Bắt Trẻ Đồng Xanh
Trong những ngày gần đây ai nấy chỉ những xôn xao về chuyện ngưng chiến: Bao lâu nữa nhỉ? Làm gì bây giờ?
Trong
bao nhiêu năm trời, chúng ta đã quen với nếp sống chiến tranh đến nỗi
hòa bình làm chúng ta bối rối. Nhưng thiết tưởng ngưng chiến không đáng
làm chúng ta bận tâm đến thế. Chiến tranh này sắp kết thúc, bằng cách
này hay cách khác, hoặc sớm hơn một ít hoặc chậm hơn một ít. Chuyện phải
đến rồi sẽ đến, nó xảy đến ra sao dường như cũng đã được trù liệu.
Bộ đội tập kết ra Bắc, 1954
Cái đáng bận tâm là những điều tiếp theo cuộc ngưng chiến ấy.
— Thì các vị lãnh đạo của chúng ta đã tiên liệu rồi: đấu tranh chính trị chứ gì? kinh tế hậu chiến chứ gì?
Đấu
tranh chính trị, nó hiển nhiên quá, nó sờ sờ ra đấy, tưởng như rờ mó
được. Nói rằng trong giai đoạn tới ta với cộng sản phải đấu tranh chính
trị với nhau, nói thế gần như không phải là tiên liệu gì ráo. Đó là đối
phó. Chuyện ấy đến ngay trước mắt rồi, ta buộc lòng phải đối phó tức
khắc, thế thôi.
Nhưng nói thế còn là khá. Hầu hết mọi người chỉ chăm vào những cái gần hơn nữa: hàng mấy trăm ký giả mỗi tuần bu đến phòng họp báo của các phái đoàn Hoa Kỳ và Bắc Việt để ghi lấy dăm ba câu tuyên bố loanh quanh, các bình luận gia khét tiếng của báo này báo kia, đài này đài nọ bóp trán suy đoán xem lúc nào thì ngưng oanh tạc dưới vĩ tuyến 19 v.v… Thiên hạ theo dõi ý kiến của họ.
Trong
lúc ấy nhóm lãnh đạo ở Hà Nội lặng lẽ lo liệu công việc mai sau: tức
một cuộc chiến tranh khác. Một cuộc chiến tranh quân sự hẳn hòi. Và họ
tiến hành thực hiện chuẩn bị, ngoài sự chú ý của dư luận: các bình luận
gia có tiếng, khét hay không khét, gần như không mảy may quan tâm đến
chuyện ấy.
Thế
mà đó mới là chuyện đáng quan tâm. Thiết tưởng là chuyện đáng quan tâm
hơn cả vào lúc này. Bởi vì nếu ta mù tịt về ý định của đối phương trong
tương lai thì trong cuộc đối thoại thương thuyết với họ hiện thời ta làm
sao biết đặt ra những điều kiện cần thiết?
Cuộc
bắn giết sắp tới giữa Miền Nam và Miền Bắc đã được cộng sản xếp đặt từ
lúc này, cũng như cuộc bắn giết thê thảm mười năm qua được họ xếp đặt từ
trước tháng 7-1954, trước ngày đình chiến theo hiệp định Genève.
Thượng
tuần tháng 7-68 một nhóm luật gia họp ở Grenoble buộc Hoa Kỳ vào tội
gây chiến tại Việt Nam. Sau đó, nhóm luật gia tranh đấu chính trị Việt
Nam họp tại Sài Gòn cãi lại: Mặt trận Giải phóng Miền Nam đã thành lập
từ năm 1958 và ra mắt ngày 20-12-1960, còn người lính Mỹ đầu tiên chỉ
mới tử trận trên lãnh thổ Miền Nam ngày 22-12-61.
Người
của pháp luật, họ cãi lý với nhau, họ bắt bẻ nhau như thế. Không hiểu
sao họ chỉ nói tới Mặt trận Giải phóng Miền Nam. Trước họ, nhiều người
đã đi ngược lên tới Mặt trận Tổ quốc, và xa hơn Mặt trận Tổ quốc: tới
cái nghị quyết của đảng Lao động đã đẻ ra Mặt trận này.
Mặt
trận này, mặt trận nọ…, đó là những bằng chứng đã có tên gọi. Chờ cho
cộng sản đặt tên rõ ràng các hoạt động của họ mới chịu cho rằng họ hoạt
động tức là nghĩ tệ về họ nhiều quá. Họ đâu có chậm chạp như vậy? Trước
những hoạt động có tên gọi đã từng xảy ra nhiều hoạt động không tên gọi,
và trước cả các hoạt động không tên là những toan tính xếp đặt kỹ càng.
Khi
họ nhận thấy không thể thanh toán cả nước Việt Nam một lần, mà phải
chấp nhận điều đình với Pháp để giữ lấy nửa nước, thì họ đã đặt ngay vấn
đề: còn lại nửa nước kia, phải giải quyết ra sao? Và họ đặt kế hoạch
“giải quyết”, cùng lúc với kế hoạch điều đình. Nghĩa là vào năm 1954,
chứ không phải năm 1958.
Thật
vậy, hiệp định đình chiến vừa ký kết, thì những điều khoản ngưng cuộc
chiến tranh bấy giờ được họ thi hành đồng thời với những điều chuẩn bị
cuộc chiến tranh sau. Đồng thời, không muộn hơn một ngày nào.
Lúc
ấy chính quyền quốc gia lo đùm túm kéo nhau vào Nam, và tổ chức cuộc di
cư cho đồng bào Miền Bắc. Di cư là đi cả nam lẫn nữ, cả già lẫn trẻ:
công chức già thì vào theo nhà nước để lãnh hương hưu, các cụ cố thì
theo con cháu vào để được nuôi nấng và chết giữa đám con cháu v.v…
Bộ đội tập kết ra Bắc, 1954
Cũng lúc ấy, cộng sản lo liệu công việc của họ có lớp lang:
— Vũ khí, họ chôn giấu lại một số ở Miền Nam;
—
Cán bộ và binh sĩ, họ chọn lựa một số cho ở lại: có hạng được bố trí để
len lỏi vào các cơ quan quốc gia, có hạng trở về cuộc sống thường dân
chờ thời cơ, có hạng đổi vùng để hoạt động, có hạng vừa lẩn trốn vừa bám
lấy địa phương để hoạt động v.v…
—
Địa chủ, phú nông, trót bị ngược đãi tù tội, đều được tha thứ, giải
thích, dỗ dành để xóa bỏ hận thù. Những thành phần không dỗ dành được
thì họ thủ tiêu, vì xét nguy hiểm đối với tính mạng những cán bộ nằm
vùng của họ;
—
Tập kết theo nguyên tắc: Đưa ra Bắc hạng trai trẻ có thể làm việc đắc
lực và sản xuất giỏi cùng hạng có uy tín có khả năng; bỏ lại trong Nam
hạng lão nhược có thể làm một gánh nặng cho quốc gia. Cố ý gây phân ly
chia cách, làm thế nào để mỗi gia đình đều có kẻ đi người ở;
—
Gấp rút tạo thêm nhiều liên hệ giữa thành phần tập kết ra Bắc và dân
chúng Miền Nam: đặc biệt là tổ chức những đám cưới cấp tốc khiến cho
hàng chục vạn binh sĩ và cán bộ Việt cộng ra đi bỏ lại trong Nam bấy
nhiêu cô vợ trẻ, có những cô chỉ ăn ở với chồng được đôi ba hôm.
Bấy
nhiêu cô vợ trẻ và gấp đôi gấp ba chừng ấy cha mẹ già cùng cô cậu chú
bác v.v… là một lực lượng đáng kể. Bằng chính sách tập kết và gây liên
hệ này, cộng sản cưỡng bức một số người về sau phải làm nội tuyến cho
chúng.
Ngay
từ đầu, tình cảm của những người này đã hướng về Bắc, theo bóng kẻ thân
yêu. Thái độ và hoàn cảnh éo le của họ khiến nhà chức trách địa phương
lo ngại, đề phòng. Do đó, họ thành một khối người dần dần sống cách
biệt, nếu không là đối lập với chính quyền miền Nam. Một vài trường hợp
đối xử vụng về bị khai thác, một vài sự hiểu lầm bị xuyên tạc: thế là
mâu thuẫn giữa hai bên trở thành trầm trọng. Rồi một ngày kia, chuyện
được tính trước sẽ xảy ra. Xin thử tưởng tượng: gia đình có đứa con hay
người chồng ra Bắc năm 1954, hai năm sau, một đêm nào đó, có kẻ lạ mặt
lẻn vào nhà, lén lút trao cho xem một lá thư và một tấm hình mới nhất
của con hay của chồng từ Bắc mang vào, gia đình nọ làm sao nỡ tố giác kẻ
lạ mặt, dù biết họ đang gây loạn. Đã không tố giác được, tất phải che
giấu, nuôi dưỡng mối liên lạc. Từ việc này đến việc khác, gia đình nọ
dần dần đi sâu vào sự cộng tác với tổ chức bí mật của đối phương, chịu
mệnh lệnh của họ, rốt cuộc gia nhập hẳn vào hàng ngũ của họ.
Chính
vì như thế mà thư từ hình bóng của cán binh tập kết có giá trị đặc biệt
quan trọng: những năm 1956, 57, 58, cán bộ từ ngoài Bắc xâm nhập vào
hoạt động, trong người họ bao giờ cũng mang theo một số thư từ, hình
bóng của cán binh tập kết. Đó là lợi khí hết sức đắc dụng giúp họ đặt
các cơ sở quần chúng đầu tiên.
Gây
được cơ sở quần chúng, vận động được sự đóng góp số lương thực tiền bạc
cần thiết để nuôi quân rồi, bấy giờ các lực lượng vũ trang tại chỗ bắt
đầu được thành lập, các lực lượng vũ trang ngoài Bắc kéo vào. Sau đó mới
có cái Mặt trận Giải phóng ra đời.
Như
vậy, cuộc chiến hiện nay không hề khởi đầu từ những bất mãn chống một
chế độ độc tài gia đình trị, không hề khởi đầu từ sau việc chính quyền
Sài Gòn từ chối cuộc tổng tuyển cử 1956, không hề khởi đầu từ ngày khai
sanh mặt trận nọ mặt trận kia.
Tàu
Ba Lan Kilinsky chở bộ đội và thiếu nhì ra Bắc rời bến tại vàm sông Ông
Đốc, Cà Mau, 1955. Lê Duẩn lên tàu này giả vờ làm như đi tập kết ra Bắc
theo như qui định của Hiệp Định Genève rồi ban đêm đi xuống ca nô quay
trở về đất liền, ở lại miền Nam để chỉ đạo cuộc nổi dậy lật đổ chế độ
miền Nam sau này
Cuộc chiến này xuất hiện ngay từ những cuộc liên hoan chia tay giữa kẻ ở người đi trong thời hạn 300 ngày tập kết, những cuộc liên hoan có hát có múa, có bánh trái tiệc tùng… Nó xuất hiện ngay từ những đám cưới vội vã sau ngày đình chiến, những đám cưới lắm khi tổ chức tập thể, do trưởng cơ quan, trưởng đơn vị chủ tọa. Nạn nhân đầu tiên của cuộc chiến này không phải là những kẻ ngã gục vào 1958, 1959, mà là những cô gái tức khắc biến thành góa bụa từ 1954.
Dân
chúng Miền Nam ai nấy đều biết những bận rộn tới tấp, những công việc
bề bộn ngổn ngang mà nhà cầm quyền cộng sản hồi ấy phải làm cho kịp
trước khi rút ra Bắc. Trong hoàn cảnh rộn ràng bấy giờ, nếu không vì lý
do quan trọng, chắc chắc đảng và nhà nước cộng sản hồi ấy không đến nỗi
quá sốt sắng lo cưới vợ cho cán binh như thế. Chắc chắn. Dù tìm trong
bất cứ thời kỳ lịch sử nào của bất cứ dân tộc nào, cũng hiếm thấy một
trường hợp chính phủ lo vợ cho quan binh túi bụi đến chừng ấy.
Cũng
như hiện nay, trong giai đoạn ác liệt sau cùng của chiến cuộc tại miền
Nam này, nếu không vì lý do quan trọng, đảng và nhà nước cộng sản nhất
định không bao giờ khổ công gom góp thiếu nhi ở đây đưa ra Bắc, trải qua
bao nhiêu gian nan khó nhọc, trong những điều kiện di chuyển nguy hiểm
đến nỗi cả các binh sĩ khỏe mạnh của họ cũng phải hao mòn suy kiệt dọc
đường.
Đưa
thiếu nhi Miền Nam ra Bắc, không phải cộng sản họ nhằm làm nhẹ một gánh
nặng nuôi dưỡng, giúp các ông tổng trưởng Kinh tế hoặc Xã hội của chúng
ta. Mọi người đều rõ, tại Bắc Việt và Trung Cộng, người ta tiết giảm
sinh sản rất gắt gao: họ hạn chế hôn nhân, hạn chế luyến ái.
Đưa
thiếu nhi Miền Nam ra Bắc, cũng không phải cộng sản họ nhằm giúp ông
tổng trưởng Giáo dục của chúng ta một tay để giải quyết nạn thiếu trường
ở trong này.
Trong
giới quan sát nhiều kẻ bảo rằng Bắc Việt kiệt quệ rồi, không đủ sức kéo
dài chiến tranh nữa, họ bối rối lắm, luống cuống lắm. Dù không tin vào
nhận định ấy, ít ra cũng phải chịu rằng lúc này họ bận trăm công nghìn
việc, nếu chuyện bắt trẻ Miền Nam không có một tầm quan trọng đặc biệt
thì họ không hơi đâu nghĩ đến. Đàng này họ đang ra sức thực hiện một kế
hoạch bắt trẻ qui mô trên một phạm vi hết sức rộng lớn: đồng loạt, người
ta phát giác ra trẻ em bị bắt ở khắp nơi trên toàn quốc Việt Nam Cộng
hòa, từ Quảng Trị, Thừa Thiên, Pleiku, Kontum, đến Mỹ Tho, Cà Mau, người
ta gặp những toán trẻ em chuyển ra Bắc Việt bằng phi cơ từ Cam-bốt,
hoặc bị dẫn đi lũ lượt trên đường mòn Hồ Chí Minh, nghĩa là bằng mọi
phương tiện, một cách gấp gáp.
Họ
bổ sung quân số đó chăng? — Không đâu. Trẻ bị bắt có hạng mới tám chín
tuổi. Trong những trường hợp khẩn cấp, họ có thể tạm sử dụng một số trẻ
con bắt được ngay tại địa phương; chứ thành lập những đơn vị con nít như
thế để dùng ngay vào chiến cuộc này là chuyện điên rồ. Không phải bổ
sung quân số đưa vào chiến cuộc đang kết thúc đâu, mà là họ đang tổ chức
chiến cuộc mai sau đấy.
Bộ dội tập kết ra Bắc, 1954
Đem
chút ít kinh nghiệm về lần trước để suy nghiệm về lần này, chúng ta
thấy trước dăm ba điều họ sẽ làm sau khi thỏa ước ngưng chiến được ký
kết:
—
Họ sẽ bỏ lại Miền Nam tất cả những thương phế binh, những cán bộ lâm
nạn, tàn tật v.v… Mang mỗi phần tử vô dụng như thế về Bắc chỉ gây thêm
xúc động tâm lý trong quần chúng ngoài ấy; để hạng ấy ở lại, họ tạo thêm
gánh nặng cho kinh tế Miền Nam;
—
Lúc cuộc “chiến tranh chính trị” mà các nhà lãnh đạo Miền Nam vẫn nói
được bắt đầu, thì bao nhiêu ức vạn gia đình có con cháu ra Bắc (và những
cô gái có chồng lính cưới vội cưới vàng trước khi về Bắc nữa) hóa ra
những thành phần mà chánh quyền ta không sao lôi kéo tranh thủ nổi. Lòng
họ hướng về những con tin ở ngoài Bắc, phân nửa sinh mạng họ do nhà
đương cuộc Miền Bắc định đoạt. Thái độ của họ khiến nhà chức trách địa
phương có thể phạm vào vài biện pháp kỳ thị vụng về: thế là phát sinh
mâu thuẫn, bất mãn, chống đối v.v…
—
Một ngày nào đó, những cán bộ từ Bắc lại lén lút xâm nhập , mang theo
thư từ của con, của chồng họ: họ mừng như mở cờ trong bụng. Họ bắt tay
cộng tác với những cán bộ nọ, cùng nhau hoạt động để tạo điều kiện cho
chồng con họ sớm trở về ồ ạt theo những đơn vị Nam xâm v.v…
Cán
binh gốc người Miền Nam đưa ra Bắc, rồi lại phái trở vào có nhiều cái
lợi: khi được lệnh vào Nam hoạt động, họ mừng rỡ vì có cơ hội về quê; họ
ra đi lặng lẽ, không có bà con thân thuộc ở Bắc nên không gây xao xuyến
gì trong dân chúng, vừa giữ được yếu tố bí mật vừa tránh được tác động
tâm lý bất lợi; họ lại được mong chờ đón đợi ở Miền Nam; và họ thông
thạo am hiểu về dân tình cùng địa thế Miền Nam.
Như
thế, chủ trương bắt đám trẻ em ở miền đồng bằng Nam Việt bát ngát, phì
nhiêu đem ra xứ Bắc đông người đất hẹp, nhà cầm quyền Hà Nội chính đang
bắt đầu chiến cuộc mai sau ngay từ lúc này, lúc mà chúng ta còn đang xôn
xao mong ước ngưng chỉ chiến cuộc hiện tại. Nói họ bắt đầu lúc này cũng
chưa đúng: thực ra các tài liệu về “Vấn đề gửi các cháu ra Miền Bắc” đã
được phổ biến trong hàng ngũ cộng sản từ tháng 4-68, và thúc giục thực
hiện trước mùa mưa năm nay. Tháng 4-68, tức là liền ngay sau khi tổng
thống Mỹ mở miệng thốt ra vài dấu hiệu tỏ ý xuống thang chiến tranh để
đi tới điều đình.
Điều
đình để nghỉ ngơi, đối với Mỹ và chúng ta là thở ra một hơi dài nhẹ
nhõm. Điều đình đối với cộng sản là bỏ cuộc nửa chừng, là đành không ăn
được keo này. Thua keo này họ bày liền keo khác ngay, vì ngưng chiến thế
nầy, theo họ, là một sự dở dang, là chưa hoàn tất công việc. “Thế này
rồi thôi luôn hả? Nói thế mà nghe được! Sao có thể quan niệm một cách
giải quyết giản đơn, vô duyên đến thế?”
Ý
tưởng về ngưng chiến của chúng ta dính liền với một mơ ước xây dựng:
bao nhiêu tỷ bạc cho Miền Nam, bao nhiêu tỷ bạc cho Miền Bắc, trao đổi
kinh tế ra sao, trao đổi văn hóa thế nào v.v… Ý tưởng về ngưng chiến của
cộng sản dính liền với một kế hoạch tấn công quân sự. Và những nạn nhân
đầu tiên của trận chiến tương lai là những đứa bé con và bố mẹ chúng đã
chịu đau thương từ sáu tháng qua rồi. Trận chiến tranh tương lai đã
chọn nạn nhân của nó trong đám trẻ thơ, đàn bà Miền Nam, để biến họ
thành con côi vợ góa. Xong rồi. Việc đã bắt đầu từ nửa năm nay rồi.
Trước
một đối thủ như thế, thái độ của những chính khách Việt Mỹ hằng ngày
đấm ngực đồm độp, băn khoăn, tự trách mình cái lỗi không kết thúc được
chiến cuộc, thái độ ấy ngây ngô đã đành. Thái độ của những người hớn hở
với một kế hoạch kinh tế hậu chiến nào đó, nghĩ cho cùng cũng mỉa mai
tội nghiệp: liệu rồi hưởng được mấy năm hòa bình trước mắt mà hí hửng
tính chuyện xây dựng, mà mơ cảnh thịnh vượng? Rồi đến thái độ của những
kẻ nhìn xa để báo động về một cuộc chiến tranh chính trị: bảo rằng đối
phương rồi đây chỉ có hoạt động chính trị, như vậy không khác gì chỉ vào
con cọp mà gọi là con chó. Gần như tự lừa mình, như giúp địch ngụy
trang.
Dù
cho chỉ có chiến tranh chính trị với nhau, đố ai, đố đảng phái nào,
liên minh nào, phong trào nào của chúng ta mà thuyết phục được mấy vạn
ông bà cha mẹ có con cháu ở Bắc, mấy vạn góa phụ có chồng ở Bắc, thuyết
phục được họ thành thực theo ta? Chỉ nắm lấy chừng ấy vạn người, cộng
sản Bắc Việt đã có trong tay một lực lượng to lớn hơn mọi đoàn thể chính
trị của chúng ta, lực lượng nằm ngay trong lòng quần chúng ta, hàng ngũ
ta, mà hoạt động. Ấy là chỉ so sánh về lượng. Mặt khác, trong số các
đoàn viên phong trào quốc gia, đảng viên quốc gia v.v… hạng thực sự
nhiệt thành vì lý tưởng được bao nhiêu? Và riêng trong hạng nhiệt thành
có được bao nhiêu kẻ mà lòng thiết tha đối với lý tưởng có thể mạnh hơn
lòng thiết tha với chồng con của những phần tử bị cộng sản lợi dụng kia?
Dù
cho chỉ có đấu tranh chính trị với nhau thôi, chúng ta đã bất lợi như
thế. Huống chi đó chỉ là hành vi tốt lành lương thiện mà ta gán cho đối
phương. Còn họ…, nếu vạn nhất trong thời gian năm bảy năm sắp tới mà đất
nước này thoát khỏi một trận chiến tranh nữa, thì đó là ý trời, không
phải là ý của họ đâu.
Ý của họ, nó tàn nhẫn đến nỗi chúng ta không dự liệu tới, không tưởng tượng được. Đó là chỗ nhược của ta.
Khóc thân nhân bị giết tại Huế trong trận Tổng Công Kích Tết Mậu Thân 1968
Năm
1954, sau chín năm ê chề mòn mỏi vì chiến tranh, thấy hòa bình ai nấy
nhẹ nhõm; nếu có kẻ nào lúc đó mà xếp đặt một cuộc tàn sát nữa, kẻ ấy
tất gan đồng dạ sắt. — Thì Hồ Chí Minh đã xếp đặt cuộc tàn sát ngay vào
thời kỳ ấy.
Năm
1968, sau hăm ba năm chiến tranh thảm khốc, nghe nói hòa bình mọi người
mừng rơn. Nghĩ tới hàng triệu người đã bỏ thây trong thời gian qua, ai
cũng tưởng làm người Việt Nam mà có kẻ dám để ý nghĩ mon men đến chiến
tranh nữa, kẻ ấy thật mặt dày mày dạn, tán tận lương tâm. — Thì Hồ Chí
Minh chính đang xếp đặt thêm một cuộc chiến tranh.
Vậy
mà ông ta vẫn an nhiên hưởng sự trọng vọng của bao nhiêu người, kể cả
người Việt Nam! Cho hay cái sản phẩm quái dị của thế kỷ văn minh này là
tuyên truyền chính trị, nó có một ma lực mê hoặc phi thường. Không phải
thứ tuyên truyền yếu ớt vận dụng một cách khó khăn trong khung cảnh các
nước tự do, mà là thứ tuyên truyền một chiều, qui mô, toàn diện, có thể
sử dụng các quyền lợi kinh tế hỗ trợ cho nó như ở tại các quốc gia độc
tài: Nga xô, Trung cộng, Bắc Việt, Đức quốc xã v.v…
Trẻ
em và thường dân bị chết trong một vụ ném lựu đạn của đặc công Cộng Sản
ngày 26-10-1962, là ngày Quốc Khánh dưới thời Ngô Đình Diệm. Tại trước
tòa Đô Chánh Sài Gòn (Ủy Ban Nhân Dân Thành Phố ngày nay) có trưng bày
một chiếc trực thăng. Đặc công Cộng Sản ném lựu đạn vào những người đang
đứng xem chiếc trực thăng này làm 7 người chết, 47 người bị thương.
Kẻ vừa ném lựu đạn ngày 26-10-1962 vào đám đông bị người xung quanh xúm lại đánh trước khi cảnh sát đến bắt giữ
Và
Hồ Chí Minh không phải chỉ được thứ tuyên truyền ấy xóa cho mình cái
chân tướng hiếu sát phi nhân. Ông ta còn hóa thành thiên tài lỗi lạc
dưới mắt nhiều người vì đã tổ chức giặc giã trong một phần tư thế kỷ để
giành nửa nước, trong khi tại khắp các nước Á Phi, những lãnh tụ bất tài
nhất cũng dần dần thu hồi được độc lập toàn vẹn cho quốc gia họ với
những tổn thất nhẹ hơn nhiều. Ông ta còn hóa thành chính trị gia khôn
ngoan, thành “cha già dân tộc” dưới mắt nhiều người, trong khi ở các xứ
khác cùng lâm vào tình trạng lưỡng phân không có chính quyền nào nỡ giải
quyết tình trạng một cách vô hiệu mà bất nhân đến thế, trải bao nhiêu
năm cứ nhất mực khăng khăng chủ trương hết cuộc tàn sát này đến cuộc tàn
sát nọ, không một mảy may sờn lòng xúc cảm trước cảnh chết chóc thê
thảm làm cho cả nhân loại đều ái ngại.
Giáo sư Nguyễn Văn Bông bị đặc công Cộng Sản ám sát ngày
10-11-1971 bằng cách ném mìn và lựu đạn vào dưới gầm xe. Bên trên là
ảnh hai người thực hiện vụ ám sát: Vũ Quang Hùng và Lê Văn Châu
Người
như thế, không biết lòng dạ ra sao, tim óc ra sao. Bảo rằng cùng trong
một người, vừa chứa đầy những kế hoạch xua ngay đồng bào mình vào chiến
tranh liên tiếp vừa có chỗ cho tình yêu thương đồng bào, thật không thể
hiểu thấu.
Những
lời trên đây không được nhã nhặn. Quả thật không nhã nhặn. Và kẻ viết
ra phải lấy làm ngượng về lời lẽ mình. Nhưng khi mình là dân một nước đã
trải qua bao nhiêu năm khói lửa, rồi lại trông thấy trước mặt một viễn
tượng đầy máu me, khi ấy nói về kẻ gây thảm họa thật khó giữ lòng bình
thản để nói lời tao nhã.
Du
kích Cộng Sản bắt cóc, ám sát các viên chức xã ấp, chặt đầu để làm cho
người dân sợ hãi không dám cộng tác với chính quyền miền Nam. Tấm ảnh
này ngày xưa đã được đăng trên báo ở miền Nam
Ảnh một người bị du kích Cộng Sản giết
Có
thể nào không giận? Ông ta bảo phải đeo đuổi cuộc tàn sát nọ là vì
nguyện vọng dân tộc? — Trời, dân tộc này ai cũng xưng biết rõ vanh vách
nguyện vọng, ai cũng đòi hành động nhân danh nguyện vọng dân; có điều
mỗi người nêu lên một nguyện vọng khác nhau, hoàn toàn khác nhau, lắm
khi mâu thuẫn nhau. Đâu là nguyện vọng đích thực, để hồi sau phân giải.
Cái chắc chắn là dân tộc này không hề nằng nặc thiết tha với cộng sản
đến nỗi chịu chết năm ba thế hệ liên tiếp để rước kỳ được chế độ ấy về.
Vả ông ta chừng ấy tuổi tác rồi, tai nghe mắt thấy đã nhiều, từng trải
việc đời đã nhiều, ông ta đâu còn ngây thơ mà quáng mắt vì những danh từ
khoác lác, những hứa hẹn hão huyền xa xôi của một chủ thuyết. Ông ta
hẳn thừa rõ những gì đê tiện xấu xa xảy ra phía sau các khẩu hiệu tuyên
truyền, thừa rõ sống ở Đông Đức đâu bằng ở Thụy-điển, Hòa-lan, thừa rõ
con đường từ Hung-gia-lợi, Lỗ-ma-ni tiến đến dân chủ và hạnh phúc, phải
xa hơn con đường từ Thụy-sĩ, Phần-lan.
Cảnh một trong những vụ đặt chất nổ tại Sài Gòn vào những năm 1965 - 1967
Mà
dù ông ta có không nghĩ như thế, có cho rằng Tiệp-khắc sung sướng và tự
do hơn Thụy-điển đi chăng nữa, thì sự hơn thua chút ít cũng không đến
nỗi bắt phải đổi lấy bằng ba bốn cuộc chiến tranh trong đôi ba mươi năm
liền. Đáng lẽ ông ta để cho dân tộc nhỏ bé đã chịu quá nhiều đọa đày vì
ngoại thuộc này được yên thân để làm ăn, để sống cho ra sống trong ít
lâu.
Đã
không vì nguyện vọng, quyền lợi dân tộc, ông ta hành động vì lẽ đảng
ông ta nhất định phải thắng các đảng khác, vì lẽ người như ông ta không
chịu thất bại nửa đường?
—
Chừng ấy tuổi tác rồi, lẽ nào vì tranh hơn tranh thua, mà ông mạnh tay
sát hại đồng bào không xót thương đến thế? Người ta có thể vì tức khí,
nóng giận mà tàn nhẫn, vung tay quá đà. Đó là chuyện nhất thời. Còn ông,
ông dai dẳng quá.
Vì cuồng tín chăng? Vì tự ái chăng? Vì cái gì ông ta cũng đáng trách đáng giận quá.
Nhưng
trong vấn đề này, trách móc với giận hờn đâu có ăn thua gì. Một biểu
thị tình cảm: thật vu vơ, vô hiệu. Ăn thua chỉ có chiến lược thâm hiểm,
hành động thích hợp. Lời nói — dù nhã hay bất nhã — rồi sẽ bay đi theo
mây gió. Chỉ có hành động mới sửa đổi được tình thế. Mà hành động thì…
Xe
đò chở thường dân cán phải mìn do Cộng Sản gài trên Quốc Lộ 1 gần Trảng
Bàng, Tây Ninh ngày 30-4-1967 làm 1 người chết, 20 người bị thương. Khi
chiếc xe đò này gặp một chiếc cầu đã bị Cộng Sản đặt mìn phá sập bèn
quay đầu lại thì cán phải mìn gài ở trước chiếc cầu sập.
Thì
rồi chắc chắn ở phía bên này thoạt tiên ai nấy sẽ nhảy lên mừng hòa
bình, rồi tiếp sau đó sẽ bất đồng cãi cọ nhau ỏm tỏi về chuyện xây dựng,
sẽ tranh nhau làm ăn tới tấp. Cùng lắm, lâu lâu sẽ có người sáng suốt
nhắc khẽ đến chiến tranh chính trị. Thế thôi.
Trong
lúc ấy Bắc Việt lặng lẽ điều khiển cán bộ của họ ở trong nầy âm thầm
nhen nhóm cơ sở. Rồi đôi ba năm sau, một ngày nào đó xét thấy thuận
tiện, họ cho lệnh bùng nổ. Thế là chiến tranh tái diễn.
Chiến
tranh tái diễn: mọi người trên thế giới đang sống an lành bỗng bị quấy
rầy, bị ảnh hưởng, có một số bị lôi cuốn vào chiến cuộc, lấy làm lo
ngại, bực mình, quay đầu về cái xứ lắm chuyện này nhìn bằng cái nhìn xoi
mói, nghiêm khắc, trách vấn: “Rầy rà thật! Ra cái xứ ấy tệ thật, tự xử
không nên thân. Loạn lạc này đích thị do độc tài, tham nhũng, bất công,
kỳ thị tôn giáo v.v… khiến dân chúng bất mãn nổi lên chống chế độ. Dung
dưỡng những chính quyền, những chế độ như thế chỉ tổ tai hại v.v…”
Chiến
tranh ác liệt thêm: lương tâm nhân loại bị xúc phạm, các nhà triết học
gọi nhau họp ở Thụy-điển, các luật gia rủ nhau họp ở Grenoble v.v… trịnh
trọng suy tư, trịnh trọng bàn cãi, rồi lên án, kết tội v.v… Trong khi
ấy các lãnh tụ Hà Nội họ chỉ cần khéo che miệng nín cười. Đó là điều
quan trọng: họ không được phép cười. Họ không được phép chế giễu lương
tâm và trí thông minh của loài người. Họ không được vô lễ; họ chỉ được
tiếp tục đánh thật mạnh.
Bộ trưởng Y Tế Lê Minh Trí bị Cộng Sản ám sát lúc 7 giờ 50, ngày 6-1-1969 tại góc đường Nguyễn Du - Hai Bà Trưng
Cứ
thế cho đến khi hoặc chúng ta chịu không nổi những đòn đánh từ bên
ngoài và những dằn xóc từ bên trong, chúng ta bỏ cuộc và cộng sản tiến
đến Cà Mau; hoặc bên phía chúng ta cùng đồng minh có những kẻ thật chì,
cộng sản liệu ăn không nổi, thế là lại điều đình và lại xếp đặt một kế
hoạch khác… Như vậy không biết đến bao giờ.
Còn
ba mươi hai năm nữa, chúng ta bước sang thế kỷ XXI. Nhiều người xem như
bước sang một kỷ nguyên mới, một nền văn minh mới: con người sẽ không
chỉ biết có quả đất, nhiều quốc gia sẽ tiến đến nền kinh tế kỹ nghệ hậu.
Đó chưa hẳn là cực lạc, nhưng cũng là cái gì vượt xa tình trạng hiện
tại. Thiên hạ nô nức đua nhau tiến đến mặt trăng, đến kinh tế kỹ nghệ
hậu. Như thể cá vượt Vũ Môn.
Riêng
dân tộc chúng ta, ba mươi hai năm nữa e vẫn còn đánh nhau, nửa nước túm
lấy nửa nước dìm nhau trong bể máu. Các dân tộc, bất cứ da đen hay da
đỏ, đều có thể nô nức, hy vọng ở thế kỷ XXI. Riêng chúng ta, chúng ta
chỉ còn có mỗi một điều để đón đợi: là hết chiến cuộc này đến chiến cuộc
khác, nếu Hà Nội không từ bỏ quyết tâm của họ. Và cho đến bây giờ, họ
chưa có dấu hiệu từ bỏ.
Hỡi
các em bé của đồng bằng Nam Việt xanh ngát bị bắt đưa đi, từng hàng
từng lớp nối nhau dìu nhau ra núi rừng Việt Bắc! Riêng về phần mình, các
em đã chịu côi cút ngay từ lúc này; còn đất nước thì sẽ vì những chuyến
ra đi của các em mà lâm vào cảnh đau thương bất tận. Tai họa hiện xảy
đến cho các em cũng là tai họa về sau cho xứ sở. Đã sáu tháng qua rồi.
Dù người ta có thôi dài cổ ngóng về Ba-lê, để nghĩ cách cứu các em, thì
cũng đã muộn.
Nhưng
đâu có ai chịu thôi ngóng chờ? Và trong không khí thấp thỏm chờ đợi hòa
bình, ngày ngày báo chí chỉ những rập rình từng thoáng tin ngưng oanh
tạc, tôi hướng về các em những ý nghĩ vô cùng buồn thảm, đen tối.
Võ Phiến
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét