20 tuổi, cấp bậc chuẩn úy, chức vụ trung đội trưởng tác chiến, tôi được phân bổ về đại đội 398 biệt lập trực thuộc Tiểu khu Darlac. Từ Ban Mê Thuột quá giang theo chiếc GMC tiếp tế cho chi khu Buôn Hô, tôi vượt quãng đường dài ngót nghét hơn 50 cây số để tìm đến đơn vị mình.Đơn vị đóng quân ở Buôn Wich cách Buôn Hô 10 cây số. Trung úy đại đội trưởng cho lính mở đường đưa chiếc xe dodge duy nhất của đại đội để đón thằng sĩ quan non choẹt vào rừng. Chiếc xe ì ạch trồi lên trụt xuống trên hương lộ đất đỏ rộng bằng cườm tay lởm chởm, bụi tung đầy trời ngập đất phủ lấp khoảng niên thời tôi vừa bỏ lại sau lưng. Tôi thực sự đi vào chiến trận.
<!>
Buổi chiều đầu tiên sống với núi rừng, nghe tiếng gió hú rớt đầy buôn Thượng, chạnh lòng nghĩ ngợi lung tung, tôi thấy hồn vương vấn điều gì rất mơ hồ thoáng ẩn hiện không thể hình dung. Những người lính Thượng nhúm những khúm lửa nhỏ nấu vội vã ít thức ăn được đựng trong những chiếc gà mên nhà binh. Dân làng người Rhadé đang lục tục kéo nhau về từ các nương rẫy. Sự cô quạnh đổ ập lên buổi chiều. Một người lính sau khi cơm chiều xong ôm chiếc kèn làm bằng trái bầu phơi khô kéo lê thê nghe trầm thống vô cùng. Một người lính khác cất giọng hát. Tiếng hát khàn đục từng chữ một nghe như tiếng gào đêm của con mèo đực thất tình đi tìm ý trung nhân giữa đêm. Trên mảnh đất cách quốc lộ 14 chừng 10 cây số mà dường như có một cách trở xa xôi nào đó mỗi khi lòng chạnh nhớ nhà, nhớ những người bạn, nhớ những sinh hoạt thường ngày mà mới đây thôi tôi hãy còn là một thư sinh quần xanh áo trắng.
Nỗi nhớ như những lời thì thầm nhức nhối đã đem tôi thân thiết gần gũi hơn với đám lính dưới quyền. Mùi lính mùi tanh nắng của đồng đội không còn khiến tôi phải khó ngửi như lúc ban đầu. Tôi yêu thích cuộc sống hiền hòa của người Rhadé trong buôn, sự bình thản của lính miền xa. Có những đêm nằm thu mình trong một góc nhà sàn, thấy suối rừng chảy mát rượi đầy giấc chiêm bao. Thích thú khi thấy mình mọc lông thành khỉ, mọc đuôi thành vượn nhảy nhót với núi rừng. Những đêm phục kích ngoài bờ bụi, trong bóng đêm để chờ đợi sự rủi may, tôi vẫn bình thản gối đầu lên dây ba chạc cuốn tròn ngước nhìn trời với muôn ngàn ánh sao đêm. Ở đó tôi vẫn là một gã con trai vừa mới lớn. Những buổi trưa sau một cuộc lục soát dừng quân bên suối, trong khi chờ đợi người tà lọt nấu vội vã nhúm lá Dang rừng, ngồi dựa lưng vào gốc cây, đọc lại những bài thơ chép vào nhật ký hành quân, thả hồn lặng lẽ vào những đóa hoa mọc lẻ loi trong kẽ đá. Tôi nửa thú nửa người sống với cuộc sống hoang dã gần như quên hết chuyện thị thành. Nửa thú vô tâm, không biết buồn, biết vui, biết giận. Nửa người để hút thuốc, làm thơ con cóc.
Những ngày không đi hành quân la cà vớ vẩn dạo chơi quanh buôn, lăn xả vào đám dân làng để uống rượu cần, đùa giỡn với đám con nít trần truồng mũi chảy lòng thòng ngờ nghệch. Trên cơ thể tôi cũng chắc đã có mùi chua của mồ hôi nắng gió, và chẳng còn phải ngứa ngáy vì những mùi ngai ngái đồng bào đó nữa. Đêm đó, tôi rúc lên góc nhà sàn nơi chiếc võng được mắc sẵn vừa đặt lưng, vội vàng nhỏm dậy cùng với một bất ngờ. Khung gỗ vuông giữa nhà sàn dùng làm nơi đốt lửa bỗng khác lạ hơn mọi đêm,bởi vì ẩn hiện dưới ánh lửa chập chùng một khuôn mặt liêu trai chập chờn. Người con gái ngồi lặng lẽ, như đã ngồi lâu lắm từ kiếp trước. Từ bóng tối nhìn ra tôi nín thở giữa chốn rừng thiêng heo hút, nín thở vừa đủ ánh lửa soi hiện một khuôn mặt não nùng. Man mác chảy rợn trong lòng một cảm xúc mơ hồ. Tôi là thằng lính 20 tuổi, chưa hề có cảm giác yêu ai do đó cái cảm xúc của một người dành cho một người như thế nào tôi không định rõ. Tôi chỉ biết cái cảm giác rờn rợn giống như tôi đã từng có trong lần tao ngộ chiến đấu đầu tiên với địch. Lần đầu tiên biết mùi súng đạn, giữa tiếng súng nổ rền vang, để tranh lấy cái sống chỉ còn có một cách liều mạng tiến lên. Tôi ôm khẩu M16 miệng la gần khan cổ, trong bụng không thấy sợ nhưng vẫn thấy rộn ràng. Cảm giác rộn ràng kích thích các tế bào da trên cơ thể cứ khiến tôi muốn són trong lòng. Tôi nín thở nhíu người để tự trấn an cái cảm xúc kỳ cục đó. Lần này cũng vậy người con gái thượng ngồi bên bếp lửa trong đêm đã tái diễn cảm xúc rợn người kia trong tôi. Tôi ngồi trong thinh lặng để ngắm nhìn. Bất chợt đôi mắt nàng ngước lên chĩa vào góc tối nơi tôi mắc võng. Chưa chắc nàng đã nhận ra tôi,nhưng phản xạ tự nhiên khiến tôi vội vàng nằm xuống, chính cái phản xạ này gây ra tiếng động ở hai đầu võng đang buộc vào cột nhà sàn.
Biết bị lộ, tôi bước xuống lên tiếng chào trước: - Chào cô.
Nàng không có vẻ gì ngạc nhiên:
- À... Chào ông lính.
- Tôi đóng quân ở đây lâu rồi nhưng thấy cô đây là lần đầu.
- Em học dưới trường quận, nghỉ hè em mới vừa về thăm nhà chiều nay.
- Thì ra vậy... cô tên gì?
- H' Ngoan.
- H' Ngoan? Tên giống người Kinh ghê.
Nàng hỏi lại tôi:
- Ông lính tên gì?
Tôi chỉ vào bảng tên thêu trên túi áo. Nàng chậm rãi vừa đọc vừa hỏi:
- Quan hay Quân? Chắc là Quan rồi vì thấy ông đang mang lon chuẩn úy.
- H' Ngoan giỏi tiếng kinh ghê luôn.
- Em đã nói với ông là em đang đi học mà.
- Hèn gì H' Ngoan nói tiếng Kinh rành như thế. Tôi thấy H' Ngoan có nét đẹp không giống người thượng du.
- Nghe mạ em nói, ba em là ông Tây làm ở đồn điền Rossy, nhưng về nước lâu lắm rồi, về tận hồi chưa đẻ em ra lận.
- H' Ngoan lai hai dòng máu, do đó trông H' Ngoan xinh đẹp như vậy, nhất là đôi mắt.
- Ông Quan khéo nịnh đầm.
Những ngày sau đó, sự cô quạnh không còn đổ ập về sớm trong mỗi buổi chiều. Tôi mong chiều xuống cho thật nhanh để ngóng ra cổng phía sau bờ suối tìm bóng dáng H' Ngoan lẫn lộn trong đám dân làng từ nương rẫy kéo về. Trước khi hàng rào dây kẽm gai được kéo lại, trong lòng tôi chợt reo vui khi thấy từ xa bóng dáng gọn nhỏ săn chắc của nàng. Hai tay đan chặt vào chiếc dây mắc chiếc gùi đè nặng trên lưng khiến khuôn ngực tròn phía trước rướn căng gần như khôngcần che giấu. Khi ngang qua đám lính lố nhố thế nào nàng cũng liếc nhìn tôi nhoẻn miệng cười. Làn da đen xám trộn màu lai của nàng tạo nên một nét duyên dáng riêng. Nét duyên dáng đó hòa thân cùng cây cỏ mỗi khi nàng nhoẻn cười. Tâm hồn của những người dân Rhadé mộc mạc như cuộc sống, dung dị hiền hòa như một thứ cỏ mọn hoa hèn. Âm thầm mọc lên để vươn vai cùng sương gió, cùng mặt trời không một tiếng động. Những bước chân đất nhẹ nhàng lướt lên cọc nhọn chông gai của gốc cây rừng, của sỏi, của đá không một tiếng than van.
Chiến tranh giăng đầy ở khắp mọi nơi không riêng gì ở đây, nhưng ở đây đôi lúc dường như chiến tranh cũng chẳng qua là một sinh hoạt thường ngày như ăn, ngủ kể cả cái chết. Những người còn sống đem chôn những người vừa chết bình thản khôngcó gì phải buồn, không có gì phải vui. Nụ cười của H' Ngoan tích tụ từ cảm quan thiên nhiên giao hợp đó. Nụ cười sẽ không bao giờ phai nhạt trong tôi, khi mà ở cái tuổi còn quá trẻ tôi chưa hề được ai ban bố cho một nụ cười. Tôi không phân tích được tâm trạng của mình, nhưng qua những nôn nóng trong ngày mong đợi H' Ngoan từ nương rẫy trở về, tôi biết lòng tôi đang biết nhớ Buôn Wich lèo tèo vài ba chục nóc nhà sàn. Vì là điểm chiến lược để phòng thủ chi khu nên sự hiện diện của một đơn vị tác chiến rất là cần thiết. Đại đội hằng ngày chia nhau đi lục soát chung quanh buôn, đêm về chia nhau phòng thủ canh gác. Thỉnh thoảng mở đường để xuống quận để nhận tiếp liệu. Có đụng độ vài lần với ba toán du kích lẻ tẻ, không ăn thua gì. Đánh nhau như vầy trong khi cuộc chiến đang sôi động khắp nơi trên chiến trường đất nước, kể ra cũng nhàn hạ. Tôi cứ thế tà tà cầm súng, ngao du sơn thủy chẳng còn có gì để phải nghĩ đến ngày hôm qua, chẳng cần phải nghĩ đến ngày mai. Cuộc chiến không biết bao giờ tàn, nếu quả cái mạng này âm ty địa phủ không thèm dùng đến thì đâu cần phải giữ mà vẫn sống trơ trơ. Một viên đạn nhỏ xíu xuyên vô hình trong không khí làm sao tránh. Nếu quả là Nam Tào muốn giũ sổ thì không thể trốn đằng nào. Vì thế tôi cứ thản nhiên làm người lính chiến trấn thủ tiền đồn. Trung úy đại đội trưởng nhiều lúc cằn nhằn:
- Tôi thấy cha nội tỉnh bơ với cuộc chiến này như là giởn chơi, cứ nhởn nhơ như là đi picnic.
Tôi chỉ cười đâu biết nói gì hơn.Trong ba lô, ngoài chiếc võng, một cái poncho, một cấp số đạn còn ít quyển Tuổi Ngọc dành cho lứa tuổi ô mai, tím đen hơn tí nữa ít tờ tạp chí Văn mà tôi nhờ người hạ sĩ quan tiếp liệu mua giùm mỗi khi về Ban mê Thuột. Tôi chép vào nhật ký hành quân những câu thơ hay, thỉnh thoảng ra bờ suối ngâm nghe dòng nước chảy. Trang đầu quyển nhật ký tôi chép hai câu thơ của Hermann Hess "Dù đau đớn quằn quại, tôi vẫn yêu thương thiết tha trần gian điên dại này". Tôi ghi lại những cảm xúc nửa trần tục nửa thanh cao mà tôi có từ vóc dáng H' Ngoan. Tôi vẫn thường nói với nàng: “Cám ơn Yang đã đem em đến cho anh, dù trong khắc nghiệt của hoàn cảnh. Anh chẳng có gì phải hối tiếc khi yêu em”. H' Ngoan đáp lại tình tôi cũng chẳng cần phải toan tính thiệt hơn, cũng chẳng phải cần nghĩ đến muôn vàn trắc trở. Hai chúng tôi là hai kẻ khùng điên đầy tội nghiệp. Một cuộc tình không có tương lai mà lại được hiện hữu. Người khách quan nhìn vào khó lòng mà chấp nhận. Nhưng 2 chúng tôi đã chấp nhận nó, chấp nhận bằng sự thật lòng, mặc ai muốn hiểu sao thì hiểu. Mặc cho lát nữa đây có thể một viên đạn nào đó của địch quân nhắm bắn trúng vào tôi ngã xuống. Sau 3 tháng nghỉ hè, H’ Ngoan trở lại trường học. Trường quận cách buôn Wik quãng đường 10 cây số không dài lắm, nhưng giữa lúc có chiến tranh là một quãng đường nhiêu khê, sự chết đang rình rập không chừa một tấc đất nào. Một lần trung đội mở đường, tôi xông thẳng vào trường nàng. 5 cái nhà tole thấp lè tè xơ xác càng tăng thêm phần hiên ngang của tôi khi trên người là dây ba chạc với khẩu M16 cầm tay. Tôi xông thẳng vào lớp rủ nàng trốn học ra quán nước gần đó.Vai vác súng, H’ Ngoan đi bên tôi.Cặp tình nhân đi bên nhau mà giống y như là nàng đang bị tôi áp giải. - Anh rất nhớ em.
- Em cũng vậy.
- Hay là em đừng đi học nữa. Em bỏ học để cưới anh làm chồng cho rồi.
- Em sợ anh không chịu thôi.
- Sao không chịu. Em đẹp và dễ thương như vầy.
Tôi đùa:
- Anh chỉ sợ H' Ngoan thách cưới mắc quá.
Nàng cười:
- Em chỉ đòi anh 1 ché với 2 trâu thôi, rẻ lắm mà.
- Trời đất, 1 ché với 2 trâu mà rẻ. Hết mấy tháng lương của anh rồi còn gì. Nhưng cưới lính, em có sợ phải ở góa không?
- Em không sợ, trong làng tụi nó cưới lính thiếu gì.
- Mai mốt anh đổi về miền xuôi H' Ngoan có đi theo chồng không?
- Chuyện đó thì em chưa biết.
Thử tưởng tượng, H' Ngoan quấn sà rông đi dạo phố Nha Trang với tôi, thế nào cũng có kẻ cho tôi là thằng dở hơi. Làm sao những người phố thị đang bình yên trong cuộc sống, có ai hiểu được những nhân vật dở hơi dị hợm này chính là những kẻ lăn thân nơi đèo cao núi thẳm, che chắn khói lửa chiến tranh khỏi phải chảy xuống đồng bằng. Những sinh vật này cũng có trái tim biết co giãn để điều lượng máu nuôi cơ thể, cũng biết rung động giữa những con người với con người.
Tôi nói với nàng:
- Anh sẽ ở lại buôn làng với H' Ngoan, anh không về xuôi nữa.
Đó là lời ước hẹn. Người Rhadé đã chịu thề hẹn rồi thì khó hòng mà trốn thoát. Nhưng thực tâm tôi nào có bao giờ tính chuyện trốn thoát khỏi nơi nàng. Tôi khẽ nắm lấy bàn tay chơn chất, lòng bàn tay nhám cứng chuyền qua cảm xúc tôi là một dịu êm vô bờ. Khi tôi kéo trung đội về buôn, chiều đổ sầm xuống, tiếng chim rừng xào xạc gọi bầy tìm nơi trú đêm, tiếng man kêu lạc bạn tác tác từ xa nghe vọng về như có tiếng gì u uẩn từ trong đôi mắt của H' Ngoan. Tôi hỏi:
- Khi nào H' Ngoan về buôn Wich thăm anh?
- Đến hè này.
- Mùa hè này, em nhớ có anh đợi đừng quên.
Mùa hè chưa kịp đến thì tai ương đổ ập lên đầu đất nước tôi.Tôi không giữ tròn lời ước hẹn. H' Ngoan cũng chưa kịp bỏ học để cưới tôi làm chồng. Tôi bị cuốn theo cơn lốc xoáy của chiến cuộc theo đoàn quân tháo chạy khỏi cao nguyên. Cuối cùng tôi đến một nơi không bao giờ tôi nghĩ là tôi sẽ đến. Thay vì trở thành 1 gã thượng du sống cùng núi rừng cây cỏ, tôi lại trở thành một gã nước ngoài xa lạ với nơi tôi vừa tháo thân. Tôi không còn con đường trở lại buôn Wich. Người ta thỏa rập nhau để cố tình quên một mảnh đất có tên trên bản đồ với diện tích 326 ngàn cây số vuông. 1 mảnh đất rộng lớn có cái tên là Việt Nam, thế lực ngoại bang thỏa rập với sự cuồng tham của chủ thuyết cộng sản đã bị xóa tên thì nhằm nhò gì cái buôn Wich to bằng cái nắm tay. Những năm đầu nơi xứ người bươn chải kiếm sống, nỗi cô đơn cứ khiến mỗi đêm về tôi nhớ mãi bóng dáng của H' Ngoan. Những lá thư tôi gởi về địa chỉ này cứ đi lòng vòng qua nhiều quốc gia rồi biến mất ở một nơi nào tôi không được rõ.H’ Ngoan vẫn bóng chim tăm cá. Sau này tôi được biết địa điểm buôn Wich với tiền đồn, nơi tôi trấn đóng đã bị phá bỏ và dân chúng trong làng không còn ai sinh sống. Nơi đó giờ là rừng cây phủ lấp. Tôi đã thực sự mất nàng. Tôi đã từng hứa tôi không trở về xuôi nữa, tôi ở miền ngược để sống với H' Ngoan cho hết cả một đời. Khi tôi hứa với nàng một đời chỉ đặt vừa đủ gọn trên con đường ngoằn ngoèo xuyên rừng xẻ núi dài vỏn vẹn 10 cây số. Tôi đâu nghĩ con đường đó kéo dài qua khỏi biên giới của đất nước. Tôi không được mọc lông thành khỉ để nhảy nhót vô ưu với núi rừng, ngược lại tôi phải cạo lông hằng ngày để trở thành người văn minh. Lẫn vào đám đông mũi hít ngửi mùi nước hoa đủ loại sao tôi nhớ mùi khét nắng của đồng đội tôi xưa. Trong óc tôi vẫn còn vang động mãi tiếng rì rào của con suối.
Những lúc giật mình thức giấc giữa đêm khuya, thấy con đường khúc khuỷu quanh co từ nơi tôi đóng quân đến trường H' Ngoan học, nhớ những lúc trở chứng đi thăm nàng dẫn theo cả trung đội mở đường, hiên ngang một cõi như loài thảo khấu coi trời đất bằng vung. Ở đây, núp mình trong cuộc sống, ngày lái chiếc Lexus đi đi về về trên xa lộ thênh thang, tiếng động cơ của xe êm ái sao vẫn nhớ tiếng ì à ì ạch của chiếc xe dodge xanh màu lính già nua mỗi khi leo mệt nhọc lên con dốc. Tiếng kêu la vang động với núi rừng khiêu chiến với loài núp mặt ẩn danh. Ăn toàn cao lương mỹ vị vẫn thèm chút hương vị đậm đà của mấy chiếc lá Dang chua chua nấu với nhúm muối hột cùng vài con tôm khô. Lăn thân trong chốn ồn ào vẫn nhớ hoài những trưa hè im ắng tiếng người trên buôn làng xưa. Nghe đâu đây tiếng con chim rừng buồn thê thảm gọi hè trong nỗi nhớ lặng câm, tiếng con man kêu tác tác lạc bầy giữa núi rừng hiu quạnh. Tôi là kẻ thành danh trong xã hội, thành công trong cuộc sống, nhưng tôi có phải là kẻ thành nhân khi mà chiến tranh đã chia cắt từ tôi một bóng hình. Tôi không được mọc lông thành khỉ, nhưng tôi có khác nào con khỉ sống ở xã hội văn minh này. Kiểu sống của tôi cũng rập khuôn bắt chước một cách vô hồn trong guồng máy vô tâm vĩ đại, làm một con khỉ nhảy nhót chụp giựt giữa đời thường không còn quyền tự chủ cho bản năng của mình. Mỗi lúc nhớ H’ Ngoan trong tôi chỉ còn đọng lại nơi đây một nỗi bùi ngùi.
Khu chung cư căn phòng ẩm chật
Gã đàn ông đến từ Việt Nam
Có con gián là dân bản gốc
Có ban ngày và có ban đêm
Hắn mỗi sáng nấu tô mì gói
Ðun cà phê trên ngọn lửa buồn
Múc muỗng đường pha bằng ký ức
Quậy tháng ngày tiếng muỗng loong coong
Nâng tách hớp cô đơn từng ngụm
Uống nỗi nhà tăm cá bóng chim
Ðôi đủa gắp cọng mì đất nước
Nhai điểm tâm trợn trạo nỗi buồn
Con gián chia cọng mì rơi vải
Như một phần thân thể Việt Nam
Hai cọng râu nhíu mày chụm lại
Cuộc sinh tồn như một phản năng
Hắn mỗi tối trùm chăn kín mít
Chiếc nệm giường cọt kẹt kêu đau
Uống không cạn, uống hoài nước mắt
Tháng ngày qua lặng lẽ bạc đầu
Con gián đứng nhìn từ kẹt cửa
Lắng im chia những tiếng thở dài
Phòng ẩm chật ngăn hai thế giới
Thế giới này nào của riêng ai
Thế giới nào là của riêng tôi?
Xuân khều động vết thương mưng mủ
Cục bông gòn nhúng lên lịch sử
Vết bầy nhầy không kéo da non
Quê nhà tôi bên kia đại dương
Cách bên này một bờ biển động
Vành biển máu một thời tang trắng
Phủ lãng quên trên những oan hồn
Một cuộc tình mỏng như khói sương
Là khói mây tụ về hậu kiếp
Mò chai rượu nửa khuya bật nút
Nhớ đen thui con mắt hạt huyền
Ðêm xuân này đứng ở khoảng không
Không gia cư cũng không tổ quốc
Ðứng tứ trụ hai chân bám chặt
Ðội trên đầu nửa mãng trời xa
Ðêm dật dờ như một thây ma
Hả họng hú tiếng gào thăm thẳm
Vào vũ trụ, vọng lời im lặng
Có còn ai nghe một lời gào
Còn. Còn đây con gián lêu bêu
Trố ngạc nhiên vào lời hắn hét
Ôi! Chữ nghĩa hiển nhiên hẳn thật
Nhưng được gì. Hỡi những bài thơ
Thời gian đi trở lại bao giờ
Thời gian không trở lại bao giờ.
Quan Dương
Chuẩn Úy Dương Công Quan
SQ 70/407892 Đại đội 398 BL-KBC 4446
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét