Bài viết sau đây của nhạc sĩ Phạm Duy viết năm 1987, nhận định, phân tích về nhạc tình ca Văn Cao, những ca khúc bất tử mang giá trị nghệ thuật cao và đã được công chúng yêu thích suốt 80 năm qua, như Bến Xuân, Suối Mơ, Cung Đàn Xưa, đặc biệt là Thiên Thai, Trương Chi. Đây có thể xem là bài viết hay nhất về âm nhạc Văn Cao – một thiên tài của tân nhạc Việt Nam thưở sơ khai. — Thuở còn nhỏ, tôi rất yêu một bài thơ Pháp, thường được người đời gọi là Sonnet d’Arvers. Tôi chỉ còn nhớ hai câu tiếng Pháp như sau: Mon coeur a son secret ma vie a ses mystèresToujours à ses côtés et pourtant solitaire… Nhà văn Khái Hưng đã dịch bài thơ đó một cách tuyệt vời:
Lòng ta chôn một khối tình
Tình trong giây phút mà thành thiên thâu
Tình tuyệt vọng nỗi thảm sầu
Mà người gieo thảm như hầu không hay
Hỡi ơi người đó ta đây!
Sao ta thui thủi đêm ngày chiếc thân
Dẫu ta đi trọn đường trần
Chuyện riêng không dễ một lần hé môi
Người dù ngọc thốt hoa cười
Nhìn ta như thể nhìn người không quen
Đường đời lặng lẽ bước tiên
Ngờ đâu chân đạp lên trên mối tình
Một niềm tiết liệt đoan trinh
Xem thơ nào biết có mình ở trong
Lạnh lùng lòng lại hỏi lòng
Người đâu tả ở mấy dòng thơ đây?
Thi sĩ d’Arvers yêu một người đẹp mà tuy gặp gỡ hàng ngày nhưng không bao giờ chàng dám tỏ tình với người mình yêu cả! Chàng giữ kín mối tình câm đó suốt đời mình, và nghĩ rằng sẽ có một ngày, người đẹp đó đọc bài thơ này, rồi bâng khuâng tự hỏi: ai là người đã được mô tả trong mấy dòng thơ đây? Vào những năm đầu của thập niên bốn mươi, cũng như một số các nhạc sĩ trẻ khác, vừa bước vào con đường nhạc tình, tôi đã bị ảnh hưởng “Bài Thơ Tình Câm Lặng” của thi sĩ d’Arvers đó cho nên tôi đã có vài bài tình ca ấp úng như bài Cô Hải Mơ, trong đó tôi mang số phận của Nguyễn Bính để tỏ tình với người đẹp mà chẳng được cô ta trả lời chúng tôi lấy một lời! Hoặc như bài Cây Đàn Bỏ Quên, trong đó, cũng giống như anh Trương Chi/Văn Cao sau này, tôi bâng khuâng tự hỏi người đẹp yêu tôi hay chỉ yêu tiếng đàn của tôi mà thôi? Nhưng nếu thi sĩ d’Arvers còn có một người đẹp để yêu vụng nhớ thầm và làm thơ, thì lũ nhạc sĩ trẻ nhát gái như chúng tôi lại chẳng có ai để mà soạn nhạc tình dâng hiến! Chúng tôi toàn soạn nhạc tình cho người tình tưởng tượng! Tôi không biết các ông tổ sư của loại nhạc tình trong Tân Nhạc Việt Nam như Dương Thiệu Tước, Thẩm Oánh hay Lê Thương… khi soạn ra những bản tình ca bất hủ mà ai nấy đều biết, đều hát thì có một người yêu bằng xương bằng thịt nào ở bên cạnh quý vị đó hay không? Duy có điều tôi biết rất ư chắc chắn là: vào năm 1945, khi soạn hai bài nhạc tình Suối Mơ và Bến Xuân thì Văn Cao đã tưởng tượng ra những cảnh:
Từng hẹn mùa xưa cùng xây nhà bên suối…
Nghe suối róc rách trôi, hoa lừng hương gió mát
Đàn nai đùa trong khóm lá vàng tươi… …
Nhà tôi bên chiếc cầu soi nước
Em đến tôi một lần Bao lũ chim rừng họp đàn trên khắp bến xuân…
Thực ra thì chẳng có em nào cả! Tuy rằng người tình tưởng tượng có đôi mắt như dáng thuyền soi nước… với tà áo em rung theo gió nhẹ thẹn thùng… cũng cho nhạc tình Việt Nam một vài cảnh đẹp như liễu dương hơ tóc vàng trong nắng… khiến cho du khách, sau khi gột áo phong sương trở về bến cũ, nhớ người tình xưa… còn ngại ngùng nhìn bến xuân. Chao ôi là tưởng tượng! Nếu có dịp nào chúng ta đi tìm nhạc tình trong lịch sử thi ca và âm nhạc cổ truyền Việt Nam, chúng ta sẽ ngạc nhiên vì hiếm thấy có những bài thơ hay những bài hát nói đến tình yêu trai gái. Có lẽ trong dĩ vãng có ông cụ họ Khổng đã kê sẵn một cái bàn trong con tim và khối óc các tình nhân cổ xưa để kiểm duyệt nhạc tình một cách hơi khắt khe chăng? Trữ tình đến như hát quan họ thì cũng chỉ dám nói đến chuyện nắm cổ tay không cho người yêu ra về! Hoặc vui mừng như trong hát giao duyên thì cũng vẫn chỉ là:
Gặp nhau đây
Nắm tay cho chặt
Anh hỏi nàng Có thật yêu không?
Hay buồn rầu như trong hát ví, vì không nắm được cổ tay:
Cổ tay em trắng như ngà
Đôi mắt em sắc như là dao cau
Đôi ta dan díu bấy lâu Biết rằng có lấy được nhau mà chờ?
Phải đợi cho tới khi Tân Nhạc ra đời vào những năm cuối ba mươi và đầu bốn mươi, chúng ta mới có được một loại nhạc tình lãng mạn đầu tiên của người Việt Nam, do các người tình tiền phong của thời đại như Dương Thiệu Tước, Thẩm Oánh, Lê Thương, Văn Chung, Lê Yên, Dzoãn Mẫn… tung ra! Tất cả những bản nhạc tình đó, cũng giống như nền Thơ Mới của Việt Nam lúc bấy giờ, đã có phần nào bị ảnh hưởng văn chương và thi ca lãng mạn Pháp. Cụ thể mà nói thì những bài thơ như Sonnet d’Arvers đã ảnh hưởng tới lũ chúng tôi, những người viết nhạc tình đầu tiên của Việt Nam theo lãng mạn tính của cá nhân chủ nghĩa trong thi văn Pháp. Tuy nhiên, loại nhạc tình lãnh mạn đó chỉ có thể được gọi là đạt tới độ hoàn mỹ khi nó được xuất phát ra từ một con người tài hoa bậc nhất của giới nghệ sĩ trẻ lúc bấy giờ. Người đó là Văn Cao! Chẳng khác chi lớp nghệ sĩ trẻ tuổi và lãng mạn vào lúc đó, Văn Cao cũng bị mùa Thu ám ảnh! Những bản nhạc tình lãng mạn đầu tiên của ông đều nói tới mùa Thu. Những bài như Thu Cô Liêu, Buồn Tàn Thu lại còn pha trộn thêm cái buồn Đông Phương. Lời ca nghe như một câu thơ Đường:
Thu cô liêu tịch liêu,
Cô thôn chiều.. Ta yêu Thu yêu Thu yêu mùa Thu!
Tuy chỉ là một bài hát ngắn, nhưng Văn Cao cũng chia Cung Đàn Xưa ra bốn đoạn rõ ràng. Đoạn đầu nói tới cung đàn năm xưa với một âm giai sol trưởng và một nhịp valse như trong bài Thu Cô Liêu:
Hồn cầm phong hương
Hình bóng xuân tàn
Ngày dần buông trôi
Sầu vắng cung đàn.
Lời đàn năm xưa
Xe kết đôi lòng
Lời đàn năm nay Chia rẽ đôi lòng.
Đoạn 2 nói tới cung Thương, cung Nam nghĩa là những cung đàn ai oán trong âm nhạc cổ xưa, những chủ đề mà Lê Thương, Phạm Duy cũng đều có nói tới qua những bài như Tiếng Đàn Xuân, Khối Tình Trương Chi:
Cung Thương là tiếng đàn
Cung Nam là tiếng người
Ai oán khúc ca cầm châu rơiTình duyên lãng đãng nhớ thương dần pha phôi!
Sau khi đã đổi nhịp trong đoạn 2, với đoạn 3, Văn Cao chuyển qua một nhịp điệu khác, nói tới sự buồn rầu trong cung đàn xưa:
Cung đàn ngân
Buồn xa vắng trong tiếng thầm
Buồn tê tái trong tiếng ngân
Buồn như lúc xuân sắp tàn
Ôi đàn xưa!
Còn vang nhắc chỉ đến người?
Lòng ta tắt bao thắm tươiU hoài duyên đưa…
Thì ra tất cả ba đoạn nói tới một Cung Đàn Xưa đó chỉ muốn nhắc tới một người mà Văn Cao diễn tả một cách tuyệt mỹ, một người tình tưởng tượng có đỗi mắt giữ lại mùa xuân, có đôi chân đi tới đâu hoa nở tới đó, có thân hình thơm hương, có tiếng nói khơi dậy yêu thương… khiến cho hiện thân của anh Trương Chi là Văn Cao đó, bây giờ đã phải cất lên tiếng đàn giao hoan và dệt nên không biết bao nhiêu là mộng mị:
Chiều năm xưa Gót hài khai hoa
Mắt huyền lưu Xuân
Dảng hồng thơm hương…
Chiều năm nay
Tiếng người khơi thương
Tiếng đàn giao hoan
Giấc mộng chàng Trương! Bài hát sẽ trở lại đoạn đầu để hết…
Sau hai bài Thu Cô Liêu và Cung Đàn Xưa mà ít người biết tới, Văn Cao soạn Suối Mơ và Bến Xuân. Nếu đem so sánh với những bản nhạc tình của thời đó, thì hai bài Suối Mơ và Bến Xuân là cực điểm của lãng mạn tính trong ca nhạc. Lúc đó, các nhạc sĩ khác còn đang luẩn quẩn tìm cách xếp đặt chữ nghĩa trong ca khúc thì Văn Cao đã viết hẳn ra một Bài Thơ Bên Suối: Suối mơ Bên rừng thu vắng Dòng nước trôi lững lờ ngoài nắng Ngày chưa đi sao gió vương? Bờ xanh ngắt bóng đôi cây thùy dương…
Sau này người ta gọi nó là Suối Mơ, nhưng thực sự nó mang cái tên là Bài Thơ Bên Suối. Trong lúc tình ca Thẩm Oánh, Dương Thiệu Tước, Lê Thương còn vướng víu nhiều hình tượng cổ điển thì Văn Cao đã đưa ra những hình ảnh mới trong nhạc tình:
Suối ơi!
Ôi nguồn yêu mến
Còn ghi khi bóng ai tìm đến!
Đàn ai nắn buông lưu luyến
Suối hát theo đôi chim quyên…
Cái mới trong hình ảnh, cái mới trong tương quan giữa cảnh và người đưa ra trong nội dung, cái mới cả trong nhạc điệu… Sau hai lần mô tả con suối dẹp trong rừng thu với nhạc đề một, Văn Cao chuyển qua nhạc đề hai để hẹn hò với người yêu cùng xây nhà bên suối, cùng nghe suối róc rách trôi, cùng ngửi mùi hoa lừng hương gió ngát… và cũng không quên cái cảnh đàn nai đùa trong khóm lá vàng rơi! Bài hát ăm ắp hình tượng mùa Thu yêu đương!
Rồi ca khúc chuyển nhẹ qua giọng majieure để nhắc nhở tới chuyện xa nhau giữa hai người tình: Tơ đàn chùng theo với tháng năm Rừng còn nhớ tới người Trong chiều nào giữa chốn đây Hồn cầm lắng tiếng đời… Cuối cùng, nhạc đề một trở lại với kết luận là con suối trong rừng Thu sẽ buồn muôn thuở là vì còn lưu luyến hương vị tình yêu của chúng ta:
Suối ơi! Nghe rừng heo hút…
Dòng êm đưa lá khô già trút
Còn như lưu hương yêu dấu Với suối xưa trôi nơi đâu?
Cũng với nhạc thuật tương tự, Văn Cao đưa ra bài Bến Xuân. Cũng cảnh mô tả xây nhà với người yêu nhưng ở đây không còn là nhà bên suối trong rừng mùa Thu, mà là nhà bên cạnh một bến nước trong một mùa Xuân… Cũng có chim đùa giỡn với hai người tình, nhưng ở đây loài chim còn có cả một vùng chân trời góc biển cao rộng, để tung cánh bay đi thành đàn chim Việt. Người tình trong Bến Xuân rõ nét hơn. Mối tình nơi bến nước lâu dài hơn. Suối Mơ là một khung cảnh. Bến Xuân là một câu chuyện:
Tới đây chân bước cùng ngập ngừng
Mắt em như dáng thuyền soi nước..
Tới đây mây núi đồi chập chùng Liễu dương hơ tóc vàng trong nắng.
Dù cả hai bài tình ca này đều được xây dựng trên hệ thống âm giai Tây Phương nhưng nó đều có những âm hình rất Việt Nam, ví dụ nét nhạc si la sol la re trong đoạn nhạc trích dẫn kể trên, nghe như một nét nhạc Việt diệu Nam hơi oán… Trong cả hai bài nhạc tình về mùa Thu và mùa Xuân này, bao giờ nét nhạc mineure mở đầu cũng rất là lâng lâng rồi cũng sẽ chuyển qua một nét nhạc majeure ngắn để diễn tả một niềm vui thoáng qua. Hình ảnh người tình trong cả hai bài hát này đều rất là lộng lẫy, cao sang… Tình cảm của cả hai bài nhạc tình đều không tìm con người vào cõi u tối, trái lại làm cho người nghe thấy nguôi ngoai, sảng khoái… Suốt hơn ba mươi năm, bây giờ nhìn vào bản nhạc này, tôi vẫn thấy như mình còn đang đứng ở trên một bến nước nào đó của tuổi Xuân xa xưa… nhìn những cánh buồn nâu trên sóng và nghe những tiếng chim ca lưu luyến cuộc tình vừa qua của một đôi lứa…
Sương mênh mông che lấp kín non xanh
Ôi cánh buồm nâu còn trên lớp sóng xuân!
Ai tha hương nghe ríu rít oanh ca
Cánh nhạn vào mây thiết tha
Lưu luyến tình vừa qua…
Văn Cao tài hoa như thế mà tiếc thay, ông chỉ soạn có năm hay sáu bản nhạc tình trong đó có hai bài hát vĩ đại là Thiên Thai và Trương Chi. Bài Buồn Tàn Thu thì không có giá trị nghệ thuật cao như những bài tôi vừa kể, nhưng vì nó được hát lên rất nhiều lần trên sân khấu gánh hát rong và trên đài phát thanh Sài Gòn trong những năm 44-45 là lúc Tân Nhạc còn mới phôi thai, cho nên nó được nhiều người biết tới. Nhưng những bài tình ca nhỏ nhặt đó sẽ bị mờ đi khi Thiên Thai và Trương Chi ra đời. Với tài năng đã đến độ chín mùi, Văn Cao sẽ dắt chúng ta lên tới đỉnh cao nhất của ái tình cũng như sẽ đưa ta vào cõi sâu thẳm nhất của khổ đau với hai câu chuyện cổ dân gian biến thành hai bản tình ca muôn thuở. Tôi đã có dịp nói tới không khí Đường Thi trong nhạc Văn Cao, nghĩa là nói tới chất thơ trong sáng, cô dọng ngay từ trong những bản nhạc đầu tiên của ông. Ta thấy những bài Thu Cô Liêu, Buồn Tàn Thu như có vẻ vừa thoát ra từ khung cảnh Thu Hứng của Đỗ Phủ.
Nghe câu hát trong bài Cung Đàn Xưa: “Chiều năm xưa gót hài khai hoa, mắt huyền lưu xuân, dáng nồng thơm hương”… thì ta nghe như một câu thơ Thôi Hiệu… Nhưng trong thời kỳ hình thành và phát triển của Tân Nhạc, Văn Cao cũng không là chàng nhạc sĩ trẻ tuổi độc nhất đã bị ảnh hưởng của thơ Đường. Nhạc sĩ đàn anh Lê Thương mà đã chẳng biết dùng khung cảnh Trăng Quan San của Lý Bạch để soạn ra câu hát: Qua Thiên San kia ai tiễn rượu vừa tàn. khiến cho ba bản Hòn Vọng Phu của ông trở thành bất diệt đó à? Có lẽ cũng cảm thấy ma lực của Đường Thi trong Tân Nhạc cho nên về sau này tôi cũng mượn không khí của Cô Tô thành ngoại Hàn Sơn Tự – Dạ bán chung thinh đảo khách thuyền của Trương Kế để soạn ra câu hát trên sông Lô: Thuyền tôi đậu bến sông Lô – Nửa đêm nghe tiếng quân thù thở than… Nếu chúng ta đi xa thêm vào dĩ vãng, ta lại còn thấy trong truyền thống Hát Ả Đào, những bài thơ như Tương Tiến Tửu, Tiền Hậu Xích Bích… của thơ Đường đã trở thành những điệu hát hoàn toàn Việt Nam. Còn trong sân khấu Cải Lương Miền Nam, thì cũng lại có hẳn một diệu hát được gọi tên là Dạ Bán Chung Thinh. Ai cũng bị ảnh hưởng Đường Thi mà chẳng nói ra hay chưa có dịp nói ra.
Nhưng với bài Thiên Thai ra đời vào năm 1944 thì Văn Cao đã không ngần ngại để viết mấy câu tựa như sau: …
Ảnh hưởng sông nước khúc Thiên Thai cổ trong khung cảnh huyền diệu của Đường Thi với hai truyện Thiên Thai và Đào Nguyên. Người Sông Ngự đã lạc cảm xúc rồi!
Mùa Xuân Giáp Thân, Văn Cao.
Ta hãy thử xem những bài thơ Đường mà Văn Cao vừa kể ra như Đào Nguyên Hành của Vương Duy và Lưu Nguyễn Nhập Thiên Thai của Tào Đường đã có những gì để khiến cho người nhạc sĩ mang thêm bí danh là Người Sông Ngự này đã phải lạc cảm xúc? Bài thơ của Vương Duy dẫn chúng ta vào một khung cảnh thần tiên:
Chiếc thuyền câu đẩy đưa trên sông nước
Mê sắc trời núi đẹp ánh xuân xa
Đôi bờ Đào Hoa, bến thuyền xưa ấy Ngồi ngắm nhìn cây thắm, không biết xa…
Chốn suối hoa đào thần tiên đó mà có được, chẳng qua cũng chỉ vì thi sĩ có quá nhiều gian khổ trong cuộc đời cho nên đã phải tạo ra cho mình một nơi để ẩn lánh. Một nơi mà sau này thi sĩ Vũ Hoàng Chương bước vào phải lạc lối, người thơ của lên đường Tản Đà tới được thì, sau nửa đêm tiên cảnh, một bước trần ai… sẽ phải giã biệt cảnh đẹp lý tưởng đó với tiếng suối tiễn, oanh đưa… Và nếu chúng ta có tới được thì cũng chẳng ở lâu, cũng giống như truyện dài hai chàng thư sinh mang họ Lưu, họ Nguyễn lạc vào cõi Thiên Thai vậy! Ở dưới trần thì mơ lên tiên. Ở cảnh tiên thì lại đòi về dương trần… Đó là thân phận con người, la condition humaine.
Bài thơ của Tào Đường thì diễn tả cảnh hai chàng thư sinh đi hái thuốc, không ngờ lại tới được chốn Đào Nguyên:
Khe cây, lối đá nhận đường vào Hoa cỏ không vương mảy bụi nào
Nhìn bóng dáng mây quên việc trước
Trông chiều cây nước ngỡ chiêm bao
Muốn biết về đâu non nước ấy?Hỏi thăm, nên tới suối Hoa Đào.
Người Sông Ngự /Văn Cao đã thú nhận rằng mình đã bị ảnh hưởng sông nước của hai truyện Đào Nguyên, Thiên Thai cho nên đã soạn ra bài hát. Một bài hát, theo tôi, thật tuyệt diệu. Nó vừa có tính chất trường ca, vừa có tính chất nhạc cảnh. Nếu như hình thức ca khúc trong Tân Nhạc Việt Nam cho tới năm 1944 này vẫn còn nằm trong khuôn khổ một đoản khúc được ước định trong một số khuôn nhạc nào đó, với một lối chuyển cung, chuyển điệu công thức nào đó… thì bản Thiên Thai của Văn Cao đã vươn lên một hình thức rất lớn, chia ra nhiều đoạn, nhiều cảnh, gồm tới con số 94 khuôn nhạc, chan chứa những giai điệu thần tiên và những lời ca tuyệt diệu.
Với tài năng đã nở rộ cùng với bước đi tới của Tân Nhạc, Văn Cao mô tả cảnh đầu của bài Thiên Thai, cảnh hai chàng Lưu Nguyễn lạc tới Đào Nguyên:
Tiếng ai hát chiều nay vang lừng trên sóng
Nhớ Lưu Nguyễn ngày xưa lạc tới Đào Nguyên…
Kìa đường lên tiên
Kìa nguồn hương duyên,
Theo gió tiếng đàn xao xuyến
Phím tơ lưu luyến
Mấy cung u huyền
Mấy cung triều mến
Như nước reo mạn thuyền…
Sau khi mở ra một tiếng hát của ai không biết, hát vang lừng trên sóng, để đẩy đưa hai chàng Lưu Nguyễn lạc tới Đào Nguyên…, thì, với một nét nhạc leo thang, Văn Cao vẽ ra con đường lên tiên, nơi nguồn hương duyên, theo gió bay lên với tiếng đàn xao xuyến… Ngay trong cảnh đầu của bài ca, ngay từ khi con thuyền nào đó (con thuyền câu của Đào Nguyên Hành?) đưa hai kẻ si tình này đi vào cõi mộng, Văn Cao chỉ nói tới phím tơ lưu luyến, mấy cung u huyền, mấy cung triều mến như nước reo mạn thuyền… Tuyệt nhiên không có tả cảnh! Con đường lên tới Suối Hoa Đào cũng không phải qua khe cây hay lối đá để nhận đường vào… như trong bài thơ của Tào Đường. Tôi thì nghĩ rằng đây có lẽ là chiếc thuyền của anh Trương Chi mà Văn Cao đã cho hai chàng Lưu Nguyễn mượn tạm.
Và cũng âm ba của giọng hát mà Văn Cao nói tới trong đoạn này đã làm cho hoa đào nơi suối tiên phải rụng cánh, có lẽ đó là tiếng hát của người thợ chài trên Sông Ngự, trong cuộc đời có thực hay trong cổ truyện lung linh vậy. Tiếng hát đưa đẩy con thuyền tình trôi trên sóng nước ngọc tuyền, và người trên thuyền cũng thấy quê hương dần xa lấp trong núi ngàn như trong hai bản Đường Thi, để gặp một tiếng hát khác, tiếng hát của bậc tiên bên bờ Đào Nguyên:
Âm ba, thoảng rụng cánh đào rơi
Nao nao bầu sương khói phủ quanh trời
Lênh đênh dưới hoa chiếc thuyền lan
Quê hương dần xa lấp núi ngàn
Bâng khuâng chèo khua nước ngọc tuyền Ai hát bên bờ Đào Nguyên?
Trong đoạn này, Văn Cao đã chuyển nét nhạc một cách rất tài tình, dùng những nốt-bán-cung để di chuyển rất nhanh chóng câu hát đi từ một chủ âm mineure khác, cho ta thấy được rất nhiều màu sắc của khung cảnh thần tiên này. Màu sắc ở đây lại không có gì sặc sỡ, nó mơ hồ, nó nên thơ, nó huyền diệu… Ai hát bên bờ Đào Nguyên? Đấy là bầy thiên tiên đang đứng hát đón chờ hai gã tình lang tại một nơi còn nguyên vẹn trinh tiết bởi vì mùa Xuân ở đây chưa bao giờ gặp bướm trần gian tới làm cho Xuân phải ô uế, và mùa đào thì theo dòng ngày tháng chưa hề bao giờ tàn. Với một nhạc điệu rất đẹp chảy dài từ bát độ trên xuống bát độ dưới, với một nhịp điệu lẳng lơ nhưng thanh thoát, Văn Cao cho chúng ta một đoản khúc có thể là khúc Nghê Thường mà ta vẫn nghe nói tới trong Đường Thi:
Thiên Thai!
Chốn đây hoa Xuân chưa gặp bướm trần gian
Có một mùa đào dòng ngày tháng chưa tàn qua một lần
Thiên tiên!
Chúng em xin dâng chàng hai trái đào thơm Khúc Nghê Thường này đều cùng múa vui bầy tiên theo đàn…
Nhạc bỗng sáng lên, chuyển qua giọng majieure nhưng lời ca thì vẫn chỉ nói tới tiếng đàn, tiếng nhạc… Tuyệt nhiên không nói tới người. Bầy tiên chỉ là hư ảnh. Biết đâu, ngay cả hai chàng Lưu Nguyễn cũng không có mặt trong bài ca? Rồi nhạc lại chuyển vội về giọng mineure để nói rằng tiếng đàn xui chúng ta quên đời dương thế, tiếng đàn non tiên cũng biết khao khát cuộc tình duyên.
Đàn soi trăng lên, nhạc lắng tiếng quyên
Đây đó nỗi lòng mong nhớ
Này khúc Bồng Lai!
Là cả một thiên thu trong tiếng đàn chơi vơi.
Đàn xui ai quên đời dương thếĐàn non tiên đàn khao khát khúc tình duyên.
Cho mãi tới bây giờ Văn Cao mới hé cho ta thấy cuộc ái ân nổi dậy giữa hai người tiên người phàm bằng cách quay lại với nhạc đề chính trong bài ca:
Thiên Thai! Ánh trăng xanh mơ tan thành suối trần gian Ái ân thiên tiên em ngờ phút mê cuồng có một lần!
Đàn phách lại nổi lên! Nhạc Văn Cao rộn rã một cách khác thường trong đoạn này! Gió hắt đi những tiếng hát. Những tiếng hát này sẽ làm se lòng người mỗi khi được nghe lại. Lưu Nguyễn quên trần hoàn rồi. Họ cùng bầy tiên đàn ca một vài ba thế kỷ.
Gió hắt trầm tiếng ca
Tiếng phách ròn lắng xa
Nhắc chi ngày xưa đó đến se buồn lòng ta
Đào Nguyên trước, Lưu Nguyễn quên trần hoàn
Cùng bầy tiên đàn ca bao năm
Nhớ quê chiều nào xa khơi
Chắc không đường về tiên nữ ơi!
Rồi cũng với nhạc đề này, Văn Cao nói tới sự quay trở lại đường tiên của hai ông cụ già Lưu Nguyễn, nhưng than ôi, Đào Nguyên đã biến mất rồi!
Chỉ còn rền lại tiếng ca của cõi tiên.
Gió hắt trầm tiếng ca
Tiếng phách ròn lắng xa
Nhắc chỉ ngày xưa đó đến se buồn lòng ta
Đào Nguyên trước, Lưu Nguyễn khi trở về
Tìm Đào Nguyên, Đào Nguyên nơi nào?
Những khi chiều tà trăng lên Tiếng ca còn rền trên cõi tiên.
Tuy viết ra một bài hát vừa có tính trường ca, vừa có tính nhạc cảnh, nhưng Văn Cao không tả thực trong bài Thiên Thai này. Tất cả những hình ành chính của câu truyện cổ như hai chàng Lưu Nguyễn, bầy thiên tiên hoặc những cảnh vật như suối hoa đào, chiếc thuyền lan, nước ngọc tuyền, đều được mô tả một cách rất mơ hồ… giống như trong một giấc mộng vậy.
Ta biết là có con thuyền chở Lưu Nguyễn tới cõi Thiên Thai, ta biết là có bầy tiên múa hát dâng trái đào thơm… nhưng ta không thấy được họ. Khi cùng người yêu xây được ngôi nhà cỏ bên Suối Mơ hay trước Bến Xuân với hai tình khúc trước, thì Văn Cao có thể mời đón chúng ta bước vào căn nhà bên chiếc cầu soi nước để ngồi nhìn đàn nai đùa trên đống lá vàng tươi. Nhưng trong Thiên Thai, cõi mở của Văn Cao, chúng ta không thể nào bước vào cái vườn cấm này được. Đây là cõi riêng của Người Sông Ngự. Nhưng ta lại được tự do tuyệt đối để nghe lên toàn thể tiếng đàn, tiếng hát vút lên từ đầu tới cuối của trường khúc Thiên Thai này, tiếng đàn, tiếng hát mà tôi đã cho là anh Trương Chi trong truyện cổ của chúng ta, và nhạc sĩ Văn Cao đã cho Thiên Thai mượn tạm.
Thiên Thai là cõi riêng của Văn Cao, Trương Chi mới là tiếng hát của Văn Cao.
Thuở tôi còn nhỏ, ở Hà Nội thường có những người đi hành khất bằng giọng hát, nghĩa là họ đến trước cửa từng nhà để hát những câu truyện cổ Việt Nam, hát xong thì ngửa tay xin tiền. Tôi vẫn còn nhớ hình ảnh người ca sĩ/ăn mày đó, miệng thì hát, tay thì đập vào cái hộp sắt bỏ trong túi áo để đánh nhịp cho bài hát. Và hình như anh ta chỉ có một bài hát duy nhất để làm vũ khí cho nghề ăn xin của anh mà thôi. Đó là bài hát về anh Trương Chi:
Ngày xưa có anh Trương Chi
Người thì thậm xấu, tiếng hát thì thật hay
Cô Mỵ Nương vốn ở lầu Tây Con quan thừa tướng ngày ngày cấm cung…
Sau này, tôi vẫn thường cám ơn thầm người hành khất bằng giọng hát đó, bởi vì ngay từ khi tôi chưa có đủ trí khôn để hiểu biết cuộc đời thì anh đã nuôi dưỡng tình cảm của tôi bằng một câu chuyện tình đẹp ngang với những chuyện tình đẹp nhất trên thế giới.
Câu chuyện cổ tích về anh Trương Chi người thì thậm xấu, tiếng hát thì thật hay mà ca nhạc cổ truyền đã xưng tụng qua hình thức hát rong, hát dạo, hát xẩm… cũng đã được các thi sĩ, văn sĩ của thời nay nhắc tới. Chẳng hạn như trong bài thơ Bài Ca Ngư Phủ của Vũ Hoàng Chương mà Hoàng Thư đã ngâm lên một cách mê ly trên các đài phát thanh ở trong nước cách đây hai, ba mấy chục năm. Thạc sĩ Phạm Duy Khiêm thì viết truyện Le Cristal D’Amour bằng Pháp ngữ, in trong cuốn Légendes Des Terres Sereines. Thi sĩ Hoàng Cầm còn dùng truyện cổ đó để soạn vở kịch thơ Tiếng Hát.
Trong giới Tân Nhạc, thì có Hùng Lân với bài Hận Trương Chi, Phạm Duy viết bài Khối Tình Trương Chi và Văn Cao viết bài Trương Chi.
Vài bài hát nói lên một nỗi hận, Hùng Lân không kể chuyện anh Trương Chi, ông chỉ mượn một nhân vật tiêu biểu cho giới cầm ca để nói luôn đến chuyện Tử Kỳ và Bá Nha, chuyện người hát hay, đàn hay mà không có người thưởng thức. Phạm Duy là tôi lúc còn ấu trĩ, thì khách quan kể lại câu chuyện cổ truyền.
Riêng chỉ có Văn Cao là nói tới nhân vật tài hoa truyền kỳ này, nói tới sự não nuột trong tiếng nhạc Trương Chi, nói tới con người và số phận, đồng thời cũng nói về mình.
Không phải bây giờ Văn Cao mới nói tới Trương Chi. Người Sông Ngự đã đưa hồn Trương Chi vào hồn mình từ lâu rồi. Từ khi nói tới một trong những chiều năm xưa có những cung đàn cũng năm xưa ấy réo rắt lên, bên một người con gái đẹp… mà:
…gót hài khai hoa
Mắt huyền lưu Xuân
Dáng hồng thơm hương đã khiến cho chàng Trương Văn Cao phải đưa vào mộng mị:
Chiều năm nay
Tiếng người khơi thương
Tiếng đàn giao hoan Giấc mộng chàng Trương…
Lúc đó, Văn Cao chỉ mới hé lộ cho ta thấy tâm hồn của ông là tâm hồn của chàng ngư phủ thất tình họ Trương. Bây giờ, ông phát triển tiếng hát câm lặng đó bằng một trường khúc não nuột nhưng cũng rất kiêu sa.
Bài hát mở đầu bằng những câu nhạc dài, giống như trong bài Thiên Thai, nhưng có tính cách mô tả nhiều hơn.
Một chiều xưa trăng nước chưa thành thơ
Trầm trầm không gian mới rung thành tơ
Vương vất heo may hoa yến mong chờ Ôi tiếng cầm ca, Thu tới bao giờ!
Kiêu sa lắm chứ! Khi Văn Cao cho rằng từ lúc mới có Trời, có Đất… khi chưa có Thơ thì đã có Nhạc rồi. Và chỉ có Nhạc mới kéo được mùa thu tới cho loài hoa, loài chim, loài người…
Rồi cũng với câu nhạc đó, Văn Cao đưa tiếng nhạc Trương Chi tới Mỵ Nương:
Lòng chiều bơ vơ lúc thu vừa sang
Chập chùng đêm khuya thức ai phòng loan
Một cánh chim rơi trong khúc nhạc vàng Đây đó từng song the hé đợi đàn…
Một nét nhạc cho ta thấy Mỵ Nương vui vẻ chờ đợi tiếng hát:
Tây hiên Mỵ Nương khi nghe tiếng ngân
Hò khoan mơ bóng con đò trôi
Giai nhân cười nép trăng sáng lả lơi Lả lơi bên trời….
Anh Trương Chi! Tiếng hát vọng ngàn xưa còn rung
Anh thương nhớ, oán trách cuộc từ ly não nùng Đò trăng cắm giữa sông vắng Gió đưa câu ca về đâu?
Nét nhạc bây giờ vút lên, như tiếng nức nở của Trương Chi sau khi Mỹ Nương bị thất vọng về cái nhan sắc của anh:
Nhìn xuống đáy nước sông sâuThuyền anh đã chìm đâu!
Thuyền anh đã chìm đâu! có nghĩa là anh đã gieo mình xuống sông tự tử, nhưng oan hồn của anh còn đó khiến cho tiếng hát vẫn không tắt nghỉ. Khách giang đầu còn được nghe mãi mãi tiếng than khóc của Trương Chi:
Từng khúc nhạc xa vời
Trong đêm khuya dìu dặt tiếng tơ rơi
Sương thu vừa buông xuống cây ven bờ xa
Mờ xóa dòng sông
Ai qua bến giang đầu tha thiết
Nghe sông than mối tình Trương Chi
Dâng ta trăng khi về khuya Bao tiếng ca ru mùa Thu
Nhưng Trương Chi có thực sự than khóc cái nghèo nàn, cái xấu trai của mình hay không? Ta hãy nghe Văn Cao chuyển cung từ rê thứ qua sol trưởng một cách sướng tai vô cùng, để diễn tả giọt mưa rơi ngoài song cửa My Nương, như rơi trên những cung đàn huyền diệu… Mưa cũng rơi trên con thuyền ngoài dòng sông lạnh, thuyền này chưa chắc đã là của anh Trương Chi:
Ngoài song mưa rơi trên bao cung đàn
Còn nghe như ai nức nở và than
Trầm vút tiếng gió mưa
Cùng với tiếng nước róc rách ai có buồn chăng?
Lòng bâng khuâng theo mưa đưa canh tàn
Về phương xa ai nức nở và than
Trầm với tiếng gió vươngNhìn thấy ngấn nước lấp lánh in bóng đò xưa
Vào thuở năm 1946, trong lúc Tân Nhạc mới chập chững biết đi mà Văn Cao đã viết được những câu nhạc diễn tả giọt mưa tài tình như vậy, thật là hiếm có. Nếu ta nhận ra nét nhạc sol trưởng trong đoạn mưa rơi trên cung đàn này là nhạc ngũ cung thì ta lại càng yêu quý Văn Cao hơn lên. Câu chuyện tình éo le nhưng rồi cũng kết thúc một cách đẹp đẽ: Trương Chi chết đi nhưng vì cuộc tình chưa thỏa cho nên trái tim không chịu tan và hóa thành ngọc đá. Rồi người đời đem viên ngọc đó ra để làm thành một chén trà dâng tặng gia đình nhà quan. Trong một tiệc trà, Mỵ Nương bưng chén ngọc lên, thấy hình ảnh chàng ngư phủ cất tiếng hát trong lòng chén. Thương nhớ con người và giọng hát năm xưa, nàng rơi lệ! Giọt nước mắt nhỏ xuống chén ngọc. Thế là mối oan tình từ bao năm nay đã được thỏa mãn. Và bấy giờ thì chén ngọc, hay trái tim của chàng Trương Chi, mới tan đi… Văn Cao không đả động tới chuyện đó. Ông chỉ tiếp tục xoáy vào nhân vật Trương Chi:
Đò ơi!
Đêm nay dòng sông Tương dâng cao
Mà ai hát dưới trăng ngà
Ngồi đây, ta gõ ván thuyền ta ca trái đất còn riêng ta
Đàn đêm thâu!
Trách ai khinh nghèo quên nhau
Đôi lứa bên giang đầu
Người ra đi với cuộc phân ly
Đâu bóng thuyền Trương Chi.
Như tôi đã nói, Văn Cao không kể lại câu chuyện Trương Chi/Mỵ Nương. Ông chỉ tỏ thái độ của chàng Trương sau khi thất tình, trước khi chết cũng như sau khi chết:
Ngồi đây ta gõ ván thuyền ta ca trái đất còn riêng ta!
Tâm hồn tôi đẹp – vì tôi hát hay mà – nhưng hình hài tôi xấu, người không yêu tôi à? Thì tôi vẫn có cuộc đời hay trái đất này để ra một tuyên ngôn: Trái đất còn riêng ta! Trách ai khinh nghèo quên nhau! Trách ai? Trách xã hội hay trách người đời không bao giờ dung nổi con người nghệ sĩ? Ta vẫn còn riêng ta. Đó là ý nghĩa của bài Trương Chi. Người Việt Nam, yêu nhạc, trải qua gần năm mươi năm của lịch sử Tân Nhạc lúc nào cũng sẵn sàng bị phản bội. Không phải tới bây giờ, ở trong những cộng đồng Việt Nam hải ngoại, những nhà tái bản sách nhạc, những con buôn của nghề sản xuất lậu băng nhạc, những ca sĩ không biết tự trọng… luôn khinh miệt người sáng tác bằng cách sử dụng bừa bãi những tác phẩm làm bằng mồ hôi nước mắt của tác giả, nhưng không xin phép, không trả tác quyền, không đề tên tác giả trên bìa băng, không hát đầy đủ lời ca của tác phẩm… Ngay từ hồi Văn Cao viết bài tình ca bất hủ Trương Chi này, người ta cũng không bao giờ chịu để ý tới lời 2 của nhạc phẩm để in ra hoặc hát lên. Hôm nay, tôi có dịp để ghi lại những lời ca đẹp như trái tim ngọc đá của ngư phủ họ Trương:
Từ ngày trăng mơ nước in thành thơ
Lạc loài hương thu thoảng vương đường tơ
Ngây ngất không gian rên siết lay bờ
Bao tiếng cầm ca rung ảnh sao mờ
Nhạc còn lưu luyến nhắc ai huyền âm.
Lạnh lùng đôi dây tố lan trầm ngân
Trong lúc đêm khuya ai lóng tiếng cầm
Thu đã chìm xa xa ảnh nguyệt cầm.
Khoan khoan đò ơi! Tương tư tiếng ca
Chàng Trương Chi cất lên hò khoan
Đêm Thu dài đến, khoan tiếng nhạc ơi! Nhạc ơi, thôi đành…
Có một điều buồn đến với tôi khi hát lên lời 2 của bản Trương Chi này. Văn Cao tiên tri cái ngày mà ông không được phép đàn hát nữa? Như đã xảy ra sau vụ Nhân Văn Giai Phẩm?
Đêm Thu dài đến, khoan tiếng nhạc ơi! Nhạc đi. Thôi đàn…
Đêm Thu đến với Văn Cao, quả rằng nó đã quá dài! Dài tới ba mươi năm lẻ! Văn Cao đã chết đi như Trương Chi, trái tim chàng có lẽ cũng đã thành viên ngọc đá. Ai là người sẽ nhỏ lệ lên trái tim Văn Cao?
PHẠM DUY
(Trích VĂN HỌC số 15, 16, 17 tháng 4, 5, 6 năm 1987 với sửa chữa của tác giả), nguồn: Báo Hợp Lưu
Nguồn nhacxua.vn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét