Tìm bài viết

Vì Bài viết và hình ảnh quá nhiều,nên Quí Vị và Các Bạn có thể xem phần Lưu trử Blog bên tay phải, chữ màu xanh (giống như mục lục) để tỉm tiêu đề, xong bấm vào đó để xem. Muốn xem bài cũ hơn, xin bấm vào (tháng....) năm... (vì blog Free nên có thể nhiều hình ảnh bị mất, hoặc không load kịp, xin Quí Bạn thông cảm)
Nhìn lên trên, có chữ Suối Nguồn Tươi Trẻ là phần dành cho Thơ, bấm vào đó để sang trang Thơ. Khi mở Youtube nhớ bấm vào ô vuông góc dưới bên phải để mở rộng màn hình xem cho đẹp.
Cám ơn Quí Vị

Nhìn Ra Bốn Phương

Thứ Ba, 14 tháng 5, 2024

THUYỀN NHÂN VIỆT NAM VƯỢT BIÊN, TỬ NẠN, ĐẾN BỜ TỰ DO ĐÃ GIÚP NHÂN LOẠI NHÌN RÕ ĐƯỢC CHÂN TƯỚNG CỦA CỘNG SẢN - LÝ ĐẠI NGUYÊN


Hàng chục vạn người, đa số là người Công Giáo rời khỏi miền Bắc VN năm 1954 theo chương trình Passage to Freedom (Con đường đến Tự Do) Hầu như mọi tai họa của nhân loại, dù vô tình, hay cố ý tạo ra để hành hạ nhau, lợi dụng nhau, trao đổi nhau, tiêu diệt nhau ở Thế Kỷ XX, đều trút xuống thân phận nhỏ bé của dân tộc Việt Nam. Hàng chục triệu người Việt Nam đã bị chết tức tưởi trong 2 cuộc chiến Việt - Pháp và cuộc chiến Ý Thức Hệ Quốc Tế thu hẹp giữa 2 miền Nam Bắc Việt Nam. Để bị Mỹ Hóa Chiến Tranh. Rồi Mỹ Bỏ Miền Nam cho Việtcộng làm chủ toàn cõi Việt Nam để chúng tự tung tự tác thực hiện ở đây một chế độ cực kỳ man rợ độc ác, có tên là “Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa”. Khiến hàng triệu người bị trả thù, bị giết, bị vào tù, và bị đầy đọa đi vùng “Kinh Tế Mới.” 
<!>
Toàn dân Miền Nam bị cướp đoạt tài sản cho rơi xuống ngang tầm đói nghèo giống như người dân cơ cực Miền Bắc. Hàng triệu người vượt biển, băng rừng bỏ lại quê hương đất nước, bỏ lại tất cả, quên luôn mạng sống để “Đi Tìm Tự Do”, và rồi gần nửa số đó bị vùi thân trong biển cả, giữa rừng sâu. Đây là một dấu ấn khổ đau cùng cực, tạo thành mối oán than ngút trời của cả một dân tộc bị đầy đọa, bị làm “vật tế thần” cho những âm mưu quốc tế. Đây còn là một chứng nghiệm sống thật, đầy thuyết phục để toàn thể nhân loại nhìn rõ được chân tướng của chế độ và con người Cộng Sản.

CUỘC DI CƯ TỪ BẮC VÀO NAM

Sau thế chiến thứ II, các nước thuộc địa lần lượt được trao trả độc lập và được hòa bình phát triển. Riêng Việt Nam, thì Hoakỳ vì chiến lược toàn cầu “dùng Cộng Sản diệt Thực Dân”, nên đã võ trang cho Cộng Sản Hồ Chí Minh, để ngày 19/08/1945, giành lấy chính quyền từ tay nhà vua Bảo Đại, mà trên danh nghĩa thì từ ngày 17/04/1945 đã được Quân Phiệt Nhật trao trả độc lập cho Việt Nam để thành lập chính phủ Quốc Gia Trần Trọng Kim, thống nhất trên cả nước. Ngày 14-08-1945, nước Nhật đầu hàng Đồng Minh, Anh Quốc được Đồng Minh trao nhiệm vụ tước khí giới quân đội Nhật ở Việt Nam, từ vĩ tuyến 20 đổ vào Nam, còn nước Trung Hoa Quốc Gia thì tước vũ khí quân Nhật ngoài Bắc, thì Thực Dân Pháp liền theo quân Anh vào chiếm cứ Miền Nam Việt Nam. Ờ Miền Bắc, Việt Minh Cộng Sản cướp được chính quyền, đã tổ chức Tuần Lễ Vàng, nhằm đút lót cho tướng Lư Hán, vị chỉ huy quân đội Trung Hoa, để viên tướng tham ô này ủng hộ cho Hồ Chí Minh nắm ghế Chủ Tịch Nước trong chính phủ Liên Hiệp Lâm Thời Việt Nam.

Quân Trung Hoa làm xong nhiệm vụ phải về nước, Hồ Chính Minh đi tìm chỗ dựa mới để tiêu diệt những lực lượng võ trang của các đảng phái Quốc Gia. Ngày 06/03/1946, chính phủ Liên Hiệp Hồ Chí Minh ký Hiệp Ước Sơ Bộ với Pháp, để ngày 19-05-1946 cho quân Pháp đổ bộ lên Hải Phòng và đóng quân khắp Miền Bắc. Khi Hồ Chí Minh đã nhờ tay quân Thực Dân Pháp đánh tan được các lưc lượng Quốc Gia tại Bắc Việt, thì Việt Minh Cộng Sản liền khởi phát Toàn Quốc Kháng Chiến vào ngày 19/12/1946. Từ đó Việtminh và Hồ Chí Minh nắm được chính nghĩa Lãnh Đạo Cuộc Kháng Chiến Dân Tộc Chống Thực Dân Pháp của toàn dân.
Sau 2 năm Thực Dân Pháp thấy không thể tốc chiến, tốc thắng được cuộc chiến tranh “nhân dân du kích,” họ phải viện cầu tới giải pháp Bảo Đại, nhằm quy tụ những thế lực chống cộng của người Quốc Gia. Ngày 05/06/1948, cựu hoàng Bảo Đại chứng kiến lễ ký kết Thỏa Ước Vịnh Hạ Long giữa Việt, Pháp, trên chiến hạm Duguay Trouin. Quốc hiệu Quốc Gia Việt Nam và Lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ là biểu tượng cho nước Việt Nam Độc Lập Thống Nhất có từ đó. Ngày 08-03-1949, Quốc Trưởng Việt Nam, Bảo Đại, ký với Tổng Thống Pháp, Vincent Auriol Thỏa Ước Elysée, theo đó nước Pháp trao trả Độc Lập cho Quốc Gia Việt Nam. Việt Nam độc lập toàn vẹn lãnh thổ cả 3 miền Bắc Trung Nam, có Quân Đội riêng, có hệ thống cai trị của một Quốc Gia có chủ quyền
Tàu há mồm đón người di cư rời miền Bắc.




Năm 1949, Cộng Sản Trung Hoa chiếm được Hoa Lục. Năm 1950, Mao Trạch Đông và Hồ Chí Minh cùng nhau sang Nga chầu Stalin. Kể từ đó ngôi thứ lãnh tụ Quốc Tế Cộng Sản giữa 3 nước này được sắp xếp theo thứ tự trên dưới: Cầm đầu là Stalin, rồi đến Mao Trạch Đông, cuối cùng là Hồ Chí Minh. Mao có nhiệm vụ đem quân giúp Hồ đánh Pháp. Hồ phải theo lệnh Mao tiến hành cuộc phóng tay phát động “Cải Cách Ruộng Đất.” Tiêu diệt Trí, Phú, Địa, Hào. Phá tan hệ thống “Làng Xã Tự Quản” truyền thống độc lập, tự chủ của Dân Tộc Việt Nam, thay vào đó bằng “Chi Bộ Xã” của cộng sản để thực hiện chế độ trung ương tập quyền toàn trị, bắt toàn dân Việt Nam phải làm nô lệ cho Nga-Tầu. Trên 2 trăm ngàn người Việt đã bị đấu tố, giết chết trong chiến dịch này. Khi cộng sản quốc tế nối liền được hệ thống lãnh đạo và tiếp liệu từ Nga, qua Tầu, sang Việt, mà Thực Dân Pháp hết được Hoa Kỳ hỗ trợ về mặt quân sự nữa, thì việc thắng bại của cuộc chiến Việt Pháp đã bày ra trước mắt. Pháp thất trận Điện Biên Phủ phải tìm sự thỏa hiệp với Mỹ, Nga, Tầu để ký Hiệp Định Genève vào ngày 20-07-1954, chia đôi Việt Nam ở vĩ tuyến 17. Phía Bắc thuộc Cộng Sản với sự lãnh đạo của Nga, Tầu. Phía Nam thuộc Quốc Gia với sự bảo vệ của Mỹ. Hàng triệu người dân Miền Bắc đã phải bỏ mồ mả tổ tiên, ruộng vườn nhà cửa Di Cư vào Nam. Lần vượt biển này người di cư đã may mắn được tầu của các nước tự do đón rước ra đi trật tự, an toàn. Được định cư và yên ổn cuộc sống một cách mau chóng ở Miền Nam Tự Do, ngay trên Quốc Gia mình.



CUỘC CHIẾN ĐẦY BÍ HIỂM TÀN NHẪN



Phía Quốc Gia kéo hết quân vào Nam, thì Cộng Sản cài cán bộ lại Miền Nam, nhằm chuẩn bị cho đợt chiến tranh mới. Khi Chính Quyền Miền Nam được Hoa Kỳ công khai viện trợ để củng cố quyền lực làm Tiền Đồn Chống Cộng của Thế Giới Tự Do, và ngày 25-04-1956, quân đội viễn chinh Pháp làm lễ cuốn cờ tại bến Bạch Đằng Sài Gòn, xuống tầu về nước, chấm dứt chế độ Thực Dân trên thế giới, thì Cộng Sản Miền Bắc theo lệnh quan thầy Nga, Hoa bắt toàn dân phải nhịn đói để thực hiện Xã Hội Chủ Nghĩa và chuẩn bị “Tiến Chiếm Miền Nam”. Vì cùng nằm trong hệ thống Cộng Sản Quốc Tế, nên Nga chỉ thị mật cho Tầu, Tầu ra lệnh cho Việt Cộng thực hiện những chủ trương đường lối của Quốc Tế Cộng Sản là đủ. Đến năm 1956, trong Đại Hội 20 đảng Cộng Sản Liên Xô, tổng bí thư Khushchev đọc báo cáo hạ bệ thần tượng Stalin, tung ra chủ trương xét lại, bị Mao Trạch Đông của Trung Cộng quyết liệt chống đối. Để tránh cuộc xung đột Nga, Hoa ảnh hưởng tới quyền lực của mình, Hồ Chí Minh tức tốc thực hiện chủ trương bành trướng của Quốc Tế Cộng Sản, cho mở cuộc xâm lăng Miền Nam, buộc cả Nga lẫn Tầu phải làm nghĩa vụ quốc tế giúp cho Việtcộng tiến hành chiến tranh. Vì vậy mà dân chúng Miền Nam không thấy được sự hiện diện của quân đội cộng sản ngoại quốc tại chiến trường. Nhưng thực tế thì thế lực ngoại quốc vẫn khống chế chính trị tại Miền Bắc và chi viện quân sự cho chiến trường Miền Nam.

Trái lại, ở trong Nam là xứ Tự Do, làm gì cũng phải công khai trước dư luận thế giới. Nên sự hiện diện và ảnh hưởng của Mỹ tại Miền Nam thì thiên hạ đều biết. Chính ở điểm này, cộng sản mới có lý do tuyên truyền là Chính Quyền Miền Nam Thân Mỹ, để một lần nữa khai thác tinh thần Dân Tộc Chống Mỹ Cứu Nước của người dân Việt Nam, nhằm phát động cuộc xâm lăng Miền Nam với đanh nghĩa là “Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam.” Trong khi đó dù có chính nghĩa Quốc Gia, Dân Tộc, Dân Chủ trong tay, nhưng chính quyền Miền Nam thời đó không biết điểm mạnh của mình, không dám thực hiện chế độ Dân Chủ Thưc Sự, không chấp nhận đối lập chính trị có tổ chức, để quy tụ các khuynh hướng quốc gia chống cộng ngoài chính quyền, mà thực tế lại vẫn phải mặc nhiên sống trong hình thái Xã Hội Tự Do, để rồi vì sợ bị Việtcộng nắm dân làm loạn, nên đã đẻ ra một chính sách sai lầm chí tử là “đẩy dân về phía Việtcộng.” Có nghĩa là kẻ nào không theo chính phủ, hoặc chống chính phủ, hay bất đồng chính kiến với chính phủ đều bị coi là Vìệt Cộng, tay sai cộng sản, hay làm lợi cho cộng sản. Do vậy cuộc chiến tự vệ chính đáng của Miền Nam mất dần chính nghĩa, giúp cho “chiến pháp nhân dân vô hạn” của Việtcộng mới có thể kéo dài.

Trong khi Hồ Chí Minh phát động cuộc chiếc tranh xâm lược Miền Nam, thì đúng lúc, nhu cầu chiến lược của Mỹ, đã sẵn chọn Việt Nam làm vật hy sinh cho một hình thái chiến tranh quốc tế thu hẹp. Cuộc chiến đó nhằm phá vỡ tình trạng quân bằng quyền lực quốc tế giữa Thế Giới Tự Do và Quốc Tế Cộng Sản của Cuộc Chiến Tranh Lạnh, mà không sợ nổ ra Thế Chiến Nguyên Tử. Cuộc chiến này không tìm chiến thắng trên chiến trường Việt Nam, mà nhằm hậu thuẫn cho cuộc xung đột giữa Nga - Tầu trong Thế Giới Cộng Sản. Tức là công đoạn“dùng Cộng diệt Cộng” trong Chiến Lược Toàn Cầu Dài Hạn của Hoakỳ, khởi từ kế hoạch “dùng Đồng Minh diệt Phát Xít”, qua “dùng Cộng Sản diệt Thực Dân”, tới lúc này là: “Dùng Cộng Sản diệt Cộng Sản”. Xem vậy, Hồ Chí Minh đã bắc cầu cho quân Mỹ đổ vào chiến trường Việt Nam. Còn phía Miền Nam, thì tổng thống Ngô Đình Diệm chống lại việc quân Mỹ hiện diện trên chiến trường, chỉ chấp nhận cố vấn và viện trợ Mỹ, để tự mình chiến đấu chống cộng. Nhưng điều đáng buồn là việc “Mỹ Hóa Chiến Tranh Việt Nam”, đâu phải đơn giản là Hoa Kỳ chỉ chống cộng, bảo vệ cho Miền Nam, mà đem quân Mỹ và Liên Minh vào nhằm đẩy Nga, Tầu và Quốc Tế Cộngsản vào thế “huynh đệ tương tàn”. Tức là thực hiện công đoạn chót của chiến lược toàn cầu Mỹ là “Dùng Cộng Diệt Cộng”. Chính vì vậy mà anh em ông Ngô Đình Diệm, tổng thống Việt Nam Cộng Hòa mới bị hy sinh, rồi đến ông Kennedy, tổng thống Hoa Kỳ, vì chủ trương hòa bình cũng bị thảm tử, cùng trong năm 1963.

Vì cuộc chiến Việt Nam là một công đoạn trong chiến lược toàn cầu của Mỹ, nên từ giới cầm quyền ờ 2 miền, đến dân chúng Việt Nam đều như bị bịt mắt ném vào chiến tranh, để tha hồ nhân danh lý tưởng này nọ, và coi nhau là kẻ thù bất cộng đái thiên, rồi tự hào, kiên hãnh tàn sát lẫn nhau. Về phía Mỹ thì không những bị nhiều nước trên thế giới chống đối, nhất là Pháp đã ra sức thọc gậy bánh xe. Thực hiện trung lập hóa Campuchia, để cho Cộng Sản Bắc Việt xây dựng hậu cứ an toàn cho mặt trận du kích tại chiến trường Miền Nam. Ngay dư luận, và dân chúng Mỹ cũng quyết liệt buộc chính quyền Mỹ phải sớm kết thúc cuộc chiến tốn hao sinh mạng và tiền tài của họ tại Việt Nam. Nhất là hàng triệu thanh niên Mỹ bị tổng động viên để từng đợt thay phiên nhau ra chiến trường, khiến phong trào phản chiến ở Mỹ mỗi ngày một dâng cao. Dư luận Hoakỳ và thế giới lúc đó chỉ chú tâm tới cuộc chiến tranh hầu như bất tận và nhiều lính Mỹ chết trận, chứ không hề quan tâm tới sự chiến đấu can trường hiệu quả của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, nếu có nhắc tới thì báo chí Phản Chiến chỉ là khai thác những nhược điểm khó tránh, rồi vin vào đó đổ thừa cho lính Việt Nam không chịu đánh giặc. Ngay cuộc phản công lẫy lừng của quân đội VNCH trong tết Mậu Thân, tái chiếm cổ thảnh Quảng Trị trong Mùa Hè Đỏ Lửa, lấy lại An Lộc Bình Long, báo chí Mỹ cũng cố tình lờ đi, mà đề cao Việtcộng, nhằm thúc cho Phong Trào Phản Chiến ở Mỹ lên cao.

Nhưng dù sao tới năm 1968, tổng thống Mỹ, Johnson cũng đã đẩy cuộc chiến Việt Nam tới cán mức. Nghĩa là đã hỗ trợ có hiệu quả cho cuộc “Cách Mạng Văn Hóa” của Mao Trạch Đông, nhằm tiêu diệt hết các lãnh tụ Trungcộng thân Liên Xô, mà Liên Xô không dám đem đạo quân “nguyên tử” sang dậy cho Trungcộng một bài học, để một mình họ Mao độc quyền lãnh đạo Trunghoa. Hòa hội Paris về Việt Nam được nêu ra. Thế nên ông Johnson không tái tranh cử nhiệm kỳ 1969 - 1973. Ông Nixon thắng cử tổng thống Mỹ để giải quyết chiến tranh Việt Nam. Hội Nghị Paris 4 bên khai diễn. Năm 1971, Hoakỳ ủng hộ cho Trungcộng gia nhập Liên Hiệp Quốc, đoạt chiếc ghế Hội Viên Thường Trực Hội Đồng Bảo An từ tay Trung Hoa Quốc Gia. Rồi năm sau đó, tổng thống Nixon gặp Mao Trạch Đông tại Bắc Kinh, để ngày 28-02-1972 cùng với Chu Ân Lai ký thông cáo chung Thượng Hải “Mỹ - Hoa Đề Huề”.

Thế là cuộc chiến Việt Nam hết nhiệm vụ. Tổng thống Nixon muốn yên lòng Việt Nam Cộng Hòa đã đưa ra kế hoạch “Việt Nam Hóa Chiến Tranh” để Miền Nam chịu ký vào Hiệp Định Paris về Việt Nam ngày 27/01/1973. Quân Đội Mỹ trao đổi tù binh với Việtcộng để chuẩn bị về nước. Nhân đấy ngày 19-01-1974, Trungcộng chiếm quần đảo Hoàng Sa của Miền Nam trước mũi Hạm Đội Mỹ còn hoạt động tại đây. Ngày 08-08-1974, ông Nixon bị buộc phải từ chức tổng thống Mỹ, đem luôn chủ trương Việt Nam Hóa Chiến Tranh theo ông. Chủ tịch Hạ Viện Mỹ, Gerald R Ford lên làm tổng thống Mỹ, quyết định bỏ Miền Nam Việt Nam. Đến đây, phải nhận rằng quân đội VNCH cũng đã một mình chống lại các cuộc tấn công ác liệt của Việt Cộng trong suốt 2 năm trời, chỉ đến khi tất cả viện trợ Mỹ bị cắt hết, mới bị bó tay. Rồi do quyết định rút khỏi vùng Cao Nguyên của TT Thiệu đã mặc nhiên cắt rời Miền Trung với Miền Nam, đưa đến tình trạng quân không được gặp địch, mà phải di tản, tan hàng, rã ngũ. Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu bàn giao chức tổng thống VNCH cho phó tổng thống Trần Văn Hương. Tổng thống Hương trao chức Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa cho đại tướng Dương Văn Minh. Ngày 30-04-1975, Việt Cộng tiến vào Sài Gòn, tổng thống Dương Văn Minh bàn giao chính quyền Miền Nam cho Việt Cộng. Bạo quyền khủng bố cộng sản chiếm trọn Việt Nam, toàn dân bị đọa đầy trong ngục tối khổ đau nghèo đói.



CUỘC DI CƯ TRÀN KHẮP ĐỊA CẦU


Những người Miền Nam may mắn có điều kiện, cơ hội chạy thoát khỏi tay Việtcộng trong dịp di tản 30/04/75, thì họ đã ra đi không mang được gì, chỉ mang theo tâm trạng mất nước, với mặc cảm bại trận. Họ được định cư tại Mỹ, nhưng dư luận Mỹ lúc đó có hẳn một phong trào “đổ thừa” cho Người Miền Nam làm mất nước mình, kèm với nhiều tội tưởng tượng khác nữa, làm cho tinh thần Người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản bị thương tổn nặng nề. Nhưng với đức tính cần cù, nhẫn nại, họ đã lao vào công việc kiếm sống, và lo cho con, cháu học hành để thích ứng với hoàn cảnh mới. Chính những người tỵ nạn đợt đầu này đã gởi quà về cứu giúp thân nhân của họ còn kẹt lại Việt Nam và giúp cho thân nhân mình có phương tiện vượt biên. Sự thực một cuộc vượt biên qua rừng sâu, biển cả. Nhưng chỉ có tinh thần liều mạng, mà không có tiền thì không cách gì làm nổi.
Những thuyền nhân là những người có quyết tâm cao độ không gì so sánh được trong cuộc vượt thoát chế độ cộng sản. Họ không những đem sinh mạng của chính mình đặt vào chuyến vượt biển, mà đem mạng sống toàn gia đình vợ chồng, con cái, cha mẹ, người thân, và sự hồi hộp lo sợ của những người thân còn ở lại, cũng như trút hết tài sản của mình vào đó. Như vậy sự lựa chọn ấy đắt giá biết chừng nào. Đành rằng đề đổi lấy Tự Do. Nhưng nếu kẻ cướp đoạt sự tự do kia, mà không quá độc ác, tán tận lương tâm, còn chút tình người, và cái cơ chế quỷ quyệt ấy, vẫn để cho con người có chút hy vọng, thì lẽ đâu những thuyền nhân phải dứt khoát, ào ạt bỏ đi như thế. Có những người không phải đi một lần, mà đi nhiều lần, bị bắt nhiều lần, ra ngoài biển tàu chết máy, bị trôi trở lại. nhưng rồi lại đi. Tất cả Thuyền Nhân bước chân lên chiếc ghe nhỏ xíu để ra biển cả, đều biết thật rõ, chiếc thuyền của mình có thể chìm bất cứ giờ nào. Chết máy, lạc hướng, gió bão, chết khát, hải tặc và thuyền vỡ luôn luôn rình rập đe dọa mạng sống của mình. Tuy giờ này chưa có con số chính xác, nhưng nếu 1 triệu người tới được bờ tự do, thì con số tử vong cũng đã tới nửa số đó.
Như vậy, mới thấy thứ chế độ cộng sản mà Người Việt bỏ trốn, không phải chế độ của con người, không phải là thiên đàng như cộng sản thường rêu rao, mà là một xã hội man rợ. Khi thế giới chứng kiến cảnh liều chết vượt biển của Thuyền Nhân Việt Nam trên những con thuyền nhỏ nhoi mong manh giữa biển cả, thì không phải họ chỉ thương cảm bình thường giữa Người và Người, mà bắt buộc phải thấy được phần nào sự bất bình thường của cái chế độ mà Thuyền Nhân đã phải ra đi. Phong trào vượt biển tìm tự do của Người Việt kéo dài gần 20 năm, và có mặt hầu khắp thế giới. Phong trào này diễn tiến song hành với tiến trình sụp đổ của Thế Giới Cộng Sản. Khi Việtcộng chiếm được toàn bộ Việt Nam là lúc họ phải lựa chọn đi theo Nga hay theo Tàu? Cộng Sản Việt Nam dã theo Liênxô chống Trung Cộng. Việt Cộng nghe lệnh quan thầy Liên Xô đánh Khmer Đỏ, đàn em của Trung Cộng. Ngày 17-02-1979, Trung Cộng đem quân tràn sang Việt Nam “dạy cho Việt Cộng một bài học”. Liên Xô dàn quân ra biên giới Trung Hoa, buộc Trung cộng phải lui binh. Việt Cộng tiếp tục làm “nhiệm vụ quốc tế” đánh đuổi Khmer Đỏ, rồi sa lầy ở đó cho đến khi Khối Đông Âu sụp đổ. Ngày 09-11-1989, bức tường Bá Linh bị phá bỏ. Ngày 03-09-1990 Việtcộng quay lại thần phục Trung Cộng. Năm 1991 Liên xô tan rã. Ngày 12-06-1992, nước Nga Dân Chủ ra đời. Kết thúc công đoạn “Dùng Cộng Diệt Cộng” của chiến lược toàn cầu Mỹ, mà Việt Nam lại là một quân cờ thí trong kế hoạch quá lớn ngoài tầm hiểu biết của mình. Nhưng việc Thuyền Nhân góp phần giúp cho thế giới thấu hiểu rõ chân tướng tàn độc phi nhân của người và chế độ Cộng Sản thì tất cả đều thấy được.

Không có nhận xét nào: