Ở Việt Nam lâu nay, giới cầm quyền cũng như giới truyền thông hay nói đến những “thế lực thù địch”. Không ai giải thích rõ, nhưng hầu như mọi người đều biết, với nhóm từ ấy, người ta nhắm đến các quốc gia Tây phương, đặc biệt là Mỹ, trong cái gọi là âm mưu “diễn biến hoà bình” nhằm làm thay đổi chế độ tại Việt Nam.
Tuy nhiên, chỉ cần bình tĩnh và sáng suốt một tí, người ta sẽ thấy ngay là Mỹ không có lý do gì để trở thành “thù địch” với Việt Nam. Cuộc chiến tranh giữa Mỹ và Việt Nam (miền Bắc) đã chấm dứt từ 40 năm trước. Cuộc chiến tranh lạnh, nguyên nhân làm bùng nổ chiến tranh giữa Việt Nam và Mỹ, cũng đã chấm dứt cùng với sự sụp đổ của Liên Xô và khối xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu vào đầu thập niên 1990.
Với Mỹ, một trong những nguyên tắc nền tảng của mọi chính sách đối ngoại là không có bạn cũng như không có kẻ thù vĩnh viễn. Bạn hay thù tùy thuộc vào lợi ích quốc gia, nghĩa là tuỳ thuộc vào hoàn cảnh. Hoàn cảnh hiện nay là Mỹ muốn làm bạn với Việt Nam. Có hai lý do chính:
Một, Mỹ muốn tăng cường hợp tác kinh tế với Việt Nam để làm ăn; và
Hai, Mỹ cần Việt Nam để bảo vệ Biển Đông, một trong những con đường hàng hải tấp nập và quan trọng nhất trên thế giới.
Trong quan hệ với Việt Nam, Mỹ hay nhấn mạnh đến yếu tố nhân quyền như một trong những điều kiện để hợp tác. Điều đó khá dễ hiểu.
Một, đó là một trong những nguyên tắc căn bản trong các chính sách ngoại giao của Mỹ: để làm bạn, cả hai nước phải chia sẻ với nhau một bảng giá trị chung. Cốt lõi của bảng giá trị ấy là tôn trọng quyền làm người.
Hai, riêng với Việt Nam, Mỹ lại càng cần nêu lên nguyên tắc ấy chủ yếu để đáp ứng lại sự đòi hỏi của một bộ phận khá đông dân chúng Mỹ. Ở trên, tôi có nói với Mỹ, không có kẻ thù vĩnh viễn. Đó là về phía chính phủ. Với dân chúng thì khác. Những người từng tham gia vào chiến tranh Việt Nam cũng như thân nhân của những người đã từng bị hy sinh tại Việt Nam không dễ gì quên hẳn được quá khứ. Đó là chưa kể cộng đồng người Việt khá đông đảo tại Mỹ. Tất cả đều yêu sách chính phủ Mỹ cần đặt ra những điều kiện nào đó khi muốn đẩy mạnh quá trình hợp tác với Việt Nam. Tuy nhiên, nên lưu ý: nhân quyền là điều kiện nhưng không phải là điều kiện tiên quyết. Trên thực tế, lâu nay, chính phủ Mỹ vẫn hợp tác với khá nhiều chế độ độc tài nếu họ thấy sự hợp tác ấy là cần thiết và có lợi.
Bởi vậy, có thể nói với Việt Nam, Mỹ sẽ không đẩy yêu sách dân chủ hoá trong chừng mực mối quan hệ giữa hai nước tốt đẹp đủ để bảo vệ những lợi ích chung. Cái gọi là âm mưu “diễn biến hoà bình” của Mỹ, nếu có, chỉ có một ý nghĩa rất tương đối trong cái gọi là chủ nghĩa thực tiễn (realism) của những nhà hoạch định chính sách tại Mỹ. Đó là chưa kể, để bảo vệ các lợi ích của họ, điều Mỹ cần nhất ở Việt Nam là sự ổn định về chính trị.
Điều đó lại cũng dễ hiểu. Không ai có thể an tâm làm ăn buôn bán cũng như bàn chuyện hợp tác chiến lược ở những nơi thường xuyên thay đổi chính phủ cả. Ở điểm này, chính phủ Mỹ và chính phủ Việt Nam rất gần nhau: mọi người đều muốn ổn định dù cái giá để trả cho sự ổn định, về phía dân chúng, là cái ách độc tài nặng trĩu trên lưng của họ.
Nếu Mỹ không phải là lực lượng thù địch của Việt Nam thì là ai?
Câu trả lời hầu như ai cũng rõ: Trung cộng . Chỉ có thể là Trung cộng . Chứ không có bất cứ ai khác.
Nói đến âm mưu xâm lấn của Trung cộng , nhiều người nghĩ đến viễn cảnh Trung cộng tấn công trên đất liền. Tôi nghĩ viễn cảnh ấy sẽ không xảy ra. Trung cộng không phiêu lưu một cách dại dột như thế.Bởi chọn thế trận như vậy là phải đối diện với cuộc chiến toàn dân của Việt Nam. Có chiếm cũng không giữ được đất. Vả lại, Trung cộng cũng không cần chiếm Việt Nam khi họ có thể tác động dễ dàng lên guồng máy lãnh đạo Việt Nam để đạt được các mục tiêu kinh tế và chính trị của họ.
Cuộc xâm lấn của Trung cộng chỉ diễn ra trên biển.
Nói đến âm mưu xâm chiếm trên biển của Trung cộng , phần lớn chỉ để ý đến các sự kiện cụ thể như vụ cắt dây cáp ngầm của Việt Nam, việc đem giàn khoan HD-981 đến thềm lục địa Việt Nam, việc cải tạo bãi đá Gạc-Ma hay việc bắt bớ các ngư dân Việt Nam đang đánh cá gần Hoàng Sa hay Trường Sa. Chỉ chú ý đến các sự kiện ấy nên người Việt Nam dễ thấy thỏa mãn khi một số khó khăn đã được giải quyết: dây cáp ngầm được nối, giàn khoan được rút về nước hay những ngư dân bị bắt được thả. Có lẽ nghĩ như thế, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cho là Việt Nam đã “thắng lợi” trong cuộc đương đầu với giàn khoan HD-981 hồi đầu năm ngoái. Thật ra, đó chỉ là những sự kiện lặt vặt. Âm mưu thực sự của Trung cộng lớn hơn nhiều: làm chủ hơn 90% diện tích Biển Đông của Việt Nam.
Mà Trung cộng không hề giấu giếm điều đó. Bằng hành động cũng như bằng lời nói, lúc nào họ cũng cho Biển Đông là “sân nhà” của họ, là “lợi ích cốt lõi” mà họ không thể từ bỏ hay nhân nhượng. Có thể hình dung chiến lược xâm lấn Biển Đông của Trung cộng được bao gồm ba giai đoạn:
Một, tuyên bố con đường lưỡi bò (hoặc con đường gồm chín khúc);
Hai, tuyên bố vùng nhận dạng hàng không trên trời tương ứng với con đường lưỡi bò dưới biển; và
Ba, thực hiện việc kiểm soát ngặt nghèo cả trên trời lẫn dưới biển để bất cứ một chiếc thuyền hay một chiếc máy bay nào đi ngang qua con đường lưỡi bò ấy cũng đều phải xin phép Trung cộng và chịu sự kiểm tra của Trung cộng . Xong giai đoạn thứ ba, cuộc xâm lấn của Trung cộng coi như kết thúc.
Khi cuộc xâm lấn ấy kết thúc, nước nào bị thiệt hại nhiều nhất? Câu trả lời rất đơn giản: Việt Nam. Brunei nhiều lần tuyên bố chủ quyền ở Trường Sa nhưng họ chưa bao giờ thực sự làm chủ bất cứ hòn đảo hay bãi đá nào. Chỉ thực sự làm chủ một số đảo hay bãi đá ở Trường Sa và Hoàng Sa là Philippines, Đài Loan, Malaysia và Việt Nam. Trong số các quốc gia ấy, nước làm chủ nhiều nhất là Việt Nam. Do đó, nếu Biển Đông mất, Việt Nam cũng sẽ là nước bị mất mát nhiều nhất. Hơn nữa, ngoài đảo, còn có vùng biển. Nếu con đường lưỡi bò của Trung cộng được xác lập chính thức, Việt Nam sẽ mất khoảng 90% chủ quyền trên Biển Đông.
Mất 90% cũng có nghĩa là mất trắng Biển Đông.
Tất cả những sự phân tích đều không có gì mới mẻ. Hầu như ai cũng biết trừ… chính quyền Việt Nam.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét