, đi làm thương mãi, mà lại buôn bán hàng xuất khẩu (xuất cảng). Xui cho chúng tôi là chúng nhòm ngó thấy món trầm được giá, thu được nhiều dollars, nên chi yêu cầu chúng tôi cho họ hợp tác. Nói yêu cầu cho phải cách chứ thật ra là chúng bắt buộc chúng tôi phải bán hàng (trầm) loại 1, 2 cho chúng. Mấy lần đầu, chúng chỉ nhận vài chục kí (kilogram) trầm xuất khẩu và rồi chúng cũng trả tiền đầy đủ; khoảng mùa đông năm đó, chúng nói với vợ chồng tôi là nước ngoài yêu cầu số lượng nhiều gấp mấy lần trước. Nhà tôi phải vất vả đi thu mua từ những đại lý khác để gom đủ số cho chúng. Vì là số trầm quá lớn mà lại thuộc loại tốt nhất, đưa ra một số tiền quá lớn, nên chúng tôi theo dõi hàng hóa xem đã xuất khẩu chưa. Khi chúng tôi biết chắc chắn số trầm đó đã bán ra nước ngoài, hỏi về khoảng thanh toán tiền bạc thì chúng nói rằng chúng chưa nhận chi phiếu của nước nhận hàng; một sự việc chưa hề xẩy ra trong thương mãi, nhất là với một nước ngoài. Nhà tôi mất công nhiều lần đi xa để đòi nợ nhưng rồi lần nào cũng về không, bọn chúng viện đủ cớ để không trả tiền, hoặc tìm cách lánh mặt. Vợ chồng tôi nghĩ có thể bọn công an Đồng Hới muốn "xù" chúng tôi (xù: trốn nợ), cho đến hôm anh cho biết cái tin động trời từ một anh công an Thừa Thiên; chúng tôi không tin mấy. Anh H. vào Sài-Gòn là để chạy chọt vài người quen biết có chức quyền, anh còn hứa sẽ tốn tiền cho họ nếu họ can thiệp cho vợ chồng tôi được nhận tiền bán trầm. Họ có hứa sẽ giúp chúng tôi, vì vậy anh H. mới trở lại Huế. Ôi chao ơi anh ơi! Chỉ toàn là tụi hứa cuội, cuối cùng chúng tôi tiền không có mà còn mất cả mạng, buôn bán với tụi Cộng Sản đúng như là đánh đu với tinh.  Chị H. nói không nghỉ, khi dừng để lấy hơi thì chị tức tối tự đấm ngực rồi khóc, giống như chuyện vừa xẩy ra hôm qua. Tôi tò mò hỏi:                                   

-Thế còn chuyện thằng con rể anh chị kể có đúng thật không?           

Chị kể một hồi không nghỉ tuồng như câu chuyện đau đớn của gia đình chị đã ăn sâu vào tâm khảm:                                                                     

-Trời đất ơi! Chúng khóa miệng thằng T. mất rồi, anh biết không? Chúng nhắn anh H. ra Đồng Hới để nhận tiền, anh H. vui mừng đòi cưỡi xe gắn máy đi một mình, tôi gọi thằng T. chở cha nó. Khi vừa đến địa đầu tỉnh Quảng Bình, ngang một quán nước bên đường, hai cha con dừng xe để giải khát. Bên ngoài quán có thấy một chiếc xe hơi màu rêu của công an, bên trong chỉ thấy bốn người mặc thường phục đang ngồi uống bia, họ cùng nhìn lên hai cha con anh H. rồi tiếp tục uống bia. Anh H. tôi nói nhỏ với con rể rằng tuồng như anh có gặp một người trong bọn họ đâu đó. Đến khi hai cha con ra xe, 4 người kia vẫn ngồi uống. Xe anh H. chạy được chừng năm cây số, ngang một vùng hoang vắng, chiếc xe hơi của bọn công an đã chạy đến sau lưng xe hai cha con. Anh H. vừa quây lại nhìn thì xe công an đã phóng nhanh ngang với xe nhà tôi, một người trong bọn họ ra dấu cho thằng T. tấp xe vào lề. Hai cha con đang ngơ ngẩn thì một tên bước đến hỏi bâng quơ, một tên khác sấn tới sau lưng anh H. dùng một cây to tròn như chân giường nện vào gáy anh H., anh vừa gục xuống thì một tên kia rút khẩu súng lục trong túi quần nhắm vào đầu anh H. bóp cò. Sự việc diễn ra quá nhanh, thằng T. run như mèo phải mưa, hắn run sợ đái vãi ra cả quần và quỳ xuống lạy bọn chúng tha mạng. Tên cầm đầu bọn chúng, mắt đỏ ngầu nẫy giờ vẫn ngồi ở ghế trưởng xa, bước xuống, hắn chỉ xác anh H. nói với thằng T. "Mầy khôn hồn muốn khỏi như thằng cha mầy thì hãy im miệng! Mầy về nói là chúng mầy bị tai nạn xe, biết chưa?" Nói xong, chúng lên xe chạy về hướng bắc. Trời đất ơi! Có đâu mà gian ác đến như vậy? Người dân đen như chúng tôi chỉ biết lo làm ăn mà đâu được yên thân? Chúng tôi thật quá ngây thơ, khờ dại đi buôn bán với lũ đầu trâu mặt ngựa không có quả tim, chính chúng hằng ngày thường đến nhà nầy xin ăn, xin uống, xin thuốc hút, ôi thôi cái lũ ma quỷ ăn tươi nuốt sống người ta gớm guốc như loài cá sấu!   Đúng như lời chị H., thời gian ở trong địa ngục trần gian của nhà tù Cộng Sản, tù binh chúng tôi cũng thường dùng chữ cá sấu để chỉ bọn Cộng Sản, vì cùng là C, S. Cá sấu nào cũng có miệng đỏ như máu.

Florida, tháng 4 - 2010                                                                                       
BS Hoàng Thế Định

Không có nhận xét nào: