30 năm qua, bao đổi thay, bao thống khổ chồng chất; Giờ đây trên đất khách tha hương, kẻ còn người mất! Ngồi ôn cố tri tân, nhớ đến bạn bè và chiến hữu thân thương, nhớ lại những trận chiến khi còn ở các đơn vị Nhảy Dù, tưởng chừng như mới hôm qua. a) Mặt trận Tại Thị Xã Quảng Trị: Sau nhiều ngày hành quân tìm và tiêu diệt địch dọc theo dãy Trường Sơn, phía Bắc sông Thạch Hãn, từ Đông Hà đến Đèo Ba Dốc thuộc tỉnh Quảng Trị. Rồi vào Huế ở Nam Hòa,Phú Thứ,La Vân, Đồng Xuyên, Mỹ Xá. Chiến đoàn Nhảy Dù được ngừng hành quân nghỉ ngơi ăn Tết tại những điểm quan yếu trong các Thị trấn. Tiểu Đoàn 2 và TĐ7ND đóng ở An Lỗ và Quảng Điền, Tiểu Đoàn 5 ND được điều động về Đà Nẳng.
<!>
Tiểu đoàn 9 chúng tôi đóng quân chung quanh thị trấn bảo vệ thành phố Quảng Trị. Đại đội 92 ở phía Đông Nam, Đại đội 94 bảo vệ làng Tri Bưu. Dọc bờ sông Thạch Hãn, phía Tây thành phố là Đại đội 93. Riêng Đại đội 91 của Đại úy Mễ, đóng chung với Đại đội Chỉ Huy Tiểu đoàn, làm thành phần trừ bị. Ngay ngày 30 Tết, Tiểu đoàn được “Mật lệnh” của Chiến đoàn Trưỏng Lê Quang Lưỡng, nghi ngờ rằng địch sẽ tấn công. Nên mặc dù hưu chiến, các đại đội cũng bung ra tuần tiểu, lục soát. Ban đêm lo đặt mìn định hướng Claymore, mìn chiếu sáng, và đào hầm hố chiến đấu phòng thủ cẩn thận. Trong khi Địa Phương quân, Nghĩa quân, Sư Đoàn 1 Bộ binh, hầu như xả trại (hoặc trốn trại) về nhà ăn Tết, tiểu đoàn chúng tôi được lệnh cấm trại chặt chẻ, đề phòng địch tấn công bất ngờ vào thị xã.
Mồng 1 Tết, khoảng 3 giờ khuya, nhằm lúc mọi người đang ngon giấc vì mệt mỏi bởi đêm qua say sưa chè chén trong các buổi tiệc dã chiến,đón Giao Thừa truyền thống đầu năm. Bỗng nhiên mọi người đều tỉnh giấc, vì súng địch đồng loạt khai hỏa khắp mọi nơi. Chúng tôi vội nhào ra hố chiến đấu và bắn trả mãnh liệt. Đại đội 92 phòng thủ dọc theo bờ làng, lúc đó sương mù dầy đặc, binh sĩ cứ bắn bừa ra ngoài đồng ruộng phía trước mặt. Qua máy truyền tin, tôi vô cùng sững sờ xúc động: Đại đội 94 đang bị địch tràn ngập. Ban Chỉ Huy Đại đội, ở trong nhà thờ Tri Bưu, bị tấn chiếm. Đại úy Thừa, Đại đội trưởng, viên Cố vấn Mỹ, Trung úy Lê Phát Lộc, và Nguyễn Văn Hổ, bạn đồng khoá 20 ĐL của tôi, đều bị hy sinh ngay từ đợt tấn công đầu tiên! Chuẩn úy Trần Ngọc Chỉ thấy địch quân quá đông, nên vừa chống trả vừa tìm cách hướng dẫn binh sĩ còn lại rút lui an toàn, tránh sự truy kích của địch quân.
Đại úy Thừa, tốt nghiệp khoá 8 Võ Khoa Thủ Đức, là một sĩ quan trẻ tuổi dũng cảm của sư đoàn Dù, đã lập rất nhiều chiến công hiển hách. Đặc biệt trong trận Đại Bàng 800 ở Vùng 2 Chiến Thuật, anh đã chỉ huy đại đội tấn công và truy sát địch, tịch thu được rất nhiều chiến lợi phẩm, vì thế Tướng tư lệnh Vùng đáp trực thăng tới gắn cấp bậc Đại úy đặc cách cho anh ngay tại chiến trường.Nguyễn văn Hổ rất tốt với bạn bè, chính anh lúc ở trong trường đã dạy tôi đờn vọng cổ bằng Tây ban cầm. Còn bạn Lê Phát Lộc thì rất hiền lành, tướng phúc hậu, hai trái tai dài thòng xuống như lỗ tai Phật, bạn bè ai cũng nghĩ anh có phúc tướng sẽ sống rất thọ, không ngờ chiến tranh thật tàn nhẫn, nó không nể vì một ai!
Thấy Đại đội 94 như vậy, chúng tôi hết sức cẩn trọng, dùng hỏa lực cá nhân và chỉ được yểm trợ bằng súng cối 60 ly cơ hữu. Không có pháo binh, hải pháo, hoặc không trợ hùng hậu, mà bất cứ cuộc hành quân thường lệ của các đơn vị nhảy dù nào cũng phải có.Sau nầy tôi mới biết,lúc đó anh Đồng Minh Mỹ định giả vờ làm ngơ, để thử tài 2 con gà chọi nhau.Thử xem Miền Nam có đủ sức tự lực tự cường, cho đàn anh dễ bề rút tay ra khỏi cuộc chiến đầy tốn kém. Tiện thể vồ anh Việt Cộng một vố lớn, chẳng biết mấy anh Bộ Chính Trị ngoài Bắc và Cục R trong Nam có biết không?
Hừng Đông vừa ló dạng, các trung đội tung ra lục soát và bắt sống hơn 10 tù binh. Quân địch toàn trẻ măng, khoảng 16,17 tuổi, nói giọng Quảng Bình, mặt mày đỏ ngây, ngơ ngơ ngác ngác. Sau nầy tôi mới biết họ đã dùng thuốc “Hùng Binh” của Trung Cộng chế. Thuốc nầy là loại kích thích, khi uống vào thì hăng máu và không hề sợ chết.
Đến 8 giờ sáng, Bộ Chỉ Huy Tiểu đoàn đang bị địch đe dọa tấn công, tôi nghe tiếng the thé của Đại úy Đỉnh, sĩ quan ban 3, gọi Thành “Râu”, kéo binh về tiếp viện. Thành Râu ra lệnh tôi dẫn nhanh trung đội, dọc theo Quốc Lộ 1, từ Ngả ba Long Hưng, hướng về Bộ chỉ huy Tiểu đoàn, gần cầu Thạch Hản, tiếp theo là trung đội của Thiếu úy Minh, và Chuẩn úy Khải. Chúng tôi đang đi trên Quốc lộ 1, vừa tới ngả tư đường về nhà thờ La Vang, gần BCH Trung đoàn 3 BB, thì địch bắn hàng loạt đạn, từ xóm nhà bên trái, tôi vội hô to:
- Địch phục kích trái!
Cả trung đội liền la:
- Xung phong!
Và lập tức nhào về hướng phát ra tiếng súng. Chúng tôi vừa bắn vừa hô xung phong vang rền cả khu vực, hai trung đội của Khải và Minh cũng bị lôi cuốn và hành động theo. Binh sĩ chạy vượt qua chòm nhà, vừa xả đạn vừa hô xung phong liên hồi, chúng tôi tiến mãi tới gò mả, giữa BCH Trung Đoàn 3 BB và bờ làng, thì gặp phải sức kháng cự mãnh liệt! Tôi và hạ sĩ Đình, mang máy truyền tin, vội nhào nhanh tới hố lỏm để tránh đạn. Áo field jacket bị bắn rách tung toé, tôi hoảng hốt vì không biết mình có bị thương hay không? (theo kinh nghiệm: vì đạn vô ngọt sớt nên khi bị thương, không có đau liền). Sau khi lấy lại bình tỉnh, tôi bắn yểm trợ cho Đình nhảy tới sau phên vách đất, rồi Đình bắn yểm trợ lại cho tôi. Quan sát lại thấy hơn 10 binh sĩ bị hy sinh! Có anh vừa bò tới nắm chân tôi vừa nói: “Trung úy ơi em bị thương!” miệng lẩm bẩm niệm kinh rồi từ từ lịm dần, khiến lòng tôi se thắt!! Đáng thương nhất là hạ sĩ
Lực, nhà ở làng Tri Bưu,mới cưới vợ ăn Tết hơn 2 tuần lễ, và binh nhất Thương, hằng ngày giúp tôi nấu cơm nhà binh tuy đạm bạc nhưng đầy hương vị đậm đà!!!
Lúc đó từ trong máy truyền tin, tiếng Thành Râu rồi anh Đỉnh, gọi thúc hối tôi dẫn 3 trung đội về BCH Tiểu đoàn. Nhìn lại xác anh em và súng chưa kịp lấy lại được, số thương binh nằm rải rác chung quanh. Hơn nữa danh dự binh chủng NhảyDù không thể nào để cho mất súng và mất xác,nhất là xác của các chiến hữu đã hằng ngày tíu tít quấn quít rất dễ thương, họ đã nhiều phen cùng hoạn nạn, cùng sinh tử, nên tôi quyết định cãi lại quân lệnh.
Tôi nói trong máy với anh Thành Râu:
- Thà là ra tòa án quân sự, tôi nhất định không rút, vì binh sĩ và xác chết còn kẹt ở đây. Rồi bảo Đình phụ nạp đạn, tôi đứng nơi vách đất, vừa nhắm bắn vừa điều động cả 3 trung đội. Minh và Khải thấy tôi la hét “Xung phong” cũng phụ giúp đốc thúc binh sĩ mình. Dựa vào vách đất, tôi có thể quan sát rõ địch đang núp từng chòm mả một; hễ tên nào ló đầu lên, tôi bắn ngay, khiến chúng hụp xuống. Nhờ vậy anh em 3 trung đội cứ nhích lên dần. Có thể nói đây là trận để đời của tôi, vì hầu như đánh xáp lá cà với lực lượng chính qui, đông đảo quân số của địch. Tôi vừa thúc hối 3 trung đội, bằng cách bắn dọa trên đầu họ, vừa hô xung phong, mà mỗi lần chỉ lên được vài bước. Tôi và Đình cách cây thượng liên của địch khoảng 15 thước (chỉ 15 thước nên thấy đầu nòng súng địch rõ mồn một) trong khi đó binh sĩ 3 trung đội dàn dài bên trái, phía sau tôi khoảng 10 thước.
Các binh sĩ đang còn e ngại hỏa lực địch, thì đột nhiên Binh nhứt Nguyễn văn Ba, y tá đại đội,bò sát lên trước và hạđược tên xạ thủ thượng liên, Ba dơ cao súng địch, khiến đồng đội phấn khởi, đứng lên vừa bắn vừa hô xung phong, đuổi địch ra khỏi nghĩa địa.Ba kể lại, khi xạ thủ thượng liên thấy anh chĩa súng bất ngờ, vội đưa hai tay lên, Ba vì súng bị kẹt đạn (lại là y tá nên hơi lạng quạng), anh lính quýnh không dám cho y đầu hàng,sợ hắn biết rồi bóp cò thượng liên, vì thế mới ném lựu đạn để tự vệ. Binh sĩ đại đội lo thu lượm súng và xác của bạn cùng rất nhiều súng địch. Tám lọ, anh hề của đại đội, ôm 1 bó súng to, toàn AK47 và B40. Đột nhiên 1 tên bên kia đường, tựa gò mả bắn qua, tôi nghe một tiếng “Rẹt”, đáy quần bị bắn rách, rờ thấy “Hắn” còn nguyên, đùi bị rướm máu, nhưng chỉ trầy da. Tôi vừa bắn trả cầm chân vừa ra lệnh rút về BCH Tiểu đoàn. Thật là hú hồn, giằng co suốt buổi, tôi đã đứng bắn hàng trăm viên đạn AR15, áo quần rách tả tơi, mà chỉ bị thương rách một chút xíu ở vành tai trái và bắp đùi phải!
Lúc về BCH, gặp Thiếu tá Nhã, Tiểu đoàn trưởng, ông vẫn giữ vẻ mặt nghiêm, nhưng không trách phạt vi lệnh mà còn bảo anh lính phục vụ kiếm khúc bánh mì cho tôi lót bụng. Còn anh Thành và anh Đỉnh thì cười kín đáo, tỏ ý hân hoan khuyến khích. Nhưng cũng nhờ cú “Bốc đồng” này, nên sau khi về Sàigòn, mặc dù
thương tích đầy mình (bị thêm lần nữa tại Hồ Tỉnh Tâm, trong thành nội Huế, vào mùng 10 Tết). Nghe tiếng điện thoại của anh Bảo gọi:
- Tiểu đoàn định cho ông làm Đại đội trưởng ĐĐ91, thay thế thằng Mễ, vậy vô đây gắp để nhận bàn giao!
Tôi mừng rỡ trả lời:
- Tôi sẽ vô ngay, đích thân!
Vì còn trẻ háo thắng, nên tôi rất vui mừng và chịu bỏ phép nghỉ bịnh, để nhận cái nhiệm vụ làm đại đội trưởng thực thụ của một binh chủng thiện chiến nầy.
Cũng nên nhắc lại một câu chuyện nhỏ về trường hợp đặc biệt của anh Thiện, bác sĩ tiểu đoàn. Đêm 30 Tết, anh được mấy bác sĩ bạn, làm ở bệnh viện Tiểu khu, mời tới nhà họ, để đón giao thừa cho có không khí đầm ấm của gia đình. Thấy anh nhậu đã say mèm nên tài xế vội lấy xe Jeep cứu thương chở về Bộ chỉ huy Tiểu đoàn. Dọc đường có đầy địch nằm phục kích sẵn 2 bên, nhưng rất may là lúc đó họ chưa có lệnh đồng loạt tổng công kích, nên chúng không dám khai hỏa, sợ hỏng kế hoạch chung. Thật là hú vía nếu anh ở trể chừng một tiếng đồng hồ, thì chắc lãnh đủ!!
Sáng Mùng 3 Tết,thị xã Quảng Trị tổ chức tuyên dương công trạng bảo vệ thành phố của TĐ9ND, dân chúng đa số là người công giáo di cư năm 1954. Tinh thần chống cộng rất cao, họ đem nhiều quà tặng, nào bánh chưng, bánh tét, dưa món,...còn có cả vòng hoa nữa. Nhưng quý giá nhất là ở tấm lòng chân thật và lời cám ơn giản dị: “Nhờ các “En”mà thành phố QuảngTrị không bị chi cả!....” Phải, chúng tôi chiến đấu chỉ vì thế thôi:
“Sự Bình An Của Dân Chúng.”
b) Mặt Trận Trong Thành Nội Huế:
Sáng hôm sau tiểu đoàn được chở cấp tốc bằng trực thăng Chinook vào giải tỏa thành nội Huế. Để tránh phòng không địch, phi công chỉ bay là đà sát ngọn cây, như vậy mà cũng có một số bị thương vì đạn AK từ dưới bắn lên! Bãi đổ quân là một sân trống, trước bệnh viện Nguyễn Tri Phương, trong đồn Mang Cá. Lúc nầy tình hình Huế vô cùng bi đát! Địch đã làm chủ hết các cổng thành và bờ cao kiên cố, chỉ còn lại một góc nhỏ là đồn Mang Cá. Tại đây, Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư Lệnh SĐ1, đang chỉ huy cố thủ bằng những “Lính kiểng” cơ hữu. Mặc dù hằng ngày chịu đựng nhiều loạt pháo, họ vẫn bảo vệ được đồn, trong đó chứa hàng ngàn thương binh.
Trước khi kể đến cuộc quần thảo củaTiểu Đoàn 9 Nhảy Dù với sư đoàn chính qui của Việt Cộng trong Thành Nội, tôi muốn nói qua về Tướng Ngô Quang Trưởng, một vị tướng mà toàn quân hết sức khâm phục. Ngoài đức tính liêm khiết (nhứt Thắng, nhì Chinh, tam Thanh, tứ Trưởng). Ông là người đầy mưu lược, lễ độ, và vô cùng dũng cảm. Trong trận tái chiếm Quảng Trị năm 1972, ông đã dùng kế hoạch “Phong Lôi” rất tài tình. Do biết rõ địch đã gài nhiều nội tuyến trong các đơn vị,nhất là Bộ Binh và Địa Phương Quân. Ông lừa địch bằng cách phổ biến ngày N, sẽ cho quân Dù và Thủy Quân Lục Chiến vượt sông Mỹ Chánh tái chiếm Quảng Trị. Đối phương được tin, vội dàn quân tăng cường dầy đặc, gồm bộ binh chủ lực, hỏa tiễn 122 ly, chiến xa T54, phòng không 30 ly,... dọc theo bờ Bắc sông Mỹ Chánh, để chuẩn bị nghênh chiến. Nhưng vào ngày N, Tướng Trưởng đã cho B52 rải suốt đêm, dọc theo tuyến án ngữ của địch. Ban ngày thì pháo binh, phản lực, và hải pháo luân phiên nả vào vị trí đối phương, khiến địch không có một phút nào yên ổn, để ngốc đầu trốn chạy. Thật đúng như là bị “Thiên lôi đánh!”
Chờ vài ngày sau, biết địch không còn dám dàn quân như thế nữa, họ phòng thủ hời hợt vì tưởng ta chỉ pháo dọa chứ không dám làm thiệt. Đúng lúc đó, Tướng Trưởng đích thân dùng trực thăng ban khẩu lệnh cho từng đơn vị trưởng. Các Chiến đoàn Dù lập tức vượt sông vào lúc 1 giờ khuya, bên phải Quốc lộ 1 có Sư
đoàn Thủy Quân Lục Chiến, tất cả đồng loạt khởi binh! Mới 8 giờ sáng đã nghe Tiểu đoàn 1 Nhảy Dù tịch thâu tới 11 khẩu phòng không 30 ly! Đây là chiến lợi phẩm lớn nhất từ trước tới giờ.Trong vòng 14 ngày, Tiểu đoàn 11 Dù đã bắn cháy hơn 10 chiến xa T54, và TQLC đã chiếm được cổ thành Quảng Trị.
Ngũ giác đài và các tướng lãnh Mỹ và Pháp hết sức ngạc nhiên. Trước đây họ chỉ đánh giá cao tướng VC Võ Nguyên Giáp ở trận Điện Biên Phủ, nhưng tướng Giáp đã dùng chiến thuật biển người, phải nướng hơn trăm ngàn bộ đội. Cộng Sản đã bất chấp mọi thủ đoạn để đạt được mục đích theo chủ thuyết Duy Vật: “Cứu cánh biện minh cho phương tiện”. Tướng Giáp quả đúng là “Nhất tướng công thành vạn cốt khô”. Tướng Trưởng trái lại, ông quý trọng và giữ gìn sinh mạng của từng người lính. Ông cũng khuyến khích, kiểm soát và chỉ dẫn cho từng sĩ quan, dù là sĩ quan cấp trung đội.
Tướng Trưởng là người trọng lễ nghĩa, khi nghe Tướng Đống ra Huế, ông đã đến phi trường sớm, và ra tận cầu thang máy bay tiếp đón người thầy cũ của mình. Mặc dù lúc đó 2 người cùng cấp bậc, nhưng SĐND thì trực thuộc quyền chỉ huy của Tướng Trưởng, Tư Lệnh Vùng 1 Chiến Thuật. Tướng Đống biết điều, mỗi lần họp hoặc nhận lịnh Quân Đoàn, ông thường cho Tư Lệnh Phó ra mặt. Riêng ông có mặt ở Huế để đốc thúc và trấn an các quân nhân trong SĐND (có mặt ông, các đơn vị trưởng sẽ làm việc siêng năng hơn).
Tướng Trưởng còn là người rất can đảm, mặc dù địch đã làm chủ hầu hết thành nội Huế, Đồn Mang Cá như chỉ mành treo chuông, nhưng ông vẫn cùng các lính kiểng ở lại cố thủ một diện tích nhỏ hẹp, ngày đêm chịu đựng mưa pháo, để bảo vệ an toàn cho hàng ngàn thương binh. Ông còn là người rất năng động nhiệt thành trong mọi công việc. Khi còn là Tiểu đoàn Trưởng TĐ5ND, lúc chạm địch, ông xung phong trước hàng quân. Ông đã chỉ huy linh động tài giỏi giành thế chủ động chiến trường, dù trong những tình thế khó khăn... Trận Đổ Xá ở Quảng Ngải năm 1965, trận Liên Kết năm 1966 đã đưa Tiểu đoàn nầy được hơn 6 lần tuyên dương trước quân đội và tiểu đoàn được đeo dây biểu chương màu Đỏ. Tiểu Đoàn 5 ND, đơn vị xuất sắc đã cung hiến cho QLVNCH 8 vị Tướng lãnh tài ba: Nguyễn Chánh Thi, Ngô Quang Trưởng, Trương Quang Ân, Hồ Trung Hậu, Đỗ Kế Giai, Lê Quang Lưỡng, và 2 vị tướng đã hiển danh “Vị quốc vong thân”:Tướng PhạmVăn Phú và NguyễnKhoa Nam.Sư Đoàn 1 rồi QuânĐoàn 1, dưới tay ông, đã làm khiếp vía địch quân ở vùng Hỏa Tuyến.
Bây giờ xin trở lại trận chiến Tết Mậu Thân tại thành nội Huế. Về tình hình địch, bộ đội Bắc Việt từ hướng Tây Bắc, vùng thung lũng A Shau, A lưới vừa xâm nhập, phối hợp với du kích địa phương, chĩa nhiều mũi dùi tiến vào cố đô Huế.Hướng Tây từ quận Nam Hòa, Nam Giao băng qua cầu Bạch Hổ. Hướng Bắc từ rặng Trường Sơn, qua chùa Thiên Mụ, Kim Long. Hướng Đông từ Đồng Xuyên, Mỹ Xá, dọc theo La vân Thượng tới An Hòa chiếm cửa Chánh Tây và cửa Đông Ba. Cánh cuối cùng từ Phú Thứ, Đập Đá, qua cầu Trường Tiền chiếm cửa Thượng Tứ.
Về tình hình bạn, đại đội Hắc Báo của anh bạn cùng khóa Phan Gia Lâm đang bị bao vây trong Đại Nội.
Tiểu đoàn 2 Nhảy dù và Tiểu đoàn 7 Nhảy dù sáng Mùng 1 Tết, chạy băng đồng marathon gần 20 cây số từ Sịa, Quảng Điền, và cây số 17, An Lỗ về giải cứu cố đô. (2 tiểu đoàn bị chận lại ở An Hòa mãi tới mùng 3 mới vào được BTL Sư đoàn 1 BB). Tiểu đoàn 9 Nhảy Dù chúng tôi ở mặt trận Quảng Trị đã hao hơn trăm chiến sĩ, tới Huế vào trưa mùng 4 Tết, tạm bố trí trong đồn Mang Cá. Sáng Mùng 5 Tết, chúng tôi xuất phát để tái chiếm phi trường Tây Lộc và Cửa Chánh Tây. Vừa mới ra khỏi đồn được 200 thước, tôi gặp Tiểu đoàn 7 Nhảy dù đang đi ngang qua.Hỏi thăm thì biết lúc nầy quân số của Tiểu đoàn 2 và 7 Nhảy dù chỉ còn phân nửa! Họ bị thiệt hại nặng từ đêm Giao thừa khi chiếm đầu cầu An Hòa, và đã giao tranh với địch trong Thành Nội mấy ngày qua. Chỉ 3 ngày mà đơn vị bạn đã hao quá nhiều. Chúng tôi ai nấy mặt mày bí xị, vì mình sắp sữa tiến vào vùng tử địa! Không biết ai còn, ai mất, đúng là:
Chí làm trai dặm nghìn da ngựa
Gieo thái sơn nhẹ tựa hồng mao...
(Chinh Phụ Ngâm)
Khi vào tới gần tường thành Đại Nội, chúng tôi thấy phía trước có nhiều bóng đen thấp thoáng và nghe vài tiếng súng lẻ tẻ. Cả đại đội dàn quân xung phong nhào tới, gặp một số người mặc áo đen giơ tay đầu hàng. Hỏi ra mới biết đó là binh sĩ của đại đội Hắc Báo. Gặp lại bạn đồng khóa Phan Gia Lâm, 2 đứa bắt tay mừng mừng lo lo. Lâm nói giọng Huế: “Lính mi sao còn nhiều quá? Lính của tao chuồn về nhà ăn Tết gần hết”. Hỏi thăm Lâm về tình hình phía trước, rồi chúng tôi thận trọng tiến dọc theo bờ kinh, thẳng về hướng phi trường L-19 ở Tây Lộc. Khu nầy nhờ Tiểu đoàn 2 và 7 Nhảy Dù đã dọn sẵn, nên chỉ chạm địch lẻ tẻ, thỉnh thoảng có vài binh sĩ bị bắn tỉa từ phía bên kia bờ kinh. Sau khi chiếm phi trường, tiểu đoàn tiến về cửa Chánh Tây. Đánh trong thành phố thật không dể, chúng tôi phải phá tường, leo cửa sổ để di chuyển. Các ngõ hẻm, cao ốc, đường cái và ngả tư, đều có thượng liên địch chực sẵn. Khi đến gần cửa Chánh Tây, tôi thấy có rất nhiều địch đội nón cối, tay cầm súng Ak47,B40, đi qua lại trên bờ thành. Chúng tôi chờ trời tối cho khinh binh lén leo lên dùng lưỡi lê đánh cận chiến, chiếm được một góc thành làm đầu cầu cho đại đội nhào lên bắn ào ạt khiến địch trở tay không kịp.Dùng cách nầy tuy tổn thất nhiều, nhưng vì địch quân đã có lợi thế bờ thành cao trên 5 thước, nếu không liều mạng vào hang cọp thì làm sao bắt được cọp con. Càng dây dưa trì hoãn thì càng tổn thất tiêu hao dần dần, rốt cuộc không có thành quả gì.
Trong 2 ngày tiểu đoàn chiếm lại được cửa Chánh Tây và bàn giao lại cho Sư đoàn 1 BB trấn giữ. Chúng tôi bọc ngược trở lại để chiếm cửa Đông Ba - đây có cây thượng liên đặt nơi cửa thành cao và rất kiên cố, chúng tôi thử xung phong nhiều lần mà không lên được cửa. Trung đội tôi lúc ấy còn 21 người, nhưng do khí thế chiến thắng từ Quảng Trị và cửa Chánh Tây vừa rồi, nên binh sĩ rất tự tin. Đợi ngay khi điều chỉnh pháo binh dập nát khẩu thượng liên, cả trung đội vừa bắn vừa hô xung phong tiến nhanh và chiếm được cửa thành. Thấy xạ thủ thượng liên chết nằm trên súng, hai chân bị khóa bằng dây xích. Kiểm điểm quân số lại thấy chỉ còn 10 người nguyên vẹn.11 mạng người chết và bị thương để đổi lấy cửa thành nầy đây.Lính NhảyDù trả nợ máu cho quê hương miền Nam, lấy lại sự thanh bình cho đồng bào xứ Huế. “Chúng tôi không cầu an lạc dể dàng mà chỉ khát khao gió mưa cùng nguy hiểm”. Gần 30 năm qua, trên đất Mỹ, tôi vẫn nhớ cảm giác cay cay đau đớn khi đứngtrên cổngthành đổ nát của mùa xuân năm xưa! Mùa Xuân rây máu của xứ Huế mù trời sương đục, tang tóc đau thương!
Mấy ngày sau,tiểu đoàn tiếp tục mở rộng kiểm soát các khu vực bên trong Thành Nội. Sáng Mùng 10, chúng tôi chuẩn bị vượt qua hồ Tỉnh Tâm để tìm cách đánh lấy lại cửa Thượng Tứ, cửa chính Nam, đi thẳng vào Đại Nội. Suốt tuần lễ, người không tắm rửa, chân không rời đôi giày trận, sống giữa màn trời chiếu đất, lót dạ bằng những chén cháo trắng. Tuy lương thực không được tiếp tế, nhưng lúc đó không ai ăn vô nổi, vì hằng ngày nhìn thấy xác chết đầy đường, không có người thu dọn. Chúng tôi sống với và giữa những người chết, họ là những người dân đã sống trong chịu đựng và chết trong oan khiên. Họ đã chết cho ai, vì ai?!! Bao nhiêu năm câu hỏi vẫn còn, không được ai đứng ra lãnh trách nhiệm trả lời.
Trung đội vượt qua hồ Tỉnh Tâm phía ngoài Cầu Kho, tiến vào lục soát ngôi biệt thự khá sang trọng. Khi vừa rút ra khỏi nhà thì nghe “Đùng” một tiếng, 1 quả lựu đạn hay súng cối gì đó rơi đúng vào giữa đội hình trung đội tôi! Mọi người đều ngã lăn vì trúng mảnh đạn.Lưng tôi bị đầy mảnh, máu ướt đẩm cả áo trong lẫn áo ngoài.Tôi đang kiệt sức dần, thì bỗng nhiên thấy 1 tên lính địch chạy qua nhà tôi đang nằm. Trong khi tên bộ đội chưa phát giác, do từ một phép lạ hoặc bản năng sinh tồn, tôi nhỏm dậy, chạy băng về bộ chỉ huy đại đội, các anh em binh sĩ cũng nhanh chân rút theo. Mắt loáng thoáng nhìn thấy Đại đội trưởng Thành Râu từ xa, tôi kiệt sức ngã lăn nằm bất tỉnh trước sân đất trước nhà.
Lúc tỉnh dậy thấy mình đang nằm trên lầu của 1 biệt thự sang trọng. Anh bạn tốt là bác sĩ Thiện mượn mền để đắp cho tôi nhưng chủ nhà không chịu.Tối đến thấy trên mình có cái mền mới tinh, nhưng nó bị trượt qua một bên, vết thương bắt đầu hành sốt, người run lập cập. Tôi định kéo mền lên đắp, nhưng dơ tay không nổi, đành nằm chịu trận! Nhìn xung quanh thấy có thương binh bị nặng quá đã hy sinh, còn những người khác thì mê man.Sáng ra mới biết anh Thiện đã lén “Mượn tạm” mền để đắp cho tôi. Sau nầy nghe nói chủ nhà nầy là kinh tài (hãng xe bus vàng) của Việt Cộng. Hắn ta cùng bọn nằm vùng đã làm nội tuyến hướng dẫn bộ đội vào thành, quấy nhiễu dân chúng, gây bao nhiêu cảnh chết chóc, lầm than cho những kẻ vô tội trong 3 ngày Xuân.
Hơn một tuần quần thảo trong thành nội, TĐ9 ND còn thảm hơn 2 Tiểu đoàn bạn. Quân số còn lại những người nguyên vẹn không quá một trăm! Lúc chuyển quân ra Vùng 1 Chiến Thuật, tiểu đoàn cần tới 5 chiếc vận tải cơ C130, nhưng trở về với 1 chiếc mà còn thấy rộng. Riêng trung đội 1 của tôi thì coi như báo cáo tổn thất “Nằm, ngồi” (chết, bị thương) là 100%. Để diễn tả về trận chiến Tết Mậu Thân tại Vùng Giới Tuyến nầy, tôi xin phỏng theo 2 câu thơ bất hủ ở mặt trận Bình Long:
Cố đô Huế Mậu Thân chiến tích
Chiến sĩ Dù vị quốc vong thân!
Trương Dưỡng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét