Tìm bài viết

Vì Bài viết và hình ảnh quá nhiều,nên Quí Vị và Các Bạn có thể xem phần Lưu trử Blog bên tay phải, chữ màu xanh (giống như mục lục) để tỉm tiêu đề, xong bấm vào đó để xem. Muốn xem bài cũ hơn, xin bấm vào (tháng....) năm... (vì blog Free nên có thể nhiều hình ảnh bị mất, hoặc không load kịp, xin Quí Bạn thông cảm)
Nhìn lên trên, có chữ Suối Nguồn Tươi Trẻ là phần dành cho Thơ, bấm vào đó để sang trang Thơ. Khi mở Youtube nhớ bấm vào ô vuông góc dưới bên phải để mở rộng màn hình xem cho đẹp.
Cám ơn Quí Vị

Nhìn Ra Bốn Phương

Thứ Ba, 30 tháng 12, 2025

‘Vượt Tù, Vượt Biển' cùng Huỳnh Công Ánh - Cát Linh, phóng viên RFA


Cuốn hồi ký “Vượt tù Vượt biển” của tác giả Huỳnh Công Ánh được giới thiệu đến với mọi người sau 42 năm kể từ tháng 4 năm 1975. Trong đó, những sự kiện, hình ảnh của miền Nam kể từ buổi sáng 30 tháng 4-75, cuộc sống của người lính Việt Nam Cộng hoà trong trại cải tạo, hay những chuyến vượt biển kinh hoàng được tác giả kể lại trong cuốn hồi ký với vai trò là một nhân chứng lịch sử. Nhân vật Tôi Nhân vật “tôi” xuyên suốt trong 21 chương của “Vượt tù, vượt biển” là Đại uý Sư đoàn 22 Bộ binh Quân lực Việt Nam Cộng hoà, người tù vượt ngục trại Long Giao, người lái tàu vượt biển hai lần, chủ tịch Hội Cựu Quân nhân tại đảo Pulau Bidong năm 1981; người sáng lập Phong trào Hưng ca Việt Nam: nhạc sĩ Huỳnh Công Ánh.
<!>
Tất cả những vai trò từng tồn tại trong 70 năm cuộc đời được ông gói ghém trong 21 chương của “Vượt tù, vượt biển”, cuốn hồi ký ông ấp ủ 38 năm. Khi thực hiện được, thì đã bước sang năm thứ 42 kể từ buổi sáng 30 tháng 4 năm 1975.

“Cho tới bây giờ, những hình ảnh suốt từ năm 75 ra tới miền Bắc, rồi trốn tù, nó nằm mãi trong đầu. Mặc dù tuổi đã lớn nhưng những hình ảnh không bao giờ quên. Vì tuổi lớn, có những sự kiện có thể mất đi nhưng không có gì thêm bớt. Và những nhân vật vẫn còn nằm yên đó..”

Thật sự là như thế. Sài Gòn buổi sáng 30 tháng 4 năm 75 hiển hiện ra dưới ngòi bút của ông với đầy đủ âm thanh, sắc thái, mùi vị. Ông gọi những chương đó là “Tan hàng, Bỏ súng”.

Tan hàng; Bỏ súng

“30.4. Hình như suốt đêm qua Sài Gòn chập chờn không ai tròn giấc ngủ. Tôi không thể nằm yên ở nhà chịu trận mà không biết những gì đang xảy ra bên ngoài đường phố. Tôi rời nhà với đôi mắt cay xè. Sài Gòn vẫn nắng chói chang…

Sáng sớm hôm nay một chiếc trực thăng HU.1D bên kia đường, đỗ trên nóc nhà đón thân nhân, đã vướng dây điện, nằm chúi đầu như sắp rơi xuống đất. Ngoài đường cả một cảnh tượng hỗn loạn đang xảy ra, xe cộ xuôi ngược, và chưa lúc nào đường phố thấy người đi bộ nhiều như sáng nay, nhiều người chạy trên đường với thái độ hốt hoảng…”

Cho tới bây giờ, những hình ảnh suốt từ năm 75 ra tới miền Bắc, rồi trốn tù, nó nằm mãi trong đầu. <br/> - Huỳnh Công Ánh

“Cảm giác trưa ngày 30 tháng 4 là cảm giác không biết mình sẽ đi về đâu sau cái ngày Việt Cộng chiếm miền Nam, sau ngày buông súng. Lúc đó cứ nghĩ là bây giờ họ thắng rồi, họ lấy hết đất nước rồi, cảm giác như đờ đẫn, không biết đứng ở đâu, không biết làm gì. Cho tới khi có thông cáo đi tù cải tạo 10 ngày thì cũng vui mừng, giỡn đùa…ôi 10 ngày nhằm nhò gì, 3 tháng cũng nhằm nhò gì. Ở tù 10 ngày, 3 tháng hay 1 năm rồi ra có cơ hội đi làm ăn hoặc đi học lại, vì tôi tổng động viên năm 68, hai mươi mấy tuổi thôi, tôi cũng ước mơ đi học lại.”

Qua những tình tiết tác giả kể lại trong “Bỏ súng”, người đọc sẽ thấy và hiểu những lớp xi măng đầu tiên xây dựng nên một thành trì xã hội chủ nghĩa ngày nay.

“…Thời gian của tháng 5-75 là thời gian của xôn xao họp hành, thành lập khu phố, kê khai giấy tờ và học tập cái gọi là “chính sách của cách mạng”. Chị giúp việc nhà hàng xóm kế cận căn nhà tôi ở, nghe đâu cũng là Việt Cộng nằm vùng, bây giờ là Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân phường.”

Về Long Giao

Những tháng ngày sau đó của Huỳnh Công Ánh và đồng đội của ông được lột tả thật đến từng tiếng thở, tiếng ngáy, tiếng máy xe nổ ầm ì trong đêm khuya. Cách ông tường thuật đoạn đường về Long Giao mà bần bật lên đó là niềm tin, niềm hy vọng, rồi tiếp nối là sự hoang mang, để rồi cuối cùng là thất vọng.

“Giờ này trong bóng tối, chen chúc trong chiếc xe, tôi mới thấy ân hận. Vợ con tôi chắc đã ngủ rồi mà không biết cảnh chồng và cha đang ngồi trên chiếc xe bít bùng này và đi về đâu? Hoàn cảnh này không thể có chuyện đi “học tập 10 ngày” được rồi. Cũng có thể chúng chở ra biển, rồi nhận chìm tàu, hay đem lên núi xử bắn rồi lấp xuống hố.”

7 năm trong trại tù Long Giao trong hồi ký của Huỳnh Công Ánh không thiếu những câu chuyện bi hài. Những mẫu chuyện ngắn, được kể lại gọn gàng qua những lời đối thoại không văn vẻ, nhưng rất “trịnh trọng” bởi cách xưng hô “thưa gửi các bộ”, đủ để người đọc phải vỡ oà cái cảm xúc vừa buồn cười, vừa cay đắng.

Một bức ảnh chụp ngày 30 tháng 4 năm 1975 cho thấy lính Việt Nam Cộng Hòa bị hộ tống bởi bộ đội Bắc Việt.

Một bức ảnh chụp ngày 30 tháng 4 năm 1975 cho thấy lính Việt Nam Cộng Hòa bị hộ tống bởi bộ đội Bắc Việt. (AFP photo)

“…Những tuần lễ đầu ở Long Giao, khi đi ngang qua các vọng gác của các bộ đội, thấy nhiều viên đá cục chất đống dưới chân vọng gác. Sau mới biết, bộ đội sau khi đi đại tiện, họ dùng đá để lau chùi. Bộ đội mà thế thì huống gì là tù, lấy giấy ở đâu? chỉ dùng lá, cục đá hoặc chà dưới cỏ. Man rợ như thế đấy.

Cũng có những câu chuyện nực cười khác

Khi mới vào Long Giao, có anh tên là Lê Thông, mang kính cận dày cộm. Một hôm đi ngược chiều với bộ đội, tên bộ đội gọi giật lại:
- Anh kia, ai cho phép anh đeo kiếng?
- Báo cáo cán bộ, tôi bị cận thị. Anh Thông trả lời
- Cận thị là cái gì? Lấy xuống, lấy xuống mau!
- Báo cáo cán bộ lấy kiếng xuống thì tôi quờ quạng lắm, làm sao thấy đường đi?
- Tôi không đùa với anh đâu nhé. Lấy xuống mau!"

Vượt tù, vượt biển

Từ những chương này trở về sau, là những mốc thời gian tác giả gọi là tàn khốc nhất. Chính vì vậy mà trong suốt 38 năm, dù trải qua nhiều thăng trầm của cuộc đời, ông vẫn không quên một chi tiết nào. Từ cuộc vượt ngục lịch sử thoát khỏi những ngày học tập cải tạo trong trang phục của bộ đội Bắc Việt cho đến hai lần lái tàu vượt biển.

“Khi ở tù, phải có 1 thời gian suy nghĩ rất là lâu, bao nhiêu năm liền về ý định trốn tù. Vượt biển thì khốc liệt lắm, trong vòng có mấy ngày thôi. Tôi đã từng bị mảnh đạn bị thương, rồi bỗng nhiên trở thành người chỉ huy cứu 29 người trên tàu sống sót trong 17 ngày trôi trên biển. Chính mình cũng bị hải tặc Thái Lan khoét lưỡi lê trong hậu môn chảy máu đi không được, bị kẹp tay tra khảo. Nó khốc liệt sợ hãi hơn đường trốn tù. Cái hãi hùng của chuyến vượt biên thứ hai nếu xảy ra giống như chuyến thứ nhất thì liệu vợ, con và cháu và em của mình sẽ ra sao? vì mình mà họ chết. Nếu mình chết 1 mình không sao. Nhưng liên luỵ đến con nhỏ, cháu mình thì cảm giác nó sợ sệt, không ăn không ngủ được nhiều hơn là trong tù.

Cho đến giờ này, thỉnh thoảng, cái gọi là hãi hùng nó vẫn còn. Có nhiều đêm ngủ phải đá lung tung, hoặc nhiều đêm ngủ giật mình ôm mền ôm gối chạy. <br/> - Huỳnh Công Ánh

Vượt biên là mình phải làm sao cho tàu đi không chìm dưới biển, làm sao để tránh hải tặc vô cướp, hiếp dâm…Khi đi rồi không biết sẽ đi về đâu? Tấp vô bến nào hay được tàu vớt hay bị chìm tàu?”

Những ký ức tưởng như sẽ dần nguôi ngoai, nhưng không phải thế. Ông nhớ lại cuộc đời của một người tỵ nạn đến Mỹ ba mươi mấy năm, và thấy rằng nó cay đắng thâm trầm nghiệt ngã hơn thời gian 7 năm học tập cải tạo rất nhiều.

“Cho đến giờ này, thỉnh thoảng, cái gọi là hãi hùng nó vẫn còn. Có nhiều đêm ngủ phải đá lung tung, hoặc nhiều đêm ngủ giật mình ôm mền ôm gối chạy. Nhiều khi trong giấc chiêm bao mình thấy họ bắt mình, kéo mình, mình vẫy vùng, đá vào người vợ nằm kế mình. Nhiều lần như thế, nghĩa là nó ám ảnh mình suốt đời.

Thành ra cái chuyện ám ảnh, lo âu, dĩ vãng trong tù là nhớ vanh vách, chỉ có đọc ra, ghi ra, chứ không thêm thắt, hư cấu, văn chương gì cả.”

Nhân chứng lịch sử

Khó mà tìm được một mỹ từ hay một chi tiết bắt người đọc phải suy nghĩ trong hồi ký của Huỳnh Công Ánh. Thay vào đó, từng câu từng chữ hiện ra gãy gọn, thật thà, có cả cái tiếng chửi thề không lẫn vào đâu được của người miền Nam, đưa người đọc của nhiều thế hệ quay về sống với từng giây phút của năm tháng đó, chứng kiến những câu chuyện đó.

Ông nói rằng để thoát được những chuyến đi ấy, ông đã chịu ơn tình của nhiều người. Những ân tình đó là nguyên nhân đến 38 năm sau cuốn hồi ký mới ra đời. Niềm vui của ông được diễn tả bởi hai chữ “bàng hoàng” vì ông cho rằng ông đã thực hiện được sứ mệnh của cuộc đời mình.

Ước mơ và khát vọng lớn nhất là tôi làm tròn vai trò người chứng nhân của lịch sử, khúc quanh lịch sử cay nghiệt nhất mình là chứng nhân. <br/>- Huỳnh Công Ánh

“Ước mơ và khát vọng lớn nhất là tôi làm tròn vai trò người chứng nhân của lịch sử, khúc quanh lịch sử cay nghiệt nhất mình là chứng nhân. Và mình đứng cửa giữa, tức là lòng mình đã chùng xuống rồi. Ba mươi mấy năm tôi mới viết, thì sự hận thù ra ngòi bút, ra trong tư tưởng không còn nữa. Nó đã bình tâm rồi. Mình muốn mình là người Việt Nam yêu nước, mình muốn mình là nhân chứng thật sự giữa hai chế độ miền Bắc và miền Nam. Và nhân chứng đó chỉ đưa ra hình ảnh thôi, không phê phán, không chửi rủa, không đả đảo, không hận thù.”

Điều ông mong muốn, với vai trò là một nhân chứng kể lại một khúc quanh của lịch sử, người đọc, và thế hệ sau sẽ tự biết cái nào đúng, cái nào sai, cái nào cần thiết cho giống nòi Việt Nam.

Khi chương cuối cùng của hồi ký “Vượt tù, vượt biển” khép lại, người đọc vẫn còn thấy đâu đó buổi sáng hỗn loạn của ngày 30 tháng 4 lịch sử. Với nhiều người khác, biến cố ấy không chỉ dẫn đến một cuộc vượt tù cải tạo và hai chuyến vượt biển của Huỳnh Công Ánh, mà còn dẫn đến một câu chuyện dài chưa có hồi kết của đất nước, dù đã bước sang năm thứ 42.

ĐỌC HỒI KÝ HUỲNH CÔNG ÁNH
(Huy Phương)

Thưa Quý Vị,

Chúng tôi xin trân trọng giới thiệu tập Hồi Ký của tác giả Huỳnh Công Ánh, in song ngữ, bìa cứng, phần Anh ngữ 438 trang, phần Việt ngữ 370 trang.

Xin mời đọc Lời Giới Thiệu của Nhà Văn Huy Phương ”ĐỌC HỒI KÝ HÙYNH CÔNG ÁNH”để hiểu nội dung một cuộc vượt tù cải tạo độc đáo từ miền Bắc cùng với 2 cuộc vượt biển gian nan với cuộc đời hào hùng nơi Miền Đất Hứa trước khi quyết định đặt mua để cho cá nhân và cho thế hệ con cháu.

Cuối năm 1980, tôi là người tù ở K3 thuộc trại Tân Kỳ Nghệ Tĩnh, được nghe bạn bè bàn tán là Huỳnh Công Ánh, một người tù ”cải tạo” ở K1 đã trốn trại thành công. Trong những ngày ở Hoàng Liên Sơn, tôi đã biết chuyện nhiều nhóm tù đã tìm cách trốn thoát, bằng con đường sang biên giói Lào hay Trung Quốc, nhưng không ai đến nơi. Một số anh em bị chết trên đường đi, và tất cả những người còn sống đều bị bắt trở lại, bị đánh đập, tra tấn rất dã man và bị cùm trong trại biệt giam một thời gian dài, như trường hợp ở trại giam Cẩm Nhân, Yên Bái của chúng tôi.

Huỳnh Công Ánh không theo con đường vượt trại đi về hướng mặt trời lăn trọng bộ áo quần nhà tù như những người bạn tù khác, mà anh trốn khỏi trại, đi về hướng Đông trong một bộ đồ xanh, với nón cối dép râu và chiếc xác cốt trên vai của một người lính bộ đội Bắc Việt. Được sự giúp đỡ của một thiếu nữ trong làng quê đã đem lòng yêu anh, và với sự đồng hành của một người tù hình sự, mà anh quen biết trong trại tù, đã có lệnh tha, Huỳnh Công Ánh và người thanh niên xứ Nghệ này, đã đèo nhau trên một chiếc xe đạp, ra ga Vinh trên con đường dài 50km, lên tàu Thống Nhất và đã về tới ga Bình Triệu, SaiGon một tuần sau.

Ba tháng sau, Ánh vượt biển một mình và để lại Chiến, lúc ấy đang dưỡng thương tại Phú Lâm. Cuộc vượt biển đầu tiên kéo dài 15 ngày lênh đên trên biển bất thành, cuối cùng Ánh sống sót và trôi giạt trở lại Phú Quốc.

Chuyến vượt biển thứ hai, Ánh cùng đi với gia đình và Nguyễn Đình Chiến, lần này Ánh chủ động lái con tàu đi và sau một tuần đã đến Pulau Bi Đông, Mã Lai, thành công.

Cuộc hành trình từ trại tù Tân Kỳ, Nghệ Tĩnh đến Bi Đông, tóm tắt trong mười giòng chữ ở trên kể lại, nhưng là cả một cuỗi ngày nguy hiểm, lo âu, cay đắng, chết chóc mà cũng thấm đậm tình người, làm cho người đọc khó rời trang sách, dù chỉ trong chốc lát.

Theo tôi Huỳnh Công Ánh là một người xuất chúng đáng cho chúng ta khâm phục.

Khi là một người lính, anh là một ”chiến sĩ xuất sắc”của Sư Đoàn 22 BB được tuyển chọn tham dự lễ Quốc Khánh 1972 và công du Đài Loan. Khi là một người tù, anh là một người tù kiệt xuất, qua mặt được cả một hệ thống công an dày đặc để về tới SaiGon. Khi là một người tù vượt biển, anh là một người vượt biển gan dạ, mưu trí và anh hùng.

Qua bao nhiêu gian khổ, tù đày, từ khi bước chân lên miền đất tự do, Huỳnh Công Ánh đã quyết tâm phục vụ cho dân tộc và tự do. Khi còn là một người tỵ nạn chân ướt chân ráo lên Pulau Bidong, Malaysia, anh đã thành lập Hội Cựu Quân Nhân VNCH ở trại tỵ nạn để tranh đấu và bảo vệ quyền lợi cho anh em.

Đến Mỹ, cùng với các ông Đào Văn Bình và Nguyễn Hậu, anh đồng sáng lập và là Chủ Tịch đầu tiên của Tổng Hội Cựu Tù Nhân Chính Trị Việt Nam và Chủ Nhiệm Tuần Báo Chứng Nhân dùng văn nghệ và truyền thông như là một phương tiện đấu tranh. Lúc bấy giờ có tất cả bốn Khu Hội Tù Nhân Chính Trị, kể cả Khu Hội Dallas.

Huỳnh Công Ánh cùng với Nguyệt Ánh, Việt Dzũng, Châu Đình An, và Phan Ni Tấn đã sáng lập Phong Trào Hưng Ca Việt Nam (4-1985) và đồng sáng lập viên Hội Văn Nghệ Sĩ Việt Nam Tự Do (1986). Trong thời gian này, anh đã sáng tác rất nhiều bản nhạc tranh đấu cho quyền làm người và cho tự do của quê hương.

Năm 1992, Nhạc sĩ Huỳnh Công Ánh được tuyên dương tại điện Caucus ở Quốc Hội Hoa Kỳ, có sự hiện diện của Đại diện Tổng Thống Hoa Kỳ George H.W.Bush, 50 Thượng Nghị Sĩ và Dân Biểu về thành tích hoạt động xã hội và đấu tranh cho nhân quyền Việt Nam.

Người ỵ nạn đến Mỹ chỉ mong được sống còn, nuôi sống gia đình và lo cho con ăn học, nhưngvới Huỳnh Công Ánh, anh lại là một người thành công vượt bực trên thương trường.

Năm 1998, anh được trao giải Jefferson Award (Người thành công nhất tại tiểu bang Texas về kinh tế và xã hội và được chọn vào Board Director Catholic Charity – Hội Bác Ái Công Giáo Hoa Kỳ).

Năm 1981, đến Bi Đông, Huỳnh Công Ánh chỉ còn một chiếc quần ngắn, một cái áo lót và một đôi dép, chiếc lớn, chiếc nhỏ, một trắng một vàng. Tám năm sau anh đã phấn đấu để trở thành một triệu phú, làm chủ nhiều nhà hàng, cơ sở thương mại tại Houston.

Nhưng số phận không chiều người, từ năm 2000 trở đi, Huỳnh Công Ánh bắt đầu làm ăn thua lỗ, gia đình ly tán, bất đắc chí và trở thành một người homeless thật sự. Nhưng con người có ý chí vươn lên và đã từng vượt qua nhiều nghịch cảnh, năm 2005, sau cơn bão Katrina tàn phá New Orleans, Lousiana, cùng với những người dân ở đây, Huỳnh Công Ánh đứng dậy làm lại cuộc đời.

Cuộc đời của Huỳnh Công Ánh đượcmô tả trong thiên hồi ký này không phải là con đường bằng phẳng được rải toàn hoa hồng, mà cũng đầy những gai nhọn và sỏi đá. Cuộc đời của anh là những nỗ lực phấn đấu và vượt qua mọi gian lao, nghịch cảnh, nhiều lúc tưởng như đã tuyệt vọng. Huỳnh Công Ánh không muốn mòn mỏi chờ đợi trong trại tù khắc nghiệt,không muốn chết trên biển khơi. Anh luôn luôn nghĩ đến chiến hữu bạn bè và quê hương,nên cuộc chiến đấu không bao giờ ngừng nghỉ.

Qua tập hồi ký này, phải nói Huỳnh Công Ánh, ngoài những nghị lực phi thường tự bản thân, còn là một người được may mắn, được mọi người, cả bạn lẫn thù, thương yêu giúp đỡ. Và chính anh cũng là một người tử tế, có lòng, lúc nào cũng nhớ đến điều ân nghĩa của Đất,Trời và những người đã đến với anh trong lúc khốn khó, điều mà Ánh gọi là ”ơn nghĩa trùng trùng!”.

Phải nói rằng, khi có dịp gặp hoặc tiếp xúc với những người từ miền Nam trên đất Bắc, họ đã để lại trong lòng người dân ba hình ảnh tốt đẹp, khác hẳn với lời tuyên truyền xảo trá hận thù của chính quyền Cộng Sản. Cũng chính vì vậy, một người coi tù miền Bắc đã hết lòng giúp đỡ anh, một người lính Bắc Việt, Nguyễn Đình Chiến đã gắn bó hết cuộc đời với anh và vượt biển theo cùng anh, và một cô gái quê, Trần Thị Hoa đem hết mối tình chất phác, trong sáng trao cho anh.

Trong những chuỗi ngày truân chuyên, anh cũng đã gặp một người cựu chiến binh Nhảy Dù tên Cho, con người ”trọng nghĩa kinh tài”, như Trời đã sinh ra để cứu mạng sống cho anh.

Huỳnh Công Ánh, sau thời gian ”bỉ cực” đã hết lòng đi tìm những tấm lòng ân nghĩa ngày xưa để đền đáp một phần nào những ân tình, ân thì đền khắc ghi vào đá, nhưng oán thì để cho gió thổi bay đi. Những người như ”người em Nghệ Tĩnh” tên Hoa, như người lính Nhảy Dù tên Cho, vì thời thế đổi thay, hầu như tan biến theo dòng đời trăm ngả, làm cho lòng Huỳnh Công Ánh ray rứt không yên.

Bạn đọc sẽ theo dõi tập bút ký trong bối cảnh của những ngày miền Nam sụp đổ, để thấy số phận nghiệt ngã của người lính trên đường lui bình, cuộc lưu đày của những người lính miền Nam ra dất Bắc, những ngày tù tội ”chém tre đẵn gỗ trên ngàn”. Chúng ta cũng được biết rõ hơn, những hoạt cảnh trong nhà tù, giữa những người tốt kẻ xấu, sự ngay thơ gần như ngờ nghệch của những người tù, bên cạnh những đòn tuyên truyền, bộc lộ sự xảo trá của của một hệ thống cầm tù tinh vi của Việt Cộng.

Câu chuyện sau cuộc chiến Nam Bắc, hai người ở hai bên cuộc chiến gặp nhau trong hoàn cảnh đổi đời, câu chuyện về mối tình đầu của một cô gái miền Bắc lớn lên sau chiến tranh…

Nhưng trên hết, xuyên suốt tập hồi ký này, người ta sẽ tìm thấy một Huỳnh Công Ánh, can đảm, đầy nghị lực, bền bỉ đã vượt qua bao nhiêu khó khăn, từ câu chuyện vượt tù hy hữu, đến câu chuyện vượt biển gian nguy, và vượt qua khó khăn để tồn tại và thành công trên xứ người. Huỳnh Công Ánh luôn luôn chứng tỏ khả năng là người đi hàng đầu, một người lính can đảm, một người tù không thúc thủ, một người vượt biển anh hùng cũng như là một chiến sĩ thời bình của cộng đồng Việt Nam ở hải ngoại.

Bằng một tâm tình và qua một lối văn kể chuyện đơn giản, hồi ký của Huỳnh Công Ánh không có những đoạn văn hư cấu, không mang những dòng chữ tô vẽ cho cá nhân của mình. Chúng ta tìm thấy máu, nước mắt, hỗi gian truân kề cận cái chết, câu chuyện đoàn tụ và tan vỡ, sự thành công rực rỡ, nỗi thất bại tuyệt vọng dẫn con người xuống tận bùn đen, và vượt lên trên hết, là lòng tin về con người và cuộc đời còn quá đẹp.

Tôi tin rằng đây là cuốn hồi ký quý báu, nổi trội nhất trong 40 năm qua trong rừng sách vở ở hải ngoại, viết về cuộc đời của những người bỏ nước ra đi. Không chỉ có những câu chuyện kể về cuộc đời của tác giả, tập sách còn cho ta thấy bối cảnh của câu chuyện là một giai đoạn dài của đất nước, mà cả người già, lẫn trẻ, bên nay hoặc bên kia cần phải biết đến.

Tôi xin trân trọng giới thiệu tập hồi ký của Huỳnh Công Ánh ”Vượt Tù- Vượt Biển” (Hồi ký tập 2 – Nghiệt ngã Thăng Trầm Trên Đát Mỹ sẽ được phát hành sau) với anh em chiến hữu của một thời, với những cựu tù nhân chính trị, và tất cả những ai là người Việt lưu vong vì chế độ Cộng Sản, kể cả những người đang sống trong nước.

Huy Phương

Không có nhận xét nào: