Con đường từ Pleiku đến Qui Nhơn chỉ dài có 167 cây số, xe chạy hơn ba giờ thì về đến Qui Nhơn, nhưng mà sao lòng tôi nôn nao vời vợi, muốn xe chạy cho thật nhanh để về bên mẹ, vì lâu lắm rồi tôi chưa về thăm người. Trong xe tiếng hát của một ca sĩ nào đó lại vang lên như thúc giục, như khơi gợi lòng nhớ mẹ cháy bỏng trong tôi “Tôi muốn là hạt nắng / Để đến bên mẹ / Ươm lên sợi tóc / Để tóc sáng lóng lánh / Tôi muốn làm ngọn gió / Để đến bên mẹ / Hôn lên đôi mắt / Hằn sâu dấu chân chim... ”.
Vừa bước chân vào nhà tôi đã thấy mẹ ngồi đó, mẹ ngồi trên cái ghế trắng và đặt tay lên cái ghế có chung bàn cũng màu trắng, tôi nhìn mẹ lòng nao nao, tôi choàng tay ôm vai mẹ và hỏi :
- Mẹ có biết ai đây không ?
Mẹ ngước đôi mắt mờ đục nhìn tôi, ánh mắt mà chẳng có chút cảm giác nào, gần như chỉ thấy mờ mờ, rất mờ, rồi mẹ vươn đôi tay xương xẩu quờ quạng nắm lấy tay tôi, đôi tay mềm nhão, giọng nói yếu ớt :
- Con gái đầu lòng của mẹ phải không ?
Khi ấy mẹ cười, một nụ cười tội nghiệp, tôi cảm động quá, trong lòng tôi như chùng xuống rồi vỡ òa. Tôi nhìn mẹ thắm thiết miên man, một nỗi xúc động nghẹn ngào trong trái tim tôi, trong tôi như có tiếng dội về mẹ ơi ! Mẹ ơi ! Có phải ngày ngày mẹ ngồi đây để đợi chờ, để trông ngóng, để mong hai đứa con gái ở xa trở về phải không mẹ ? Tôi bỗng thấy đôi mắt mình cay cay, thương mẹ quá, mẹ đã không còn minh mẫn nữa rồi; đôi tai mẹ đã yếu ớt, mẹ không còn nghe rõ tiếng nói của xung quanh. Mẹ ngồi đó như nhìn về nơi xa xăm nào trong quá khứ, mẹ đã chín mươi chín tuổi rồi, cái tuổi bách niên, da mẹ nhăn nheo, mặt có những đốm đen đen, thịt mẹ nhão nhẹt, tóc bạc gần trắng hết mái đầu. Thỉnh thoảng mẹ buồn mẹ đọc những câu ca dao mà ngày xa xưa mẹ thường hát ru chúng tôi, dỗ cho chúng tôi giấc ngủ yên lành :
Chàng ơi ! Đưa gói thiếp mang Đưa gươm thiếp vác để chàng đi không Chàng ơi ! Phụ thiếp làm chi Thiếp như cơm nguội đỡ khi đói lòng
Mỗi khi nghe mẹ đọc những câu trên, tôi bỗng não lòng, xốn xang…
Trời ơi ! Thân phận người đàn bà ngày xưa sao mà tội nghiệp, sao mà đáng thương đến dường này, tôi nghe mà ứa nước mắt. Mẹ đọc với đôi mắt mơ màng như vọng nhớ về những ngày xa lắc, những ngày mà bây giờ mẹ chỉ nhớ mập mờ, mập mờ trong tâm trí, trong mớ ký ức lộn xộn xa xôi tự thuở nào.
Nhớ ngày xưa đôi mắt mẹ đẹp lắm, sáng long lanh rạng ngời, mẹ có chiếc mũi thẳng và đôi môi hình trái tim. Cuộc đời mẹ vất vả từ nhỏ, tuổi ấu thơ của mẹ không được nâng niu cưng chìu. Vì bà ngoại sinh dày quá nên phải nuôi vú em, người cho mẹ bú chỉ lo cho tròn bổn phận, mẹ được no bụng rồi đi làm việc khác, làm gì có được những giờ khắc âu yếm vỗ về. Vì mẹ có đến mười lăm anh chị em. Tuy nhà khá giả nhưng mà anh chị em đông, rất đông lại trồng dâu nuôi tằm, nghề mà “canh tư chưa nằm, canh năm đã dậy”. Rồi tết đến cả nhà làm bánh bán, bận rộn đến chiều ba mươi, vì bà ngoại nghĩ con đông làm bánh trước bán, sau kiếm lời các con ăn đỡ phải mua.
Lớn lên mẹ đi học, có lẽ thời gian nầy là thời gian mẹ được thảnh thơi, thời gian hoa mộng nhất trong cuộc đời của mẹ, mẹ học rất giỏi và thông minh. Ông ngoại thường tiếc mẹ là con gái, nếu con trai ông cho ra Hà Nội học trường Bưởi như cậu Ba. Mẹ xuống tận Qui Nhơn thi đậu bằng Primaire (tiểu học bây giờ) rồi ông ngoại viện lẽ con gái không nên học nhiều, mẹ thi Sage-femme (nữ hộ sinh) cũng đậu, nhưng mà phải ra tận Huế học nên ông ngoại không cho vì con gái đi học xa vậy là mẹ phải ở nhà hái dâu chăn tằm, một cuộc sống cực khổ đè sẽ nặng thêm lên đôi vai mẹ.
Thời tuổi trẻ ngọt ngào vô tư của mẹ bị gói trọn trong những chữ nề nếp gia phong. Rồi ba cưới mẹ, một mối tình mà chẳng có hoa bướm, chẳng có trăng sao, chẳng có mộng mơ của một tình yêu say đắm của thuở ban đầu, của đôi trai gái ở tuổi hoa niên; ba thấy mẹ rồi ưa, rồi nhờ mai mối nói hộ, rồi ông ngoại đồng ý. Vậy là nên vợ, nên chồng nhưng với sự khéo léo của mình mẹ đã đem lại hạnh phúc cho gia đình, mặc dù mẹ sinh toàn con gái, nhưng ba vẫn một lòng, một dạ thủy chung với mẹ hơn năm mươi năm.
Những năm đầu mẹ phải về nhà chồng ở tận Huế làm dâu hai năm, nhà chồng không giàu nhưng mà quan liêu, vì ông nội chồng là một Tiến Sĩ làm quan thời vua Tự Đức, đến chức Bố Chánh, bác của chồng là Quan Huyện tỉnh Thanh Hóa, chú của chồng là Đốc Học làm hiệu trưởng trường Lysée Khải Định (Quốc Học bây giờ). Vì nếp sống lễ phép rườm rà mẹ phải răm rắp noi theo, cứ mỗi tháng ba gửi tiền về cho mẹ, mẹ lên tận Huế lãnh về (vì nhà ở cách Huế hai mươi cây số), rồi để tiền vào trên dĩa trong một cái khay bưng lên dâng mẹ chồng cất; khi mẹ cần tiêu thì phải thưa để xin, từ xu bồ kết gội đầu đến xu xà phòng tắm giặt, v... v… Mẹ nhẫn nhục sống trong khuôn phép một gia đình phong kiến của xứ Huế mộng mơ, nhất nhất đều phải thưa trình. Ngoài ra mẹ có tài kể chuyện và thuộc truyện Tàu rất nhiều. Hồi đó chưa có phương tiện truyền thanh, truyền hình nên hằng đêm, hàng xóm thường đến ngồi quanh sân để nghe mẹ kể Địch Thanh Chinh Đông, Chinh Tây, Phàn Lê Huê. Tam Quốc Chí, v... v... với giọng đều đều và âm thanh mượt mà lôi cuốn, mẹ đã để lại nhiều tình cảm sâu sắc trong lòng hàng xóm láng giềng.
Thân phận đàn bà, phải làm bổn phận thiêng liêng nhưng mà khi mang thai trong lòng lại lo nơm nớp, nôn nao mong sao mau chóng đến ngày nở nhụy khai hoa, nỗi lo cứ kéo dài trong tâm tưởng, trong những tháng ngày bụng chửa dạ mang, bao nhiêu là nỗi lo đầy ắp, trông mong con mình được lành lặn, được mạnh khỏe hồng hào. Cái ngày quan trọng ấy (vì hồi đó chưa có siêu âm) nó quyết định hạnh phúc của gia đình, nhiều khi là cả một đời người. Thân phận người đàn bà buổi ấy, nó rẻ lắm vì có câu “Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô” - Một nam coi như có, mười nữ coi như không - cái quan niệm cổ xưa ấy, nhất là trong những dịp cúng giỗ, người nói ra, kẻ nói vào đôi lúc đã làm cho mẹ không tránh khỏi những khoảnh khắc hụt hẫng đắng cay, đã nhấn chìm tâm tư mẹ, làm cho mẹ đau đớn ngấm ngầm trong lòng. Còn ba tuy không nói ra nhưng trong sâu thẳm trái tim ông cũng buồn lắm, cũng nhiều lần trong cuộc đời ông mơ, mơ một mụn con trai.
Rồi chiến tranh, mẹ cực khổ trăm bề. Tôi nhớ có thời kỳ ba mẹ chỉ ăn một bữa cơm và một bữa khoai sắn, nhưng khi nào cũng để dành chén cơm chiều cho tôi. Thời kháng chiến, bị máy bay bắn phá mẹ phải buôn bán chợ đêm. Có những hôm khuya mẹ mới về, mới nấu cơm vì tôi còn nhỏ nấu cơm bị sống. Cả một chuỗi ngày dài cơ cực đè nặng lên đôi vai gầy của mẹ. Khi chị em chúng tôi lớn lên, mẹ vẫn phải buôn bán để nuôi chị em chúng tôi ăn học. Có những chiều chạng vạng tối mẹ mua cá, mua thịt vì người ta bán ế, mua cho rẻ. Cả ngày đã nhọc nhằn mua bán rồi, tối về lại mày mò làm chả cá rựa, mẹ bào ra lọc xương rồi viên lại chiên lên hấp dẫn vô cùng. Chả thịt bò, mẹ cũng bằm nhỏ vò viên lại rồi chiên lên, nhìn miếng chả vàng ươm, thấy muốn ăn liền. Mẹ ráng làm để cho chúng tôi có thức ăn, để cho bữa ăn được đầy đủ chất, cho con cái mau lớn, có điều oái oăm là mẹ đau bao tử đã lâu không ăn được những chất có dầu mỡ, chỉ ăn rau và cá mà thôi.
Những năm chợ chưa có người giữ, mẹ phải từ nhà gánh đi gánh về với bao hàng hóa nặng trĩu trên vai… Biết bao nhiêu vất vả nhọc nhằn vậy mà mẹ chưa bao giờ than thở; vừa đau ốm, vừa phải làm lụng nuôi con, mẹ chịu đựng chẳng chia sẻ cùng ai vì ba đi làm xa chỉ đủ một mình ba chi dùng, thỉnh thoảnh mới gởi về cho chúng tôi chút ít quà. Điều mà mẹ mong ước duy nhất các con của mẹ học hành đến nơi đến chốn, được làm cô giáo, đem kiến thức học được của mình truyền đạt cho các con em trong xã hội, cho thế hệ ngày mai.
Ôi ! Nói sao cho hết những nỗi nhọc nhằn gian khổ của mẹ từ khi mái tóc mẹ còn xanh đến lúc tóc mẹ phai màu. Lúc chúng tôi còn nhỏ, mỗi lần bị muỗi cắn có nốt đỏ hiện lên trên làn da, mẹ xuýt xoa lo lắng, nhất là những khi chúng tôi ốm đau mẹ ôm chúng tôi vào lòng thức suốt đêm với tâm trạng lo sợ bất an; thỉnh thoảng mẹ để tay lên mũi xem có còn thở không, thở có đều không. Những năm mẹ có con gái đi học xa, nỗi lo lắng của mẹ ngày ngày hằn lên trên nét mặt, trên đôi mắt đợi chờ mong mỏi xa xăm. Mỗi chiều về mẹ hướng đôi mắt mệt mỏi đến phương trời, nơi có đứa con yêu thương của mình đang học hành và tự hỏi không biết con mình có khỏe không ? Có được bình an không ? Nỗi lo âu cứ mãi ám ảnh mẹ, ám ảnh bao tháng năm dài. Mẹ ơi ! Biết bao giờ chúng con mới đền đáp được một phần nhỏ những gì mẹ đã dành cho chúng con với cả tấm lòng trời biển của mẹ. Nhớ đến mẹ, từ trong tim con cứ mãi dâng lên một niềm cảm mến ngọt ngào, đôi mắt con lại rưng rưng một nỗi xúc động vô bờ bến, mẹ ơi ! Mẹ ơi !
Khi các con của mẹ đã có gia đình rồi mẹ vẫn còn lo lắng, lo gia đình con mình có được hạnh phúc không ? Cháu có ngoan không ? Kinh tế gia đình có đủ sống không ? Có đứa con nào thiếu hụt mẹ lại lo tằn tiện bù đắp.
“Trên cuộc đời này có ai gần gủi với ta nhất ? - Mẹ. Ai thương yêu ta nhất ? - Mẹ. Ai là người bạn trung thành với ta nhất ? - Mẹ. Mẹ là tất cả những gì quí giá thiêng liêng nhất trên cõi đời này”.
Mãi đến năm mẹ tám mươi tuổi mẹ mới nghỉ buôn bán, lúc ấy mẹ mới vui cùng sách báo. Mẹ có biệt tài, cả một cuốn truyện dày mẹ đọc một lần là nhớ hết từ cốt truyện đến các nhân vật. Truyện mẹ đọc từ lúc còn trẻ năm sáu chục năm sau mẹ vẫn nhớ rành rẽ. Tuy nói là nghỉ ngơi nhưng mà mỗi sáng mẹ vẫn đi chợ lựa những thức ăn mà các con mẹ thích; mẹ mua về rồi lụm cụm nấu nướng thành một bữa cơm nóng sốt để các con đi làm về trưa nắng vẫn có một bữa cơm ăn ngon lành. Không có bữa ăn nào ngon bằng cơm mẹ nấu, không có lời nào ngọt ngào, ấm áp bằng lời mẹ nói với con... Nhất là những buổi trưa đi làm về nắng nóng, giở lồng bàn ra. Ôi… Một mâm cơm nóng sốt hấp dẫn, nhìn mà thấy ngon mắt, ngon mũi, ngon mồm... !
Thỉnh thoảng mùa hè mẹ lên Pleiku chơi cho mát, nơi ấy có con gái mẹ nhưng mà ngày ấy xa rồi, xa thật rồi.
Giờ đây mẹ đã lẫn, lẫn thật rồi. Mẹ ngồi đó, ai hỏi mẹ có mấy đứa con, mẹ lẩm nhẩm rồi nói : “Quên… !”.
Mà mẹ quên thật, tâm trí mẹ đã bị thời gian làm cho lão hóa, tất cả những gì về quá khứ và hiện tại mẹ chỉ nhớ mơ hồ, rất mơ hồ...
Thương mẹ quá mẹ ơi! - ./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét