THE WINCHESTER MISTERY HOUSE
Ngôi nhà kỳ-bí này do bà Sarah Pardee Winchester xây tại địa-chỉ: 525 South Winchester Boulevard- San Jose, CA 95128, Phone: (408) 247-2101. Ngôi nhà này nằm trên diện-tích 6 mẫu Anh (2.4 héc-ta), kiến-trúc theo kiểu Victorian, kiểu kiến-trúc quái lạ. Khi nhìn ngôi nhà từ trên không-trung, ngôi nhà giống như một ván cờ Domino mà gã khổng-lồ nào đó đang chơi. Căn nhà này có rất nhiều cái khác thường, chẳng hạn như: tường trắng ngay sau cánh cửa, cửa sổ nhìn vào tường, cửa sổ nhìn lên trời, những cánh cửa treo, cầu thang thì chẳng đưa tới đâu cả, các bậc của cầu thang quá sức thấp, và một cầu thang dẩn lên trần nhà, v.v. . . Người ta cho rằng bà Sarah đã cho xây như thế để lừa hồn ma bóng quế, hay là bà làm theo lệnh hồn ma? Đây là một dinh-thự (mansion) đặc-biệt và kỳ-quái nhất thế-giới với 160 phòng, 10.000 cánh cửa sổ; 2.000 cánh cửa, 52 cửa sổ trông lên trời, 47 cầu thang (với tổng số 367 bậc cấp), 47 lò sưởi, 40 phòng ngủ, 13 phòng tắm, 6 nhà bếp, 2 tầng hầm và duy-nhất chỉ một bồn tắm hoa-sen. Tài-liệu lưu-trữ cho biết bà đã chi tiêu $5.500.000.00 trong công việc xây cất ngôi nhà này, một số tiền khổng-lồ vào thời đó. Theo bức hình chụp vào năm 1900 thì căn nhà này cao với 7 tầng. Vụ động đất lớn nhất tại vùng vịnh San Francisco năm 1906 gây thiệt-hại nặng-nề cho ba tầng trên cùng của căn nhà, ngày nay chỉ còn có 4 tầng. Trận động đất 8.3 trên địa-chấn kế Richter này trãi dài từ tiểu-bang Oregon đến tận Los Angeles.
Bà Sarah Lockwood Winchester là quả phụ của ông William Wirt Winchester, con ông Oliver Winchester, người đã chế-tạo ra vũ-khí mang tên mình, thường được biết đến như là khẩu súng chinh-phục miền Tây (The Gun That Won The West) vì đã giết chết không biết bao nhiêu dân da đỏ, làm thiệt mạng rất nhiều quân sĩ của hai bên trong cuộc nội chiến của nước Mỹ và vô số trâu rừng. Winchester cũng là loại súng dùng trong các phim cao-bồi Western nổi tiếng như: ”The Good, The Best, The Ugly”, “High Noon”, “Rio Bravo”, “The Magnificient Seven”, “The Commancheros”, “Butch Cassidy and the Sundance Kid” . . . Bà Sarah L. Winchester chỉ cao có 4’ 10 (147,32 cm). Một bức hình chụp ông Winchester ngồi trên một chiếc xe do ngựa kéo bên sau chở một người đàn-bà bé nhỏ, đó là hình-ảnh hai vợ chồng bà Winchester, được trưng-bày ngay phòng ngoài của ngôi nhà này. Khi chồng chết vào năm 1881 vì bị bệnh lao phổi, ông ta đã để lại cho bà Sarah gia-tài vào khoảng 20 triệu Đô-la. Ông cũng để lại cho vợ sự dị-đoan vì suy-nghĩ linh-hồn những người đã bị sát-hại vì khẩu súng của ông. Ngoài số tiền bà thừa-kế do chồng để lại, bà còn có tiền lời từ 777 shares cổ-phần trong hãng Winchester Repeating Arms. Sau khi mẹ chồng bà chết vào năm 1897, bà nhận thêm 2,000 shares nữa. Như thế, bà sỡ-hữu gần đến 50% cổ-phần của công-ty. Cộng chung, chúng cung-cấp cho bà một số tiền sau khi trừ thuế là $1,000.00 mỗi ngày.
Bà Sarah L. Pardee sinh năm 1840 tại New Haven, Connecticut. Được xem là “Belle of New Haven”, bà được học trong một trường tư thục tốt nhất, bà nói được bốn ngôn-ngữ và chơi đàn dương-cầm thật giỏi. Bà kết-hôn với ông William Wirt Winchester vào năm 1862, chủ-tịch thứ nhì của hãng Winchester Repeating Arms vào ngày 30-9-1862. Đứa con gái duy-nhất của hai người là Anne Pardee ra đời vào 15 tháng 6 năm 1866 nhưng chết 5 tuần lễ sau đó, vào 24 tháng 7-1866 vì một căn bệnh sơ-sinh hiếm thấy. Năm 1884, bà Sarah rời thành-phố New Haven, Connecticut trong sự ám-ảnh bởi cái chết của chồng con, trước tiên bà đến nhà một người cháu gái đang sống ở Menlo Park, California. Trong thời-gian ở đó, bà khám-phá ra một chỗ hoàn-hảo để bà ở, đó là một nơi thuộc Santa Clara Valley ở thành-phố San Jose, California. Thế là bà bỏ tiền ra mua ngôi nhà và cho sửa sang lại thành một ngôi nhà đặc-biệt còn đến ngày nay này. Ngoài ra, bà còn sỡ hữu các căn nhà tại các thành-phố Atherton, Los Altos và Palo Alto, thuộc California.
Từ khi chồng con qua đời, bà sống trơ-trọi trong buồn thảm. Bà gặp một người lên đồng ở Boston, người này cho bà biết linh-hồn những người chết vì khẩu súng Winchester đã báo oán làm chết chồng con bà. Lúc đầu, bà chỉ sợ cho chồng khi ông cũng thành hồn ma và phải đối-diện cùng họ. Sau đó, bà lại lo sợ rằng sự trả thù của họ có thể lan qua gia-tài và ám luôn bà. Sau tang lễ, bà tham-khảo một vị đồng cốt và người này xác-định nỗi lo sợ của bà là đúng. Đã có nhiều cuộc ngồi đồng diễn ra và bà cũng nhận được biết bao khuyến-cáo. Những ma ám kinh-khủng nhất là những ma người da đỏ? Hiển-nhiên sẽ có ma tốt ma xấu nhưng những hồn ma xấu mới đáng sợ. Nếu bà tạo được sự tương-đắc với những ma tốt, nó sẽ xua bọn kia đi chỗ khác. Nhưng làm thế nào để hấp-dẫn được ma tốt? Một trong các vị đồng cốt cho biết chuyện đó có thể làm được bằng cách tạo một ngôi nhà lớn và bố-trí nó theo ý muốn của các hồn ma sẽ được tiết lộ với bà.
Đầu tiên, bà mua ngôi nhà 8 phòng rồi mướn 22 thợ mộc để xây dựng thêm nhiều phòng nữa. Tiếp bước họ là một toán làm vườn kiểng trồng hàng rào cao ngất để ngăn chận sự quan-sát từ ngoài nhìn vào. Bảy thợ làm vườn người Nhật được thuê để giử hàng rào sao cho không ai có thể nhìn thấu nó mãi đến ngày bà qua đời. Một trong những phòng xây đầu tiên là phòng ngồi đồng màu xanh. Nơi đây, đêm đêm Sarah một mình tiếp-xúc với những linh-hồn, bởi lẽ dường như bà sớm hiểu là không nên quá tin vào các vị đồng cốt. Bà thích các cuộc giao-du trực-tiếp của mình với thế-giới linh-hồn. Những ý-kiến về xây-dựng nhà được trao cho bà qua các cuộc ngồi đồng và thường bà rảo bước quanh nhà cùng người đốc-công và giải-thích cho ông ta những chỉ-thị sau cùng của các linh-hồn. Có ngày bà bổ-sung các bản vẽ bên mình, và có một số không thể thực-hiện được và phải phá bỏ khi công-trình mới xây được một phần; có khi cả dãy phòng xây xong lại phải phá bỏ do các linh-hồn phán bảo hay do ý bà Sarah. Tuy-nhiên, bà vẫn là người sáng-tạo đáng chú-ý và một vài ý-tưởng của bà đã vượt trước đương thời và trở thành hiện-thực. Bà cải-tiến cửa sổ nhái theo cò súng Winchester và búa giả. Bà cho dùng len để cách âm trong tường. Những tấm bọc góc được thiết-lập để tránh những hốc bụi, những tấm bàn giặt được đúc ngay các dãy chậu ở phòng giặt lớn; các vĩ lò được gắn bản lề vào thành lò 47 bếp. Đó là những sáng-kiến của Sarah hay của những hồn ma bồ-tèo? Sarah cần một ngôi nhà chống ma nhưng chuyện đó thật không đơn-giản. Thí-du như theo tín-ngưỡng lâu đời là ma ghét gương soi, và nếu con ma nào thấy chính ảnh phản-chiếu của mình trong gương thì con ma đó tan biến ngay. Những gì Sarah phải làm là tạo một loại gương chuyển-động ở cả bốn phía của mỗi phòng để bảo-đảm toàn cơ-ngơi không bị người cõi âm trú-ngụ. Nhưng điều đó không thể làm trọn-vẹn được bởi vì nó có thể cách-ly cơ-ngơi khỏi bọn ma da đỏ, ma da trắng hạ-cấp cùng những cô-hồn vô thừa-nhận khác nhưng đồng-thời nó cũng ngăn chận luôn các “công-dân khả-kính” của thế-giới linh-hồn mà bà hy-vọng hợp-tác với họ khi bà về bên kia thế-giới. Do đó, đáng lẽ cần mấy trăm tấm gương trong 160 phòng nhưng chỉ có trong hai phòng: một đặt trong phòng ngủ của bà và một trong buồng tắm liền bên cạnh, đó là buồng tắm thứ 13. Cả đến hồn ma linh-thiêng nhất cũng phải chấp-nhận bà chủ có quyền hạn ở một vài chỗ riêng tư một chút! Nếu chuyện ma được tin-tưởng hoàn-toàn thì ma rất thích vào nhà bằng đường ống khói lò sưởi. Sarah cung-ứng 47 đường như thế. Có mê lộ cho các cầu thang, một trong số đó có 7 đoạn với 44 bậc đủ để đưa một người lên tận tầng nóc của căn nhà; nhưng ở đây khách chỉ lên được 2 m (7 feet) bởi vì mỗi bậc chỉ cao 2 inches (5cm) và ngang cỡ 1.5 feet (4.5 dm). Lý-thuyết đưa ra là làm như vậy các hồn ma da đỏ bối-rối và lo sợ. Ngày nay, nó cũng gây bối rối cho du khách.
Phòng cầu hồn là nơi bà Sarah đêm đêm vào đó để “nhận chỉ-thị” của các hồn ma, và cũng từ nơi này, bà dòm chừng nhân-viên qua hai cửa sổ trong ra bếp. Phòng này chỉ có một lối vào nhưng có đến ba lối ra: một cửa chính, một cửa bên cạnh (ta sẽ rơi vào một cái bồn tắm) và sau cùng là một cái tủ đựng chén dĩa với lối bí-mật vào căn phòng sau lưng nó. Có một phòng lớn với các bao-lơn đủ mọi hình-dạng và kích-thước. Nơi đây, những hồn ma xấu biï bối rối sẽ chạy quýnh quanh góc để rồi phát-hiện cái bao-lơn bỗng-nhiên co rút bề ngang lại từ khoảng một thước còn lại vài phân. Bạn có thể bước khỏi một trong các bao-lơn này qua một cửa sổ và nhận thấy mình quay lại phần khác của chính bao-lơn đó. Còn ở chỗ khác, bạn bước qua cửa cái mà một khi đã đóng lại thì không thể nào mở ra được từ phía bên trong, bắt-buộc bạn phải đi tìm những phương-pháp khác để thoát thân. Bà Sarah bị bệnh thấp khớp nặng nên các bậc thang rất thấp, gọi là easy risers (thang con) giúp bà đi lại trong nhà dễ-dàng.
Bà Sarah hoan-nghinh trẻ con láng-giềng, bà cho chúng vào chơi trong vườn nhà, đôi khi bà còn mời chúng ăn kem hay chơi đàn piano cho chúng nghe. Bà thường che mặt bằng một màn che (veil) màu sẫm. Bà không bao giờ ngủ trong một phòng trong hai đêm liên-tục, bà cho rằng làm như thế để tránh các ma quỉ chờ bà ở đó.
Những nơi đặc-biệt của ngôi nhà gồm có:
* Cầu thang dẫn lên trần nhà:
Là một cầu thang có bậc bước rất thấp, lối lên trần nhà. Đây là một trong các điều khác thường của ngôi nhà này.
* Buồng kho trị giá $25,000:
Các tấm kính cửa và cửa sổ với trang-trí mỹ-thuật thủ-công-nghệ được nhập-cảng qua trung-gian của hãng làm kính nổi tiếng Tiffany Glass Company tại New York. Tác-phẩm trên khung kính cửa sổ gần phía giữa có hình mạng nhện và 13 viên ngọc, con số 13 là con số ưa chuộng của Bà. Giấy dán tường của Lincrusta Walton Wallcovering. Thứ giấy này rất đẹp và đắt tiền, vào thời đó (năm 1900) giá $1.75 một square feet.
* Vựa cỏ khô.
* Buồng tắm 13:
Trước khi đến buồng tắm 13 này phải đi ngang qua phòng may, qua một trong 40 phòng ngủ, đi lần qua 13 bậc thang con để vào phòng tắm này. Đây là một trong những buồng hiện-đại của ngôi nhà, có ổ điện và một bồn hoa sen được thiết-kế để xịt nước ngang tầm với chiều cao của bà. Buồng tắm có 13 cửa sổ, trong đó có 6 cái có kiểu hình mạng nhện.
* Phòng ngủ chính:
Đây là phòng ngủ của bà Sarah. Giường ngủ của bà rất ngắn, làm bằng gỗ. Giường nầy rất đặc-biệt vì có một vòng khung phần trên đầu nằm, được nối liền với khung chính của giường. Trong phòng này còn có bàn phấn, một bàn nhỏ với các ghế trong phòng đều nhỏ nhắn, có bọc nệm.
* Phòng cầu hồn:
Đây là nơi đêm đêm bà Sarah nhận chỉ-thị từ các hồn ma. Phòng này có một lối vào nhưng có đến ba lối ra.
* Phòng quần áo:
Phòng này chưa hoàn-tất, dùng làm phòng thay quần áo cho hai phòng ngủ hai bên.
* Nhà kính mặt phía Bắc:
Đây là nơi các chậu cây trong nhà được tưới nước. Sàn nhà nơi đây có thể lật lên được và các chậu cây có thể đặt lên sàn nhà bằng sắt bên dưới. Nước tưới cây dư trôi ra cửa sổ và chảy vào hệ-thống ống nước đưa ra tưới vườn bên dưới.
* Hành-lang lửa:
Đây là một căn phòng có 7 nguồn sưởi: 3 ống dẫn nhiệt và 4 lò sưởi. Trong những tháng lạnh, bà Sarah nhờ hơi nóng từ các nguồn này để giúp cho bà khỏi bị lạnh.
* Bể nước:
Với những trang-trí mỹ-thuật được nhập-cảng từ Venice, Ý Đại Lợi. Bể nước này có 13 lỗ thoát nước bên hông phải của nó.
* Phòng ngủ Phương Đông:
Cô Marion Werriman, cháu bà Winchester, thư-ký riêng vừa là phụ-tá của bà, ngụ trong hai phòng phương Đông này. Phòng ngủ này đặc-biệt ở chỗ các vật dụng đều bằng tre (bamboo) nhập-cảng từ Nhật, ngay cả khung lò sưởi, chân bàn ghế, khung giường ngủ, khung bàn ghế, . . .
* Cầu thang 7 – 11 (the 7-11 Staircase):
Có hình dạng chữ Y, rất thực dụng vì nó giúp cho người giúp việc có thể di-chuyển lên ba tầng của căn nhà một cách nhanh chóng.
* Nhà kính mặt Nam (South Conservatory).
* Phòng vải vóc:
Các ngăn tủ trong phòng chứa vải trước đây chứa đầy các cây vải mới. Người ta nói vải nhiều đến độ có thể đủ để làm mặt hàng cho một tiệm vải nhỏ. Gỗ trong các phòng này được vẽ vân lên để trông giống như gỗ cây phong nhưng thật ra đó chỉ là gỗ thông đỏ California. Có những nút bấm, đó là một phần của hệ-thống để gọi người giúp việc khi bà Sarah cần gọi họ.
* Phòng ngủ pha-lê.
* Phòng ngủ Hoa Cúc:
Phòng này có bộ kính cửa sổ với hình hoa cúc trước cửa phòng được nhập-cảng từ Vienna, Áo Quốc. Bà Sarah bị kẹt trong phòng này trong trận động-đất năm 1906, đến khi người làm tìm ra được bà thì bà tỏ ra rất bực-bội. Theo truyền thuyết, bà tin rằng “vụ động-đất là một điềm báo của người chết cho biết rằng bà đã tiêu quá nhiều tiền cho phần mặt tiền ngôi nhà xây cất đã gần xong”. Do vậy, Bà đã ra lệnh niêm-phong 30 căn phòng phía mặt tiền và các căn phòng này đã không được mở ra mãi cho đến khi bà qua đời.
* Phòng trực của người giúp việc:
Các nút gọi người làm đều được dẫn đến một cái hộp gọi nhân-viên. Từ bất cứ nơi nào trong nhà, chỉ cần ấn một cái nút là nhân-viên biết bà gọi và hiện bà đang gọi họ từ phòng nào. Bà mướn từ 40- 60 người làm công và trả lương cho họ gấp đôi đồng lương trung-bình thời bấy giờ ($1,50) tức là $3.00 một ngày. Bà thường trả công họ bằng đồng tiền vàng. Họ rất bằng lòng trong việc bà trả công cho họ.
* Ban-công lầu 4:
Đây là điểm cao nhất của ngôi nhà. Từ đây, ta có thể thấy 4 mẫu đất còn lại của khu đất nguyên-thủy rộng 161 mẫu. Chuông trên tháp được gióng lên vào buổi trưa, vào 5:00 chiều để gọi thợ ngoài đồng về dùng bữa. Dân thị-xã cũng nói chuông còn được gióng lên vào những lúc nửa đêm (2:00 AM), phải chăng để gọi người chết về cho buổi cầu hồn?
* Ống khói lò sưởi:
Ống khói chạy suốt 4 tầng lầu nhưng lại không thông lên nóc nhà khiến 4 lò sưởi bắt vào ống khỏi cũng trở thành vô dụng.
* Chiếc cửa sổ đắt tiền nhất:
Là cánh cửa đắt tiền nhất căn nhà, giá lên đến $1,500.00, một số tiền rất lớn vào thời ấy.
*Bậc cấp cổng sau:
Đây là những bậc cấp dẫn ra căn nhà nông trại 8 phòng nguyên-thủy bà Winchester mua năm 1884. Phía phải là chuồng chim, nơi bà Sarah nuôi các loại chim vùng nhiệt-đới.
* Nhà bếp thời tiền 1906:
Là khu nhà bếp chính trước năm động đất 1906, cũng là một trong 30 căn phòng bị bà Sarah ra lệnh niêm phong sau vụ động đất năm 1906. Những viên gạch hoa bảo-vệ cho nền nhà khỏi bị hư hại vì hơi nóng và tránh hỏa hoạn.
* Khu quản gia:
Là khu dành cho quản gia và các người giúp việc cho bà cư ngụ. Ông John Hansen, người đốc công, vợ và hai con trai ông ta cư-ngụ trong ngôi nhà này nhiều năm khi ông ta làm việc cho bà.
* Khách sảnh:
Là nơi bà Winchester tiếp khách. Đây là một căn phòng sang-trọng, sàn nhà của phòng này đòi hỏi các thợ làm cả năm mới xong.
* Đại khiêu vũ đường (Grand Ballroom):
Để hoàn-tất khiêu-vũ đường, bà đã chi mất $9,000.00 trong khi thời giá lúc đó xây một căn nhà chỉ cần $1.000.00. Vì kỹ-thuật âm-thanh, căn phòng này được ráp bằng chốt gỗ và keo, đinh được dùng rất ít. Tám trong 9 tấm bảng trên cao được chia ra làm 13 tấm bảng phụ. Bộ đèn treo mua từ nước Đức, đầu tiên có 12 ngọn đèn hơi, bà cho gắn thêm ngọn thứ 13. Những câu khắc trên kính cửa sổ được trích từ hai vở kịch của Shakespeare: “Wide unclasp (1 hàng) the table of (1 hàng) their thoughts (1 hàng)” từ Troilus and Cressida (IV: 5: 60) ở cánh phía trái, nói bởi Ulysses. Cánh cửa kia có hàng chữ “These same (1 hàng) thoughts people (1 hàng) this tittle world (1 hàng)” từ Richard II (V: 5: 9). Không ai hiểu ý nghĩa những câu này đối với bà Winchester. Tường và sàn parquet làm bằng mahagony, teak, maple, rosewood, gỗ sồi và gỗ trần-bì (ash) trắng. Sau trận động đất năm 1906, bà Sarah niêm-phong (seal) khiêu vũ đường này.
* Phòng để Tủ chén bát lớn và nhỏ nhất:
Đây là một căn phòng lót đá cẩm-thạch, chứa đồ lạnh, tiền thân của tủ đá hoặc tủ lạnh. Căn phòng này chứa những tủ chén bát lớn nhất và nhỏ nhất trong nhà. Cài nhỏ nhất có chỗ chứa rộng nửa đốt (1/2’’) (1.27 cm). Cái lớn nhấtcó thể chứa toàn bộ phần sau tầng trệt.
* Nhà bếp Năm 1906:
Đây là nhà bếp chính, được dùng sau vụ động đất năm 1906, cũng là nơi bà Winchester dòm chừng người làm từ Phòng Cầu Hồn. Nếu nhìn lên trên nóc lò màu vàng sẽ thấy mấy cửa sổ phòng cầu hồn. Có các cánh cửa treo, đó là những lối đi thông. Người làm có thể đem thức ăn cho bà Winchester thẳng vào phòng ăn, vừa đỡ mất thì-giờ vừa đỡ mõi chân.
* Phòng ăn kiểu Venice:
Đây là một phòng ăn được thiết trí theo kiểu Venice nước Ý với trần nhà trang-trí kiểu cách, đồ mộc chạm trỗ công-phu, kính cửa sổ có pha chì.
* Xe hơi của bà Sarah Winchester:
Với sự xuất-hiện (advent) của xe hơi, bà ta đã chi quá lãng-phí (extravagent) với số tiền $8.400.00 để mua một chiếc Renalt của Pháp khởi động bằng bình điện, một sự xa-xỉ mãi đến sau này. Khi xe có trục-trặc, bà ta gọi ông Fred Larson, một thợ máy từ San Francisco đến. Sau khi sửa xong, bà ta trả tiền công rất hậu hĩnh nhưng ông ta từ chối, chỉ lấy tiền công theo giá bình thường. Ông ta làm việc cho bà mãi đến khi bà chết. Nhiệm-vụ ông ta là sửa chữa xe cho bà cùng với việc bảo-trì hai chiếc xe khác, một chiếc đời 1917 Pierce Arrow Limousine và một chiếc Buick truck.
Tưởng chúng ta cũng nên biết qua về lai-lịch của những người liên-hệ đến người chủ quản của ngôi nhà này.
Ông Oliver Fischer Winchester, Lieutenant Governor of Connecticut (phó thống đốc tiểu bang Connecticut), giám-đốc đầu tiên của Winchester Repeating Arms Company kết-hôn với bà Jane Ellen Hope sinh được 3 con: Ann Rebecca, William Wirt Winchester, là giám-đốc thứ nhì từ 1837-1881 là chồng bà Sarah, người chủ ngôi nhà huyền-bí mà ta đang nói đến và con thứ ba là Hannah Jane. Chồng bà Hannah Jane là Thomas Gray Bennett là giám-đốc thứ tư của Công-ty, từ 1890-1910 và thứ 7 từ 1918-1919. Con trai của Thomas Gray Bennett và Hannah Jane, Winchester Bennett là giám-đốc thứ 6 từ 1915-1918. (Giám đốc = President)
Về gia-thế bà Winchester Lockwood Sarah được nói đến như sau:
Ông Leonard Pardee kết hôn cùng bà Sarah W. Burns, là cha mẹ bà Sarah, chủ một công-ty sản xuất dụng-cụ chuyên-chở, sinh được: 1- Sarah E. 2- Mary A. kết hôn cùng William Converse, là giám-đốc thứ ba từ 1881-1890, 3- Antoinette E. 4- Leonard 5- Sarah Lockwood Pardee, người chủ ngôi nhà, 6- Isabell C. lấy ông Lewis Merriman và con cuối cùng là Estelle L.
Bà Sarah “nhập đoàn với các quí-hữu” của mình vào ngày 5 tháng 9 năm 1922, một cái chết yên lành ở tuổi 82 trong khi ngủ vì đứng tim trong phòng ngủ chính của bà trên một chiếc giường với khung bằng gỗ, phía trên đầu nằm có một khung dài và cao rất đặc-biệt. Bà được ang-táng tại Nghĩa-trang Evergreen (Evergreen Cemetery) ở New Haven, Connecticut, bên cạnh chồng và con. Bà để lại tài sản cho chị em bà cùng các cháu, dành một số tiền lớn cho Winchester Clinic của General Hospital Society of Connecticut để điều-trị và chăm-sóc cho những người bị bịnh lao. Bệnh-viện này tồn-tại đến nay, là một phần của Trung-Tâm Y-Khoa Yale New Haven, Connecticut.
Chỉ đến khi bà qua đời, tiếng búa mới ngừng trong suốt 38 năm xây-dựng, 24 giờ mỗi ngày kể từ ngày khởi công. Phần lớn căn nhà chưa hoàn-tất vào ngày bà qua đời. Điều đáng tiếc là không có đồ đạc nào trong nhà là nguyên-thủy cả. Đồ đạc của bà được bỏ ra bán đấu-giá cả. Lúc đó, 3/ 4 căn nhà được trang-bị đồ-đạc, người dọn nhà phải dùng đến 6 chuyến xe vận-tải mỗi ngày trong vòng 6 tuần rưỡi mới dọn hết đồ ra khỏi nhà. Tất cả các động-sản này được bán bởi Union Trust Company of San Francisco, công-ty được ủy-thác của bà.
Một vài điều cần biết khi đến xem ngôi nhà này.
Sau khi đậu xe tại parking miễn phí trong khu-vực của tòa nhà hay phía đối-diện của đường Winchester Boulevard, quan khách mua ticket vào cửa tại Gift shop, giá ticket vào cửa như sau:
- Trẻ em (từ 6 đến 12 tuổi): $8.95 cho 1 lần và $35.00 cho cả năm.
- Người lớn (từ 13 đến 64 tuổi): $14.95 cho 1 lần và $36.00 cho cả năm.
- Người già (trên 65 tuổi): $11.95 cho 1 lần và $36.00 cho cả năm.
Trong ticket có ghi số chuyến (tour) của mình. Trong khi chờ đợi đến tour mình, quan khách có thể xem các vật trưng-bày trong Gift shop, mua quà lưu-niệm tại đây hoặc ra ngoài ngồi đợi trên các bộ ghế lộ-thiên dưới các tàng cây mát-mẻ, có thể vào Cafe shop nằm cạnh Gift shop với snack hay các thức uống. Quan khách cũng có thể tham quan khu vườn với các loại hoa được chăm bón kỹ lưỡng. Khi đến tour mình ghi trên ticket, hệ-thống loa thông-báo sẽ mời quí khách vào cửa (nên nhớ là không có loa thông-báo đến tour tại khu vườn hoa, do đó phải độ chừng khi nào gần đến tour mình, nên vào đợi trong Gift shop hay ngồi ở các ghế chờ). Tại cửa vào cũng có đèn báo tour đang đi. Khi đến tour mình, vào cửa quan khách phải xuất-trình ticket cho nhân-viên kiểm-soát.
Không được hút thuốc, ăn uống, nhai kẹo cao-su trong lúc đi xem. Không được bước ra khỏi đường trải thảm trên lối đi hay vượt các dây chắn lối, cũng không được dựa vào tường. Đi theo nhóm của mình, mỗi nhóm khoảng từ 15 đến 20 người. Tour lâu khoảng 65 phút, do một hướng-dẫn viên dẫn đi. Cùng một lúc có hai tour, cách nhau khoảng 30 phút. Đến mỗi chỗ đặc-biệt, hướng-dẫn viên dừng lại, dẫn-giải các chi-tiết cần biết cho quan khách. Sau khi họ nói, quan khách có quyền nêu thắc-mắc của mình hay muốn hỏi thêm chi-tiết. Nếu dẫn theo trẻ con, xin giử chúng và đừng để chúng làm ồn hay làm phiền người khác. Nếu cần thông-dịch lại cho người khác, xin nói nhỏ và tốt nhất nên lùi lại phía sau đoàn. Chú ý đến bước chân mình vì có những cầu thang bậc bước rất thấp, không giống cầu thang bình-thường. Quan khách có thể chụp hình, quay phim tùy thích, không cấm.
Ngoài việc đi xem ngôi nhà này ra, chúng ta còn được xem hàng trăm vật triển lãm trong Gift shop, nhất là nhiều loại súng trường Winchester và rất nhiều đồ cổ, những dụng-cụ xây-cất, các skateboard, kềm búa, cưa kéo, dụng-cụ làm vườn, các tài-liệu liên-quan đến ngôi nhà, card postal, ...
Hiện nay, ngôi nhà này do thành-phố San Jose quản-lý, tu-bổ và bảo-trì để cho du-khách đến thăm viếng, là địa-danh lịch-sử số 868 của tiểu-bang California, là một nơi du-lịch nổi tiếng của thành-phố San Jose, được bảo-tồn như một di-tích lịch-sử quốc-gia, còn là một trong các trung-tâm du-lịch của liên-bang, được ghi danh vào Sổ Địa-Danh Lịch-Sử Quốc-Gia vào năm 1974. Các bảng quảng-cáo cho ngôi nhà này được dựng tại các xa-lộ liên-bang I-680, I-280, I-101 để du-khách có thể dễ dàng nhận thấy.