Theo Thiên Can sau ẤT là BÍNH, còn Địa Chi sau TỴ là NGỌ. Tiễn đưa ẤT TỴ 乙巳 2025 chúng ta cùng đón mừng BÍNH NGỌ 丙午 2026. Chữ NGỌ 午 không có nghĩa là NGỰA, nhưng theo Tử Vi Đẩu Số năm NGỌ thuộc cầm tinh con NGỰA, mà Ngựa chữ Nho là Mã. Nên MÃ mới là NGỰA. MÃ 馬 thuộc dạng chữ Tượng hình trong "CHỮ NHO... DỄ HỌC" có diễn tiến hình thành chữ viết như sau :
Ta thấy :
Từ Giáp Cốt Văn đến Kim Văn là hình tượng của con ngựa được vẽ bằng những nét tượng trưng từ đầu cho đến chân, có cả lông bờm và cái đuôi. Đến Đại Triện và Tiểu Triện thì các nét đã diễn tiến gãy gọn và đơn giản hơn, kịp đến chữ Lệ đời Tần thì các nét được kéo thẳng ra thành hình chữ viết hẵn hoi, và chữ Khải là chữ chính quy theo thư pháp của bút lông, còn chữ Tống là chữ được gói ghém trong một hình vuông hay hình chữ Nhật, thường dùng để in ấn văn thư sách vở.
2026 Âm lịch là năm BÍNH NGỌ. Theo âm dương ngũ hành thì Nam phương Bính Đinh hỏa, mà Ngọ, ngôi thứ 7 trong Địa Chi cũng là hướng Nam; nên Bính Ngọ là con ngựa lửa ở Nam Thiên Môn, con ngựa có màu đỏ, như con ngựa Xích Thố của Quan Vân Trường cưởi trong Tam Quốc Chí diễn nghĩa vậy. Tháng Ngọ là tháng Năm Âm lịch trong năm, nên còn được gọi là Ngọ Nguyệt. Ngày Ngọ là ngày sau ngày Tỵ và trước ngày Mùi. Giờ Ngọ là từ 11 Am đến 01 Pm, là giữa trưa. Chính Ngọ là 12 giờ trưa đúng ! Đặc biệt, theo tập quán ngôn ngữ, ta có từ "Ngọ Dạ 午夜" để chỉ thời gian "Nửa đêm"(Tương đương như từ TÍ DẠ 子夜). Ngoài ra, ta còn gặp một số từ thông dụng như :
- Ngọ Môn 午門 là cửa chính quay mặt về hướng Nam của các thành quách cung điện ngày xưa. Trước mắt, du lịch Trung Quốc đi thăm Cố Cung là phải đi vào bằng cửa Ngọ Môn là cửa chính ở mặt Nam.
- Ngọ Thiện 午膳 là bửa ăn trưa bình thường của tất cả mọi người.
- Ngọ Trai 午齋 là bửa ăn chay duy nhất trong ngày vào buổi trưa của những người tu theo đạo Phật.
- Thượng Ngọ 上午 là Trước giờ ngọ, nên có nghĩa là Buổi Sáng.
- Hạ Ngọ 下午 là sau giờ ngọ, nên có nghĩa là Buổi Chiều.
- Đoan Ngọ 端午 còn gọi là Tiết Đoan Ngọ 端午節 hay Tết Đoan Ngọ, tức là ngày Mùng 5 tháng năm Âm lịch trong năm. Vì tháng Năm thuộc tháng Dương, mà Ngọ cũng thuộc Dương nên ngày Tết Đoan Ngọ còn được gọi là Tết Đoan Dương 端陽節. Nếu như Tết Nguyên Đán là lễ hội quan trọng nhất mở đầu cho một năm thì Tết Đoan Ngọ là ngày mở đầu cho một mùa vụ. Trong tâm thức của người Việt Nam ta, Tết Đoan Ngọ chỉ đứng thứ hai sau Tết Nguyên Đán, chẳng thế mà dân gian có câu: “Tết mồng 5, rằm tháng 7” nói lên ý nghĩa trọng đại của hai ngày lễ tết này. Như trong ca dao dân gian đã lưu truyền :
... Tháng tư đong đậu nấu chè,
Ăn tết Đoan Ngọ trở về tháng năm.
Tháng sáu buôn nhãn bán trăm,
Tháng bảy ngày Rằm xá tội vong nhân...
Còn theo truyền thuyết trong văn học cổ Trung Hoa thì...
KHUẤT NGUYÊN 屈原 (340-278 TCN) : Người nước Sở thời Chiến Quốc. Ông là tác giả hai bài thơ bất hủ là LY TAO 離騷 và SỞ TỪ 楚辭, nổi tiếng trong văn hóa Trung Hoa cổ đại, thể hiện tâm trạng buồn vì đất nước suy vong. Do can ngăn Sở Hoài Vương không được, lại bị gian thần hãm hại, ông đã uất ức gieo mình xuống sông Mịch La tự trầm ngày mùng 5 tháng 5. Dân chúng nơi đó đã mang thuyền đến giữa dòng sông để cố gắng cứu vớt nhưng không thành. Để cho các loại cá và linh hồn của các yêu ma quỷ quái không lại gần được thi thể của ông họ đã đánh trống và vẩy nước bằng các mái chèo của họ. Sau đó để tưởng nhớ, tiếc thương cho một người trung nghĩa, mỗi năm cứ đến ngày mùng 5 tháng 5, dân Trung Hoa xưa lại làm bánh ú gói nhân thịt mỡ, quấn chỉ ngũ sắc bên ngoài (ý làm cho cá sợ, khỏi đớp mất) rồi bơi thuyền ra giữa sông, ném bánh xuống để cúng tế Khuất Nguyên. Do đó, hình thành hai tập tục trong ngày Tết Đoan Ngọ cho đến hiên nay là : Đua thuyền rồng và Ăn bánh ú.
Trong văn học, tác phẩm LY TAO 離騷 của Khuất Nguyên hình thành những từ như : Tao Nhân Mặc Khách, Tao Đàn ... Trong thơ ca Trung Hoa còn ghi nhận SỞ TỪ 楚辭 là nguồn gốc của thơ Thất ngôn sau nầy. Ta cùng đọc bài thơ Thất ngôn Tứ tuyệt có liên quan đến Tết Đoan Ngọ ở đời Đường sau đây sẽ rõ :
同州端午 ĐỒNG CHÂU ĐOAN NGỌ
鶴髮垂肩尺許長, Hạc phát thùy kiên xích hứa trường,
離家三十五端陽。 Ly gia tam thập ngũ Đoan Dương.
兒童見說深驚訝, Nhi đồng kiến thuyết thâm kinh nhạ,
卻問何方是故鄉。 Khước vấn hà phương thị cố hương ?
殷堯藩 Ân Nghiêu Phồn
Có nghĩa :
Tóc bạc qúa vai cả thước thường,
Xa nhà ba mươi lăm Đoan Dương.
Trẻ con nghe nói đều kinh ngạc,
Cùng hỏi nơi nào là cố hương ?
Tết giữa năm cũng khiến cho người lữ khách nhớ nhà như là Tết Nguyên Đán vậy !
Trở lại với Bính Ngọ 2026 có cầm tinh là con Ngựa. Ngựa là con vật được thuần hóa rất sớm song song với đời sống con người, và là con vật đứng đầu trong Lục Súc (Sáu con vật được nuôi dưỡng ở trong nhà) là Ngựa, trâu, dê, gà, heo, chó. Đầu tiên, ngựa dùng để kéo cày, sau này mới chuyển qua kéo xe và đắc dụng trong công việc nầy cho đến thời cận đại khi máy hơi nước được phát minh. Mặc dù máy móc đã thay thế cho sức ngựa, nhưng vẫn không thoát khỏi từ MÃ LỰC 馬力, dùng sức ngựa để đo độ mạnh yếu của máy móc, giới bình dân thì gọi thẳng bằng một chữ NGỰA mà thôi :"Cái máy nầy "2 Ngựa" đó bà con !". Trong chương trình cổ văn của lớp Đệ Thất (lớp 6) ngày xưa có tác phẩm Lục Súc Tranh Công, ta hãy nghe con Ngựa kể công sau đây...
... Tao đã từng, đi quán, về quê,
Đã ghe trận đánh nam, dẹp bắc.
Mỏi gối nưng phò xã tắc,
Mòn lưng cúi đội vương công.
Ngày ngày chầu chực sân rồng
Bữa bữa dựa kề loan giá....
Ngựa lại rất được trọng dụng và đắc dụng trong quân đội ngày xưa, như con ngựa đã khoe ở trên :"Đã ghe trận đánh Nam dẹp Bắc".... Từ ngàn xưa, bất cứ là quân đội của nước nào, Âu cũng như Á đều có đội Kỵ Binh 騎兵, nhất là đội Thiết Kỵ 鐵騎 nổi tiếng của Mông Cổ, không những chỉ dọc ngang trên các thảo nguyên Châu Á, mà còn tung hoành lấn chiếm sang cả Châu Âu. Sống trên mình ngựa, đánh giặc trên mình ngựa, xưng hùng xưng bá trên mình ngựa, rồi... cũng chết trên mình ngựa luôn, nên ta mới có thành ngữ "Da Ngựa Bọc Thây" để chỉ những chiến binh tử trận !
Mới nghe qua, thì "Da Ngựa Bọc Thây" Nôm na như tiếng Việt thuần túy, nhưng khi xét đến xuất xứ thì NÓ lại rất Hán. Vì đó là câu "MÃ CÁCH QUẢ THI 馬革裹屍", là lời nói của một danh tướng đời Đông Hán là Mã Viện 馬援 khi trả lời vua Hán Quang Vũ về ý chí làm trai là : "Làm trai phải chết ở biên cương, lấy da ngựa để bọc thây, chớ sao có thể chết ở trên giường với vợ con được chứ ?!". Qua câu nói nầy, ta thấy con ngựa càng gần gũi thân thiết và gắn bó với con người hơn, khi sống thì cùng với con người "đánh Nam dẹp Bắc", khi chết, thịt ngựa là lương khô đở đói cho chiến binh, da ngựa thì để bọc thây khi các chiến binh tử trận. Quả là một con vật gắn bó và cùng sống chết với con người đến cùng ! Trong Chinh Phụ Ngâm Khúc của Hồng Hà nữ sĩ Đoàn Thị Điểm diễn Nôm có câu :
Chí làm trai dặm nghìn DA NGỰA,
Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao !
Còn một thành ngữ nghe rất Việt mà lại có gốc Hoa nữa là câu :"Ngựa Quen Đường Cũ", xuất phát từ thành ngữ gốc "LÃO MÃ THỨC ĐỒ 老馬識途" theo điển tích sau đây :
Tề Hoàn Công đem binh đi giúp nước Yên đánh bại được quân Sơn Nhung, trên đường về lại bị dẫn dụ lạc vào sa mạc Hàn Hải với gió cát mịt mù không nước uống, lạnh lẽo buốt giá không biết đường ra, quân sĩ kiệt quệ chết chốc rất nhiều. Tướng Quốc Quản Trọng mới tâu với Tề Hoàn Công về đặc tính nhận được đường về của loài Ngựa, bèn chọn một số ngựa già, thả cho chúng tự tìm lối ra, rồi ra lệnh cho toàn quân đi theo sau. Quả nhiên sau vài lần quanh quẹo đã ra khỏi được sa mạc hiểm ác kia. Nên...
"Lão Mã Thức Đồ " là thành ngữ chỉ những con ngựa già có khả năng tìm về đường cũ đã đi qua, dùng để chỉ những người già dặn có kiến thức, có kinh nghiệm sống, có thể hướng dẫn ta đi những con đường đúng đắn. Còn "Ngựa Quen Đường Cũ" của ta thì chỉ những người đã làm việc xấu việc sai, dù cho có cải hóa sửa đổi lại rồi, cũng rất dễ dàng đi lại con đường sai lầm cũ, tật xấu khó chừa khó bỏ !
Da Ngựa Bọc Thây Ngựa Quen Đường Cũ
Còn một thành ngữ mà cả Hoa cả Việt đều sử dụng như nhau, ý nghĩa như nhau và giữ nguyên âm Hán Việt, đó là thành ngữ "THIÊN QUÂN VẠN MÃ 千軍萬馬". Ta không có dịch "Thiên Quân Vạn Mã" là "Ngàn lính muôn ngựa", mà sử dụng thẳng thành ngữ "Thiên Quân Vạn Mã" để chỉ lực lượng quân đội hùng hậu với một khí thế to lớn để áp đão đối phương. Tương tự như "Thiên Quân Vạn Mã", ta còn có thành ngữ "CHIÊU BINH MÃI MÃ 招兵買馬" là chiêu mộ binh lính và mua thêm ngựa, thêm khí giới thành lập lực lượng quân đội để làm việc lớn .
Ngoài 2 thành ngữ nêu trên, ta còn có rất nhiều thành ngữ có liên quan đến Ngựa được sử dụng thẳng trong văn chương tiếng Việt mà khỏi cần phải diễn Nôm gì cả. Ví dụ như :
Mã đáo thành công. 馬到成功.
Đơn thương độc mã. 單槍獨馬.
Ngưu đầu mã diện. 牛頭馬面.
Thanh mai trúc mã. 青梅竹馬.
Trường đồ tri mã lực. 長途知馬力.
Ngưu tầm ngưu, mã tầm mã 牛尋牛,馬尋馬.
Nhất ngôn ký xuất, Tứ mã nan truy... 一言既出,駟馬難追...
Sau đây là một thành ngữ về ngựa nữa mà ta chỉ cần nói trại đi có một từ thôi, đó là thành ngữ "TÁI ÔNG THẤT MÃ 塞翁失馬", ta nói là "TÁI ÔNG MẤT NGỰA"! Theo chương Nhân Gian Huấn của sách Hoài Nam Tử《淮南子·人間訓》 có kể lại câu truyện như sau...
TÁI ÔNG là Ông già ở vùng biên tái, mà cũng có thể là Ông già họ TÁI, rất chuyên về ngựa. Một hôm, con ngựa quí nhà ông bỗng nhiên chạy mất. Hàng xóm mọi người cùng đến chia buồn. Ông cười bảo : Đây chưa chắc là việc không vui. Mấy hôm sau, con ngựa của ông trở về, lại dẫn theo một con ngựa quí khác. Mọi người hay tin lại đến chúc mừng. Ông bảo, đây chưa chắc là việc đáng mừng. Quả nhiên vài hôm sau đó, con ông tập cưởi con ngựa đó, bị nó quăng cho té què chân. Mọi người lại cùng đến an ủi, chia buồn. Ông lại bảo : Đây vị tất đã là chuyện buồn. Năm sau, giặc đánh vào vùng biên tái, tất cả thanh niên đều phải lên đường nhập ngũ tòng chinh, chỉ có con trai ông vì bị què chân nên được ở lại, khỏi phải ra chiến trường...
Đây là câu truyện Ngụ ngôn trong sách Hoài Nam Tử đời Tây Hán, cho ta thấy chuyện đời may rủi vô chừng, họa phước khó mà lường trước được. Có lắm chuyện tưởng như rủi mà lại may, tưởng như phước mà lại là họa... cho nên ta phải để lòng rộng mở, khoáng đạt, bình tĩnh mà ứng phó những tình huống khôn lường trước được nầy.
Thiên Quân Vạn Mã Chiêu Binh Mãi Mã Tái Ông Thất Mã
Năm Trinh Nguyên thứ 12 (796), Thi Tù Mạnh Giao đã 46 tuổi, phụng mệnh của mẹ đi ứng thi lần thứ ba, và lần nầy thì ông đậu ngay Tiến Sĩ cập đệ. Nỗi mừng biết lấy chi cân, ông vội vả về ngay quê nhà để báo tin vui với mẹ. Và cũng trong ngày vui trọng đại có hơi muộn màng nầy, ông đã làm một bài thơ Thất ngôn tứ tuyệt "Đăng Khoa Hậu 登科後" để đời như sau :
昔日齷齪不足夸, Tích nhật ác xúc bất túc khoa,
今朝放蕩思無涯。 Kim triêu phóng đãng tứ vô nha.
春風得意馬蹄疾, Xuân phong đắc ý mã đề tật,
一日看盡長安花。 Nhất nhật khán tận Trường An hoa !
Có nghĩa :
Ngày xưa hèn mọn chẳng cần bàn,
Phóng đảng hôm nay tứ ngút ngàn.
Đắc ý gió xuân mau vó ngựa,
Một ngày ngắm hết hoa Trường An !
Bài thơ đắc ý nêu trên đã hình thành hai thành ngữ để đời là XUÂN PHONG ĐẮC Ý 春風得意 để chỉ những việc ĐẮC Ý trong đời sống hàng ngày như : Thi đậu, làm ăn thành đạt, trúng số, có được người yêu, kết hôn... và TẨU MÃ QUAN HOA 走馬觀花, ta nói là CỞI NGỰA XEM HOA. Thành ngữ nầy lúc ban đầu dùng để chỉ gặp được việc xứng ý toại lòng và tâm lý vui vẻ, nhưng hiện nay thường dùng để chỉ việc gì đó chỉ làm hoa loa, lấy có, làm một cách hời hợt cho xong việc ... "Cởi Ngựa Xem Hoa" thì làm sao mà xem cho kỹ được !
Thành ngữ LONG MÃ TINH THẦN 龍馬精神 : Có nghĩa linh hoạt và uyển chuyển như Rồng, nhanh nhẹn và xông xáo như Ngựa. Hai con vật : Một Huyền thoại, một thực tế tượng trưng cho sự hoạt động mạnh mẽ liên tục không ngừng nghỉ, không chồn chân, không lười biếng. Đó là cái TINH THẦN của LONG và MÃ. Các công ty, công xưởng, các hiệu buôn... khi khai trương hoặc khi nghỉ Lễ, nghỉ Tết vào thường hay dán câu "Long Mã Tinh Thần 龍馬精神" ở nơi làm việc và sản xuất để nhắc nhở nhân viên, công nhân phải làm việc lại với cái tinh thần xông xáo như rồng như ngựa vậy !
CỞI NGỰA XEM HOA LONG MÃ TINH THẦN
Trong CỔ THI THẬP CỬU THỦ《古诗十九首》Mười chín bài thơ cổ đời Đông Hán, phản ánh xã hội loạn lạc trước những năm Kiến An(196—220)hình bóng của người cô phụ vọng phu, của những lãng tử giang hồ lưu lạc tha phương luôn nhớ về quê hương cố thổ. Trong bài thơ thứ nhất có một vế thơ như sau :
道路阻且長, Đạo lộ trở thả trường,
會面安可知? Hội diện an khả tri ?
胡馬依北風, Hồ mã y bắc phong,
越鳥巢南枝。 Việt điểu sào nam chi.
Có nghĩa :
- Đường đi cách trở và xa diệu vợi,
- Gặp mặt nhau biết đến thuở nào đây ? Như...
- Ngựa đất Hồ luôn nương theo gió bắc (gió bấc), còn...
- Chim đất Việt thì cũng luôn chọn cành hướng nam mà làm tổ.
Đường dài cách trở xa vời,
Gặp nhau biết đến thuở đời nào đây ?
Ngựa Hồ nương gió bấc hây,
Chim Việt làm tổ cành gầy phía nam !
Bài thơ trên hình thành thành ngữ "NGỰA HỒ CHIM VIỆT" để chỉ nỗi lòng tưởng nhớ quê hương của những người trôi nổi tha phương dị quốc. Trong ca dao Việt Nam ta cũng có câu :
Bây giờ kẻ Bắc người Nam,
Ngựa Hồ Chim Việt biết làm sao đây ?!
Còn trong Hoa Tiên Truyện của Nguyễn Huy Tự và Nguyễn Thiện thì có câu :
Người nhìn kẻ lại trông theo,
Ngựa Hồ Chim Việt nhiều điều nhớ nhau !
NGỰA HỒ CHIM VIỆT
Chữ MÃ 馬 còn là một HỌ trong Bách Gia Tính 百家姓 (Trăm Họ) như ta đã biết danh tướng MÃ Viện 馬援 đời Hán; Mã Văn Tài 馬文才 là vị hôn phu của Chúc Anh Đài... Trong truyện tình "Lương Sơn Bá và Chúc Anh Đài", một trong "Tứ đại nhân gian truyền thuyết" của Trung Hoa. Trong Truyện Kiều của cụ Nguyễn Du khi Thúy Kiều quyết định bán mình chuộc tội cho cha, thì "Gần miền có một mụ nào, Đưa người viễn khách tìm vào vấn danh ":
Hỏi tên rằng : Mã Giám Sinh,
Hỏi quê rằng : huyện Lâm Thanh cũng gần.
... và một nàng họ Mã nữa là :
Bày vay có ả Mã Kiều,
Xót nàng nên cũng đánh liều chịu đoan.
Điểm lại tất cả những câu thơ có liên quan đến NGỰA trong Truyện Kiều, đầu tiên là trong Tiết Thanh Minh với "Cỏ non xanh rợn châh trời" và...
Dập dìu tài tử giai nhân,
NGỰA XE NHƯ NƯỚC, áo quần như nêm.
Thành ngữ NGỰA XE NHƯ NƯỚC có xuất xứ từ Hậu Hán Thư trong câu :"Xa như lưu thủy, mã như du long 車如流水,馬如游龍" (Xe như nước chảy, Ngựa tợ rồng bơi). Chỉ xe ngựa qua lại đông đúc xôn xao huyên náo, chỉ sự náo nhiệt của nơi phồn hoa đô hội.
Kế đến là sự xuất hiện một cách hào hoa phong nhã của Kim Trọng với...
TUYẾT in sắc NGỰA câu dòn,
Cỏ pha màu áo nhuộm non da trời.
Ngựa trắng như tuyết là Bạch Mã, chỉ màu lông của Ngựa, chớ không phải là một loại ngựa, nhưng nếu ta thêm vào giữa một chữ thì nó sẽ trở thành một loại ngựa quí, đó chính là BẠCH LONG MÃ 白龍馬, con ngựa huyền thoại do Tiểu Bạch Long là Tam Thái Tử của Tây Hải Long Vương chuyển hóa mà thành, đã chở Đường Tam Tạng đi Tây Phương thỉnh kinh suốt 13 năm trời trong tác phẩm nổi tiếng TÂY DU KÝ của Ngô Thừa Ân.
Ngựa Tiểu Bạch Long với Bạch Mã Hoàng Tử
Ngựa trắng còn là Bạch Mã của Bạch Mã Hoàng Tử với nàng Công Chúa ngủ trong rừng. Đông Tây đã gặp nhau ở con NGỰA TRẮNG nầy. Chàng Kim chính là Bạch Mã Hoàng Tử của nàng Kiều đó vậy ! Sau khi thương cảm với cuộc đời bạc mệnh của Đạm Tiên do Vương Quan kể lại với :
Buồng không lặng ngắt như tờ,
Dấu XE NGỰA đã rêu lờ mờ xanh... thì...
... đến cuối ngày Thúy Kiều vẫn phải chia tay với Kim Trọng để cho...
Bóng chiều như giục cơn buồn,
Khách đà lên NGỰA người còn ghé theo...
Rồi khi "Thề hoa chưa ráo chén vàng" thì chàng Kim lại phải ...
Buộc YÊN quảy gánh vội vàng,
Mối sầu xẻ nửa, bước đàng chia hai...
để đến Liêu Dương hộ tang cho chú.
Đến khi gia biến của Thúy Kiều, ta lại thấy...
Người nách thước, kẻ tay đao,
ĐẦU TRÂU MẶT NGỰA ào ào như sôi.
ĐẦU TRÂU MẶT NGỰA là thành ngữ phát xuất từ Phật giáo với Địa Ngục Luân Hồi, với Đầu Trâu Mặt Ngựa là Câu hồn Sứ giả chuyên bắt hồn và làm công việc hành hình những người có tội và gian ác. Sau dùng rộng ra để chỉ những bọn côn đồ, tay sai ác ôn chuyên làm hại và hành hung người khác. Thành ngữ nầy nguyên gốc chữ Nho là NGƯU ĐẦU MÃ DIỆN 牛頭馬面.
Theo Phật giáo lúc đầu chỉ có Ngưu Đầu, khi truyền vào Trung Hoa mới phát sinh thêm một Mã Diện nữa cho đối xứng với cách nói của người Hoa. Theo "Thiết Thành Nê Lê Kinh 鐵城泥犁經" : A BÀNG 阿傍 khi là người vì không có hiếu với cha mẹ, cho nên khi chết mới bị đày phải đeo cái đầu trâu, làm công việc tuần tra và bắt hồn những người tới số chết. Còn có tài liệu cho rằng : Mặt Ngựa là Mã Diện La Sát, nhưng trong Phật giáo chính tông Ấn Độ thì không có nói đến, chỉ trong Phật giáo Mật Tông thì có nhắc đến một MÃ DIỆN MINH VƯƠNG có mặt ngựa, nhưng đây lại là một Bồ Tát, chứ không phải là Sai Nha.
NGƯU ĐẦU MÃ DIỆN 牛頭馬面
Để diễn tả cảnh chia tay não lòng của Thúy Kiều, khi phải đau lòng mà đi theo Mã Giám Sinh, cụ Nguyễn Du đã viết :
Đoạn trường thay lúc phân kì,
VÓ CÂU khấp khểnh bánh xe gập ghềnh.
... và :
Đùng đùng gió giục mây vần,
Một xe trong cỏi hồng trần như bay !
VÓ CÂU hay VÓ NGỰA là chỉ BƯỚC CHÂN của NGỰA. VÓ còn dùng để chỉ CHÂN NGỰA, như trong câu : Con ngựa bị ngã chổng BỐN VÓ lên trời !. Còn...
CÂU 駒 : là Ngựa Non, Ngựa Trẻ, Ngựa Khỏe, Ngựa Mạnh, Ngựa Giỏi. Thêm vào chữ LONG, ta có từ LONG CÂU 龍駒, còn được đọc trại thành LONG CU, là loại ngựa hay được dùng cho Hoàng tộc, cũng dùng để chỉ loại ngựa mạnh mẽ như rồng, và còn được gọi là LONG MÃ, như BẠCH LONG MÃ, con ngựa của Thường Sơn Triệu Tử Long cởi trong Tam Quốc diễn nghĩa, đã xông xáo trong 80 vạn quân Tào ở Trường Bản cứu ấu chúa A Đẩu đưa về cho Lưu Bị.
CÂU là Ngựa, nên ngựa quí được gọi là LƯƠNG CÂU 良駒 hoặc BẢO CÂU 寶駒. Như Hãn Huyết Bảo Câu 汗血寶駒, con ngựa có mồ hôi đỏ như huyết tương, có thể chở cả Hoàng Dung và Quách Tĩnh trong truyện Anh Hùng Xạ Điêu của Kim Dung, mà một ngày còn đi được cả ngàn dặm. CÂU là ngựa chạy nhanh, nên ta có thành ngữ "Bóng CÂU qua cửa sổ" để chỉ thời gian vô tình thoáng qua rất nhanh không chờ đợi ai cả. Thành ngữ nầy phát xuất từ thành ngữ gốc là "LƯƠNG CÂU QUÁ KÍCH 良駒過隙" hoặc BẠCH CÂU QUÁ KÍCH 白駒過隙, có nghĩa :"Ngựa giỏi màu trắng thoáng qua KHE cửa "diễn tả còn nhanh hơn là qua "Cửa Sổ" của ta nữa ! Ta gặp lại từ VÓ CÂU khi Hoạn Thư khuyên Thúc Sinh về Lâm Chuy để viếng Thúc Ông, thì chàng Thúc...
Được lời như cởi tấc son,
VÓ CÂU rung rủi nước non quê người.
và khi...
VÓ CÂU vừa gióng dặm trường,
Xe hương nàng cũng thuận đường qui ninh.
..."QUY NINH 歸寧" là về nhà mẹ để "mét má" với "Nỗi chàng ở bạc, nỗi mình chịu đen !"...
Và khi Thúy Kiều hỏi về biện pháp mà Sở Khanh sẽ dùng để giải cứu cho mình, thì được chàng họ Sở trả lời :
Rằng ta có NGỰA TRUY PHONG,
Có tên dưới trướng vốn dòng kiện nhi.
TRUY 追 là Rựơt đuổi, PHONG 風 là Gió. Ngựa TRUY PHONG 追風 là Ngựa rượt đuổi theo gió, ý là Ngựa chạy nhanh như gió, nên tất cả ngựa chạy nhanh đều có thể gọi được là Ngựa Truy Phong cả. Sở Khanh khoe có ngựa chạy nhanh như gió để... rủ Thúy Kiều bỏ trốn ! "Ba mươi sáu chước chước nào là hơn ?". Cho nên mới
Cùng nhau lẻn bước xuống lầu,
Song song NGỰA trước NGỰA sau một đoàn.
Nhưng... TRUY PHONG MÃ 追風馬 cũng là tên con ngựa của Ngũ Vân Triệu 伍雲召 (thường bị đọc trại đi thành Ngũ Vân THIỆU) trong truyện THUYẾT ĐƯỜNG Diễn Nghĩa. Con ngựa chạy nhanh như gió giống như tính cách của chủ nhân nó, làm việc gì cũng mau mắn. TRUY PHONG MÃ nầy ngày có thể đi ngàn dặm, đêm có thể đi thêm 800 dặm đường nữa !
Ngũ Vân Triệu và Ngựa Truy Phong
Vì là phương tiện giao thông, nên hình ảnh con ngựa còn là hình tượng của sự chia tay, khi Thúy Kiều khuyên Thúc Sinh về thăm Hoạn Thư, cụ Nguyễn Du đã viết :
Người lên NGỰA, kẻ chia bào,
Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san.
và là...
phương tiện hành hung đã giúp cho Khuyển Ưng bắt cóc Thúy Kiều :
Vực nàng lên NGỰA tức thì,
Buồng đào viện sách bốn bề lửa dong.
và cũng là...
hình ảnh hào hùng, dứt bỏ nhi nữ thường tình của Từ Hải, người đi mưu đồ việc lớn :
Trông vời trời bể mênh mang,
Thanh gươm yên NGỰA lên đàng thẳng dong.
...để đưa đến một kết quả có hậu là...
hình ảnh của sự long trọng tiếp đón Thúy Kiều khi Từ Hải :
Kéo cờ lũy, phát súng thành,
Từ Công ra NGỰA thân nghinh cửa ngoài.
... để rước nàng Kiều về dinh...
Với "Râu hùm hàm én mày ngài" ta thấy hình tượng của Từ Hải uy vũ như là hình tượng của một Trương Phi, nên... con Ngựa mà Từ Hải cởi chắc cũng phải thuộc loại NGỰA Ô TRUY như của Trương Phi cởi vậy. Ô TRUY MÃ 烏追馬 là loại ngựa có bộ lông đen tuyền, chạy nhanh như điện xẹt, là một trong những loại ngựa quí hiếm. Trương Phi cởi ngựa Ô Truy đứng chặn ở cầu Trường Bản, hét to một tiếng làm cho quân của Tào Tháo thất kinh thoái lui không dám qua cầu...
Nhắc đến Ô TRUY MÃ của Trương Phi lại làm cho ta nhớ đến XÍCH THỐ MÃ 赤兔馬 của Quan Vũ (tức Quan Công, Quan Vân Trường). XÍCH 赤 là đỏ thẩm, THỐ 兔 là Con Thỏ. Ngựa XÍCH THỐ là loại ngựa có màu đỏ thẩm như một loại thỏ vùng nhiệt đới, là một trong 4 loại ngựa quí xưa nay, là một nhánh của Hãn Huyết Bảo Mã. Nhân gian thường truyền tụng câu " Nhân trung Lữ Bố, Mã trung Xích Thố 人中呂布,馬中赤兔". Có nghĩa : "Trong thế giới loài người thì có Lữ Bố, Trong thế giới loài ngựa thì có Xích Thố". Ý muốn nói : Là người thì phải oai phong vũ dũng như là Lữ Bố vậy, còn là ngựa thì phải mạnh mẽ dẽo dai như là ngựa Xích Thố vậy. Cho thấy Xích Thố là một loại ngựa quí biết chừng nào ! Tương truyền...
XíCH THỐ là loại ngựa do giao dịch với Tây Phương qua "Con đường Tơ lụa" mà có được. Khi Đổng Trác chuyên quyền nhà Hán đã chiếm hữu con ngựa nầy. Trác lại tặng lại ngựa nầy cho Lữ Bố khi Bố giết Đinh Nguyên để về với Trác. Sau Bố bị Tào Tháo giết chết vì thua trận ở Từ Châu, Tháo bèn đem ngựa nầy tặng lại cho Quan Vũ, muốn Vũ theo về với mình, nhưng không được. Cuối cùng Quan Vũ bị Đô Đốc Đông Ngô là Lữ Mông đánh bại, thua và chết ở Mạch Thành. Ngựa XÍCH THỐ mất chủ lần nầy, nhịn ăn và chết luôn.
QUAN VŨ 關羽 được vua Hán phong là Hớn Thọ Đình Hầu, khi chết đi được người đời lập miếu tôn thờ tôn xưng là QUAN THÁNH ĐẾ QUÂN 關聖帝君, thường được gọi tắt là QUAN CÔNG 關公. Biểu tượng của Quan Công là thanh Thanh Long Yễm Nguyệt Đao và con Ngựa Xích Thố nầy.
Như ta đã biết, Triệu Vân, Triệu Tử Long cởi con Bạch Long Mã, Trương Phi cởi Ngựa Ô Truy , Quan Công cởi ngựa Xích Thố, còn Lưu Bị thì cởi Ngựa Đích Lư 的盧馬.
ĐÍCH LƯ 的盧 là loại ngựa có đốm trắng phía trước trán như để tang, mọi người đều cho là ngựa sát chủ, nhưng khi Lưu Bị cởi, thì lại được nó cứu mạng cho. Khi bị Thái Mạo và Bằng Việt rượt đuổi, Đích Lư bị sa xuống Đàn Khê ở phía tây ngoài thành Tương Dương, Lưu Bị đã than rằng : "Hôm nay nguy mất rồi, Đích Lư ơi, hãy cố gắng lên !". Con ngựa bèn cong bốn vó búng mạnh lên cao 3 trượng vượt qua khỏi dòng Đàn Khê, cứu Lưu Bị thoát nạn. Từ đó, Đích Lư cũng được xem là một loại ngựa quí, một loại Thiên lý mã như những Thiên lý mã quí hiếm khác.
Bạch Long Mã Xích Thố Mã Ô Truy Mã Đích Lư Mã
Cuối Truyện Kiều được kết thúc bằng một thành ngữ có từ Mã rất có hậu, đó là khi Kim Trọng thi đậu làm quan đã nhớ đến Thúy Kiều :
Ấy ai dặn ngọc thề vàng,
Bây giờ KIM MÃ NGỌC ĐƯỜNG với ai ?
KIM MÃ NGỌC ĐƯỜNG 金馬玉堂, thành ngữ có xuất xứ từ đời Hán. KIM MÃ là KIM MÃ MÔN 金馬門, là Cửa Kim Mã, nơi mà các Học Sĩ đợi chiếu chỉ của nhà vua ban xuống. NGỌC ĐƯỜNG là NGỌC ĐƯỜNG ĐIỆN 玉堂殿, nơi nghị sự của các Học Sĩ, là Hàn Lâm Viện của các Hàn Lâm Học Sĩ.
Thành ngữ "Kim Mã Ngọc Đường" dùng để chỉ sự đổ đạt vinh hiển làm quan, đắc ý vì công thành danh toại.
Một chữ NGỰA nữa được sử dụng ở cuối Truyện Kiều cũng rất có hậu, đó là...
Khi Kim Trọng và Vương Quan cùng được bổ nhiệm về nhiệm sở mới :
Sắm sanh xe NGỰA rộn ràng,
Hai nhà cùng thuận một đàng phó quan.
... để rồi khi tìm lại được Thúy Kiều và một đoạn kết Đại Đoàn Viên hoàn toàn có hậu "Hết cơn bỉ cực đến hồi thái lai" là :
Một đoàn về đến quan nha,
Đoàn viên lại mở tiệc hoa vui vầy !
Còn một thành ngữ có liên quan đến MÃ được cụ Nguyễn Du tận dụng đến bốn lần. Đó chính là điển tích THANH MAI TRÚC MÃ 青梅竹馬 có xuất xứ từ bài thơ Ngũ Ngôn trường thiên nổi tiếng "Trường Can Hành 長干行" của Thi Tiên LÝ BẠCH đời Đường. Bài thơ tả lại đôi vợ chồng trẻ từ nhỏ ở chung xóm Trường Can, cùng chơi đùa vô tư với nhau, trong đó có 2 câu :
Lang kị TRÚC MÃ lai, 郎騎竹馬來,
Nhiễu sàng lộng THANH MAI. 繞床弄青梅。
Có nghĩa :
- Chàng cởi ngựa tre chạy đến...
- Vòng quanh miệng giếng mà ghẹo cành mai xanh.
NGỰA TRE chàng cởi đến gần,
Vòng quanh bờ giếng ghẹo cành MAI XANH.
Hình ảnh của đôi trai gái vô tư hồn nhiên cùng chơi đùa và quen nhau từ tấm bé, rồi lớn lên thành chồng thành vợ với nhau, cho nên thành ngữ "Thanh Mai Trúc Mã" dùng để chỉ những cặp vợ chồng đã quen biết nhau từ thuở nhỏ. Sau này dùng rộng ra để chỉ những người yêu nhau từ trước lâu rồi, sau đó mới lấy nhau. Từ đó, thành ngữ THANH MAI TRÚC MÃ còn được nói gọn lại thành TRÚC MAI hay MAI TRÚC để chỉ tình nghĩa vợ chồng mà cụ Nguyễn Du đã sử dụng đến 4 lần : 2 lần với Kim Trọng và 2 lần với Thúc Sinh trong Truyện Kiều như sau ...
Lần thứ nhất : Khi Thúy Kiều bán mình chuộc tội cho cha, đã nhắn lại với Kim Trọng rằng :
Tái sinh chưa dứt hương thề,
Làm thân trâu ngựa đền nghì TRÚC MAI.
Lần thứ hai : Trước đêm phải lên đường theo Mã Giám Sinh, Thúy Kiều đã trối lại với Thúy Vân là :
Hồn còn mang nặng lời thề,
Nát thân bồ liễu đền nghì TRÚC MAI.
Lần thứ ba : Dùng để tả lúc Thúc Sinh chuộc Thúy Kiều ra khỏi lầu xanh là :
Một nhà sum họp TRÚC MAI,
Càng sâu nghĩa bể, càng dài tình sông.
Lần thứ tư : là khi Thúc Sinh từ nhà Hoạn Thư trở lại tìm Thúy Kiều :
Tưởng rằng MAI TRÚC lại vầy,
Ai hay vĩnh quyết là ngày đưa nhau.....
THANH MAI TRÚC MÃ kiểu Châu Á và kiểu Châu Âu.
Thành ngữ "THANH MAI TRÚC MÃ 青梅竹馬" được sử dụng rộng rãi và rất phổ biến trong văn chương Việt Hoa, mãi cho đến hiện nay, trong đàm thoại thông thường người Hoa vẫn còn sử dụng thành ngữ nầy :"Hai đứa nó là Thanh mai Trúc mã với nhau đó !" để chỉ hai "Cô Cậu" cùng lớn lên trong một xóm, một làng hay cùng học chung một trường với nhau từ tấm bé ! Thành ngữ nầy cũng đã được phổ thành ca khúc rất hay. Mời bấm vào link sau đây để nghe nhạc :
Trở lại với năm NGỌ, năm Ngọ làm cho ta nhớ lại cô nữ sinh tên Hoàng Thị NGỌ trong bài thơ "Ngày Xưa Hoàng Thị" của nhà thơ Phạm Thiên Thư với các vế thơ :
... Em tan trường về
Cuối đường mây đỏ
Anh tìm theo NGỌ
Dáng lau lách buồn
... Mười năm rồi NGỌ
Tình cờ qua đây
Cây xưa vẫn gầy
Phơi nghiêng ráng đỏ...
... và lời phổ nhạc của nhạc sĩ Phạm Duy như cứ vang vang đâu đây :
... Em tan trường về
Anh theo NGỌ về
Chân anh nặng nề
Lòng anh nức nở
Mai vào lớp học
Anh còn ngẩn ngơ... ngẩn ngơ...
Bấm vào link dưới đây để nghe ca khúc "Ngày Xưa Hoàng Thị" :
Theo Tử Vi Đẩu Số thì "Dần Ngọ Tuất Tam hạp". Trong đời sống thực tế NGỌ và TUẤT tức CHÓ và NGỰA thì còn hợp với nhau được, vì đều là những con vật trong Lục Súc được nuôi nấng trong gia đình và gần gũi với con người. Hai con vật nầy mà gặp DẦN là Ông Cọp thì sợ và run đến không còn chạy nổi nữa thì làm sao mà HẠP cho được ! Còn TÝ,NGỌ MẸO, DẬU là "Tứ Hành Xung" tức Chuột, Ngựa, Mèo, Gà mỗi con giáp cách nhau 3 năm, nên trong dân gian ngày xưa và mãi cho đến hiện nay cũng vậy, cha mẹ muốn cưới vợ cho con, trai gái muốn kết hôn với nhau thì kỵ lớn nhỏ nhau 3 tuổi, 6 tuổi hoặc 9 tuổi, vì chắc chắn sẽ lọt vào trong TỨ HÀNH XUNG mà thôi, kể cả Dần Thân Tỵ Hợi và Thìn Tuất Sửu Mùi cũng vậy. Mặc dù là mê tín dị đoan, nhưng là tập tục truyền thống lâu đời của xã hội, nếu không làm theo thì rất dễ bị "đổ thừa" khi đời sống hôn nhân sau nầy gặp trắc trở, nên mọi người vẫn phải chấp hành làm theo để cho "Vui Vẻ Cả Làng" và để cho Chú Rể được thuận lợi suông sẻ khi muốn... "đưa Nàng về dinh"!.
Mời bấm vào link dưới đây để nghe bài hát vui tươi bất hủ của Dân ca Nam bộ LÝ NGỰA Ô :
Mong rằng TẾT BÍNH NGỌ 2026 nầy tất cả mọi người sẽ... VUI NHƯ TẾT khi "Mã đề dương cước anh hùng tận 馬蹄羊腳英雄盡" Những "Anh hùng" hay "Anh Khùng" gây nên chiến tranh chết chóc loạn lạc sẽ bị tận diệt như là Sấm Trạng Trình đã nói, để cho cộng đồng Thế Giới cùng AN HƯỞNG THÁI BÌNH.
Mong lắm thay !
杜紹德
Đỗ Chiêu Đức
* Cảm đề năm NGỰA :
BÍNH NGỌ 2026
Bíng Ngọ nhong nhong ngựa lại về,
Thành công mã đáo thỏa trăm bề.
Ô Truy Trường Bản kinh toàn nghịch,
Xích Thố Mạch Thành chết vẹn thề.
Bạch Mã ngàn quân tìm Ấu Chúa,
Đích Lư ba trượng nhảy Đàn Khê.
Long Câu Tam Tạng đi muôn dặm,
Trực chỉ Tây phương kinh thỉnh về !
Đỗ Chiêu Đức
01-01-2026
* Câu đối cho năm mới Bính Ngọ 2026 :
XÀ đi bình ổn, Mừng thế giới chưa gây nên thế chiến;
MÃ đáo thành công, Chúc năm châu chào đón một năm lành.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét