(Hình minh hoạ)
Những năm 40 và đầu 50, đất Phủ Ngự Viên ở Huế rộng mấy chục mẫu, với từ đường tọa lạc chính giữa, quanh vùng chỉ có vài nhà người dân ở bốn góc của khoảng đất. Về sau, trường Nguyễn Du được dựng trên đất khuôn viên phủ, rồi tiếp theo, mấy chục nhà lần lượt mọc lên, trở thành một xóm nhà. Người dân tự động mở con đường kiệt hình chữ U quanh Từ Đường Ngự Viên với hai lối ra vào qua đường Nguyễn Du. Trong đám nhà chi chít thuộc xóm Nguyễn Du, có gia đình của anh chị Hồ Tá H. với một bà mẹ già và 7 đứa con. Anh H. là một hạ sĩ quan trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa nên không bị đi tù.
Từ năm 1978, anh H. lao vào "cơn sốt trầm" ở Huế, làm một người trong những nhóm cơm đùm cơm nắm, (chứ không phải ngậm ngãi) đi tìm trầm trong những rừng sâu thuộc hai tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên (về sau nhóm tìm trầm còn phải vào tận rừng thuộc tỉnh Quãng Bình); anh H. trở thành đại lý xuất nhập trầm ở Huế. Anh làm ăn thành công vượt bực nhờ sự góp sức của chị vợ mà trước 1975, chị là nhân công có tay nghề cao trong việc gọt, dũa trầm cho một nhà bên cạnh. Con đường kiệt dẫn đến nhà anh chị H. những năm 80 luôn tấp nập người ra vào; họ là những con buôn từ nhiều nơi tìm đến và nhất là những người từ rừng sâu trở về với những bao đựng trầm đã kiếm được. Thời gian đó, những người tìm trầm thường bị sốt rét và không ít người chết vì bệnh nầy nếu không chữa trị đúng mức.
Một số khác vì thiếu chuẩn bị về địa bàn, họ đi quá sâu vào rừng những nơi ít người tới, mong dễ tìm được nhiều trầm hơn, và họ bị lạc đường rồi bỏ mình trong rừng vì đói khát, bị tai nạn mà không ai biết để tiếp cứu hoặc mất mạng vì thú rừng hung dữ. Người dân lúc đó nhất là những người vào lứa tuổi 25-40 trong số những người thất nghiệp tràn đầy trong xã hội Cộng Sản, dù luôn nhớ câu đồng giao "ăn của rừng, rưng rưng nước mắt", nhưng thấy nghề đi rừng còn có được cái ăn, họ vẫn dấn thân liều mình không để cái đói hành hạ. Trong mấy chục năm khói lửa mà quân, dân miền nam chống quân Cộng Sản Bắc Việt xâm lăng; những người sống nghề rừng trong đó có những người tìm trầm chẳng dám bén mảng đến những vùng rừng sâu mà phần lớn là nơi xẫy ra những trận giao tranh ác liệt, đến khi dứt tiếng súng, họ quay trở lại rừng. Người đi tìm trầm phải ở lại hàng tuần trong rừng, vì quá khó khăn nên ai cũng mong kiếm những khúc trầm giá trị, bán được nhiều tiền.
Việc định giá phẩm chất của trầm tùy thuộc trầm có trữ lượng dầu nhiều hay ít: một mảnh trầm được định giá thuộc loại nhất, nhì khi mà vừa gọt dũa một lớp mỏng bên ngoài, đã thấy dầu trầm màu đà sẫm, hoặc dựa vào trọng lượng lớn hơn nhiều so với cùng một số lượng. Trầm là một loại tinh dầu có mùi hương thơm rất dễ chịu, dầu trầm được tích tụ từ cây có cái tên nghe khá lãng mạn: "cây Gió". Cây Gió phải được già đúng mức, có khi phải cần đến hàng trăm năm mới có khả năng tiết ra chất dầu quý giá nầy. Một điểm đặc biệt là dầu trầm được phát tiết nhiều ở những cây Gió bị những vết thương tích do sấm sét hoặc gió mưa làm đổ gẫy cành. Từ xưa, những người tìm trầm khi thấy một cây gió chưa đủ kỳ hạn tạo trầm, họ dùng vật nhọn tạo những vết thương sâu trong thân cây, vài năm hay có khi cả chục năm sau trở lại, họ có thể thu hoạch được trầm từ những cây bị thương tích kể trên. Chiến tranh vừa gieo tang thương chết chóc hoặc thương tích cho người mà cũng gây những vết thương cho cây cối trong rừng trong đó có cây Gió.. .Loại trầm 1 hoặc 2 bán được giá vì là dành cho xuất khẩu. Nhiều công ty trong cũng như nước ngoài từng sản xuất những loại xà phòng với mùi thơm của trầm rất được ưa chuộng. Trầm loại 3 thường chỉ để bán ở chợ, dùng xông trong những ngày kỵ giỗ hay những ngày Tết. Các loại trầm kém hơn nữa dùng để nghiền ra làm nhang.
Nhiều người buôn bán, nghĩ rằng họ làm ăn phát đạt là nhờ ngôi nhà, vì vậy mà cho dù được giàu có lên, họ cũng không đổi chỗ ở. Anh chị H. cũng vậy, nhờ trầm họ trở nên giàu có rất nhanh, nhưng họ không muốn dời đến hai căn nhà mới tậu rộng lớn gấp mấy lần nhà đang sống. Hai ngôi nhà mới mua, một là căn phố hai tầng trên đường Trần Hưng Đạo, trung tâm thành phố Huế; ngôi nhà thứ hai gần như là biệt thự của một bác sĩ đã quá vãng ở Thành Nội. Cả hai nơi đều được đứng tên của chị H. và giao cho vợ chồng đứa con gái đầu của anh chị cai quãn. Mọi sự giao dịch buôn bán trầm giường như đều xẩy ra dười mái hiên nhà mái tôn của anh chị H. trong xóm Nguyễn Du, bên trong nhà chỉ dành cho phòng ngủ của anh chị H. và phòng chung cho các con còn trong tuổi đi học. Thế mà một số lớn viên chức chính quyền sở tại nhất là những tên công an thường xuyên đi thẳng vào nhà trong, ngang nhiên ngồi hút thuốc trên bộ bàn ghế đặt trước bàn thờ tổ tiên; chúng đến để chờ anh H. mời nhậu nhẹt, dĩ nhiên là do anh H. thết đãi mọi thứ.
Gia đình anh H. vừa là hàng xóm vừa là thân chủ của tôi. Tôi lớn lên tại Phủ Ngự Viên, khi thành gia thất, đã ra riêng, nhưng sau 10 năm ở tù Cộng Sản trở về, không còn nhà cửa; gia đình nhỏ của tôi với vợ và 4 đứa con phải về sống nhờ dưới mái hiên của Từ Đường Ngự Viên. Ngày ngày tôi phải kiếm sống bằng cách "khám bệnh chui" trong "căn nhà mái hiên" đó và mặc dầu chẳng dám quảng cáo, bà con bệnh nhân cũng tìm đến. Đến khi bị thuế vụ và công an đến ép tôi dẹp bỏ cái "phòng mạch", tôi đành xếp dụng cụ khám bệnh và thuốc men vào một giỏ xách, đạp xe đến nhà bệnh nhân khi họ yêu cầu. Anh H. cũng có ý muốn giúp tôi, nên mỗi lần các con anh có bệnh lặt vặt anh chị cũng mời tôi sang giúp và anh trả công rất hậu. Về sau thì chính anh H. là người thỉnh thoảng bị bệnh vì anh phải làm việc, giao dịch và đi lại quá nhiều mà ít khi được nghỉ ngơi, lại thêm phải nhậu nhẹt và hút thuốc liên tục trong giao tế, nhất là với đám công an khu vực và nhiều nơi khác tìm đến.
-Tôi vừa đưa cháu từ bệnh viện về. Họ nói cháu bị bệnh nặng quá, không cứu được nữa.
-Họ không tìm ra bệnh. Họ cũng chẳng thử nghiệm gì hết. Trẻ con nằm la liệt trong phòng bệnh, mỗi giường nhỏ cho 2 bệnh nhân, có nơi 3 em một giường, tôi thấy bôi bác mất vệ sinh quá!
Ống nhiệt chỉ 38 độ C, sốt không cao lắm, nhưng người em mềm như bún, mắt em lờ đờ, môi khô nẻ. Qua khám nghiệm và dựa vào lịch sử bệnh trạng do ba của em bé kể, tôi nghi em bị bệnh thương hàn mà vì không chữa trị làm cơ thể mất hết sức chống chỏi. Anh công an lo lắng theo dõi từng tiến trình khám bệnh của tôi, tôi nói:
-Bệnh cháu khá nặng, tôi sẽ cố gắng hết sức mình để chữa cho cháu. Cháu phải được chuyền nước biển và các thuốc khác nữa. Anh chở tôi đi mua thuốc! Cháu chỉ được uống nước cháo với muối. Anh vội vã đi vào phòng sau dặn chị vợ những điều tôi vừa nói về cháu gái. Anh trở ra vừa đi vừa nhét ví vào túi quần sau. Qua hơn nửa giờ tìm hỏi nhiều nơi bán thuốc, kể cả những nơi buôn bán lậu, nhưng anh công an biết chỗ và chỉ cho tôi vào hỏi mua, cuối cùng tôi đã tìm ra được dịch chuyền và những thuốc cần thiết.
Từ giã vợ chồng anh công an và cháu gái nhỏ, tôi lấy chiếc xe đạp bước ra đường, không leo lên đạp mà lững thững dắt xe đi, lòng mãi nghĩ đến mối đe dọa tính mạng anh H. Tại sao, lại có những người muốn gây thù oán đến độ trầm trọng như thế với một con người hiền từ và có lòng tốt như anh H.? Tại sao anh công an đó lại biết tường tận về việc nầy?
Anh H. ra chiều suy nghĩ nhiều lắm rồi anh hỏi tôi: -Anh công an có nói là sự nguy hiểm cho tôi đến từ đâu không?
Anh H. ngồi như bất động một hồi rồi anh rút một điều thuốc đưa lên môi, anh bật lửa thắp thuốc mà mắt nhìn vào khoảng không vô định. Một lúc khá lâu sau, anh vừa lắc đầu vừa nói như đang nói với chính mình:
-Tôi không thể làm gì khác! Tôi đã lỡ ngồi trên mình cọp.
Công việc làm ăn của tôi không được suông sẻ cho lắm, cứ vài ngày lại có một hai tên công an khu vực đến tìm hỏi vớ vẫn hoặc xin tiền để phục vụ đòi hỏi vật chất của chúng. Dù vậy, sau một ngày lăn lộn kiếm sống, sau cơm chiều tôi vẫn sang thăm anh H. và cũng muốn nghe anh nói quyết định thoát hiểm của anh như thế nào. Bao nhiêu lần tôi vẫn không gặp được anh H., quá sốt ruột và quá lo lắng về anh H., tôi đành đem chuyện nói với chị H. Nhìn nét mặt chị không tỏ vẻ gì ngạc nhiên, tôi biết anh H. đã nói sự việc với vợ. Tôi lặp lại lời tôi đã khuyên anh nên lánh vào Sài-Gòn kiếm việc sinh sống. Chị H. nói:
Bốn hôm trước khi tôi vào nam tìm đường kiếm sống, anh H. đã vào Sài-Gòn. Tôi mừng thầm là anh ấy đã chọn con đường sống đúng đắn qua lời thuyết phục của tôi: "ở Huế, anh là người giàu có, nhưng so với Sài-Gòn thì tiền bạc của anh chẳng thấm vào đâu và chẳng ai để ý".
Sau 6 tháng với mấy lần thay đổi trú ngụ mấy lần, cuối cùng tôi đã xếp đặt được nơi ăn chốn ở khá vững vàng và nhiều bệnh nhân thân chủ tìm đến, tôi đã yên tâm và quyết định về Huế thăm vợ con. Sau khi hàn huyên tâm sự, chuyện làm ăn và mọi sinh hoạt trong gia đình; tin đầu tiên mà vợ tôi cho tôi biết là anh H. đã chết. Vợ tôi kể: - Trong thời gian anh H. đi khỏi Huế, chị H. vẫn điều hành việc buôn bán trầm tại nhà vẫn như cũ. 2 tháng sau, anh H. từ Sài-Gòn trở ra, cũng không thấy gì lạ xẩy ra. Một hôm, anh H. nói với vợ là một cơ quan của Đồng Hới thuộc tỉnh Quảng Bình thường làm ăn buôn bán với anh mời anh ra để nhận tiền bạc mà họ đã thiếu anh. Chị H. gọi đứa con rể đến nhà để chở anh, vì chị nghĩ anh lại đã có tuổi không thể lái xe gắn máy đi đường xa trên 100 Km. Theo T., tên người con rể thuật lại về cái chết của nhạc phụ của anh là xe chở hai cha con đã bị lật và đầu anh H. bị đập vào tảng đá lớn bên đường, nhạc phụ anh đã chết ngay tại chỗ.
Ngay hôm sau tôi sang nhà chị H. để an ủi gia đình chị sau một mất mát quá lớn lao. Thấy tôi, chị H. chỉ lắc đầu và khóc sướt mướt, chị không nói mà chỉ dùng tay đấm vào ngực mình. Chị H. uất ức về việc chồng bị hại một cách hết sức mờ ám mà không nói được. Tôi vào bàn thờ gia đình anh chị, nhìn ảnh anh H. chụp lúc tươi cười; đúng là nụ cười thường thấy trên khuôn mặt của anh ấy những lúc thấy tôi vừa sang chơi. Tôi thắp 3 nén nhang và vái anh 3 vái. Đứng một hồi lâu bên bàn thờ của anh H., tôi mãi nhớ xây quanh câu anh H. đã nói với tôi: "Tôi không thể làm gì khác! Tôi đã lỡ ngồi trên đầu cọp"
-"Cọp" nầy là cái gì? Công việc gì? Với ai?
Chị H. mời tôi ra ngồi uống nước, ngồi bên chiếc bàn mà trước đây vẫn để chính giữa nhà, nay để sang một căn bên, tôi nhìn quanh nhà đầy trướng liễn mà người thân và bạn bè đến phúng điếu anh H., tất cả cũng bạc màu sau thời gian 4 tháng. Trong nhà không còn nghe tiếng ồn ào của đám trẻ con anh chị H., vì chị đã cho những đứa trên 10 tuổi đến sống với chị ruột chúng ở ngôi nhà lớn ở Thành Nội. Chị thì vẫn tiếp tục việc dũa đẽo trầm, nhưng giao dịch buôn bán không còn tấp nập như trước. Về sau, tôi được biết là các vị chủ các đại lý buôn bán trầm ở Huế, Đà Nẵng, Quảng Trị giống như anh H. đã chuyển sang công việc thương mại khác sau cái chết đầy bí ẩn của anh H.
Vì sao anh H. quay trở lại Huế để rồi chết một cách đột ngột đầy thảm thương như vậy? Một tại nạn xe cho 2 người mà anh H. ngồi sau thì chết ngay tại chỗ, trong khi người con rễ giữ tay lái lại không một vết trầy da, áo quần không một vết sướt. Mọi người trong xóm Nguyễn Du đều nhận ra điều bí ẩn trong cái chết của anh H.
Những năm cuối 80 qua đầu 90, thời thế đã đổi khác; tỉnh Bình Trị Thiên rộng lớn, nay đã rã ra để trở về thành 3 tỉnh như cũ. Trước đây, tuy gom chung 3 tỉnh thành một, nhưng người của tỉnh Quảng Bình vẫn nắm hết guồng máy điều hành; nay mỗi tỉnh riêng biệt, hành chính cũng như nhân sự đã thay đổi khác.
-Thế còn chuyện thằng con rể anh chị kể có đúng thật không?
Chị kể một hồi không nghỉ tuồng như câu chuyện đau đớn của gia đình chị đã ăn sâu vào tâm khảm:
-Trời đất ơi! Chúng khóa miệng thằng T. mất rồi, anh biết không? Chúng nhắn anh H. ra Đồng Hới để nhận tiền, anh H. vui mừng đòi cưỡi xe gắn máy đi một mình, tôi gọi thằng T. chở cha nó. Khi vừa đến địa đầu tỉnh Quảng Bình, ngang một quán nước bên đường, hai cha con dừng xe để giải khát. Bên ngoài quán có thấy một chiếc xe hơi màu rêu của công an, bên trong chỉ thấy bốn người mặc thường phục đang ngồi uống bia, họ cùng nhìn lên hai cha con anh H. rồi tiếp tục uống bia. Anh H. tôi nói nhỏ với con rể rằng tuồng như anh có gặp một người trong bọn họ đâu đó. Đến khi hai cha con ra xe, 4 người kia vẫn ngồi uống. Xe anh H. chạy được chừng năm cây số, ngang một vùng hoang vắng, chiếc xe hơi của bọn công an đã chạy đến sau lưng xe hai cha con. Anh H. vừa quây lại nhìn thì xe công an đã phóng nhanh ngang với xe nhà tôi, một người trong bọn họ ra dấu cho thằng T. tấp xe vào lề. Hai cha con đang ngơ ngẩn thì một tên bước đến hỏi bâng quơ, một tên khác sấn tới sau lưng anh H. dùng một cây to tròn như chân giường nện vào gáy anh H., anh vừa gục xuống thì một tên kia rút khẩu súng lục trong túi quần nhắm vào đầu anh H. bóp cò. Sự việc diễn ra quá nhanh, thằng T. run như mèo phải mưa, hắn run sợ đái vãi ra cả quần và quỳ xuống lạy bọn chúng tha mạng. Tên cầm đầu bọn chúng, mắt đỏ ngầu nẫy giờ vẫn ngồi ở ghế trưởng xa, bước xuống, hắn chỉ xác anh H. nói với thằng T. "Mầy khôn hồn muốn khỏi như thằng cha mầy thì hãy im miệng! Mầy về nói là chúng mầy bị tai nạn xe, biết chưa?" Nói xong, chúng lên xe chạy về hướng bắc. Trời đất ơi! Có đâu mà gian ác đến như vậy? Người dân đen như chúng tôi chỉ biết lo làm ăn mà đâu được yên thân? Chúng tôi thật quá ngây thơ, khờ dại đi buôn bán với lũ đầu trâu mặt ngựa không có quả tim, chính chúng hằng ngày thường đến nhà nầy xin ăn, xin uống, xin thuốc hút, ôi thôi cái lũ ma quỷ ăn tươi nuốt sống người ta gớm guốc như loài cá sấu! Đúng như lời chị H., thời gian ở trong địa ngục trần gian của nhà tù Cộng Sản, tù binh chúng tôi cũng thường dùng chữ cá sấu để chỉ bọn Cộng Sản, vì cùng là C, S. Cá sấu nào cũng có miệng đỏ như máu.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét