Tìm bài viết

Vì Bài viết và hình ảnh quá nhiều,nên Quí Vị và Các Bạn có thể xem phần Lưu trử Blog bên tay phải, chữ màu xanh (giống như mục lục) để tỉm tiêu đề, xong bấm vào đó để xem. Muốn xem bài cũ hơn, xin bấm vào (tháng....) năm... (vì blog Free nên có thể nhiều hình ảnh bị mất, hoặc không load kịp, xin Quí Bạn thông cảm)
Nhìn lên trên, có chữ Suối Nguồn Tươi Trẻ là phần dành cho Thơ, bấm vào đó để sang trang Thơ. Khi mở Youtube nhớ bấm vào ô vuông góc dưới bên phải để mở rộng màn hình xem cho đẹp.
Cám ơn Quí Vị

Nhìn Ra Bốn Phương

Thứ Tư, 27 tháng 11, 2024

Trên vòm trời lửa đạn - KQ Vĩnh Hiếu


Vùng cao nguyên bỗng dưng sôi động, những cánh chim sắt của phi đoàn Thần Tượng bất chợt bị cuốn lốc trong cơn bão của trận chiến bất ngờ.Những ngày hành quân liên tục trên những địa danh xa lạ chưa từng biết đến của vùng rừng núi địa đầu giới tuyến đã gây nhiều ấn tượng sâu đậm trong lòng một người trai thời loạn. Xin ghi lại đây một vài hình ảnh, kỷ niệm của những tháng ngày dài rong ruổi trên những chiến trường đẫm máu, cũng như những phi vụ kinh hoàng mà những người chiến sĩ Không Quân đã âm thầm lặng lẽ ra đi không ai nhắc nhở.
<!>
Để độc giả dễ dàng theo dõi những diễn tiến cũng như địa danh trong bài viết, tôi xin khái lược về mặt trận vùng cao nguyên 1972. Trận chiến khốc liệt nhất trong chiến trường Việt Nam đã xảy ra trong những tuần lễ cuối mùa Xuân năm 72 kéo dài qua những tháng mùa hè và đã được tác giả Phan Nhật Nam mô tả trong tác phẩm bi hùng tráng “Mùa Hè Đỏ Lửa’’, mặt trận được gọi là “Easter Offensive”, danh từ của đồng minh Hoa Kỳ. Đó là trận chiến khốc liệt, Cộng quân cố thu hết tàn lực để mở một chiến dịch tổng công kích cuối cùng trên toàn cõi miền Nam hy vọng đạt được một thắng lợi nhằm tạo áp lực lên bàn hội nghị hòa bình ở Paris.
3 mặt trận đồng loạt đánh vào miền Nam:
– Chiến dịch Nguyễn Huệ, mũi dùi số một hơn 30,000 quân Cộng Sản tràn qua sông Thạch Hãn, tiến chiếm Quảng Trị, Thừa Thiên vùng 1.
– Mặt trận B-2, miền Nam từ lãnh thổ Cam Bốt, mũi dùi thứ hai đánh thốc vào Lộc Ninh, Bình Long, chế ngự vùng 3.
– Mặt trận B-3, mũi dùi thứ ba cắt ngang vùng 2, nhắm vào Tân Cảnh, Kontum, Pleiku sau đó qua đường thung lũng Mật Khu An Lão, kéo xuống đồng bằng Bình Định, bởi 2 Sư Đoàn tinh nhuệ của địch, Sư Đoàn Thép và Sư Đoàn 3 Sao Vàng cùng Sư Đoàn F10 được yểm trợ bởi Lữ Đoàn chiến xa 203 và nhiều Trung Đoàn pháo binh.

Từ cuối tháng Giêng năm 1972, theo các nguồn tin tình báo, tù binh và hồi chánh,Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 2 ghi nhận có nhiều đơn vị Cộng sản Bắc Việt từ Cam Bốt và Lào đã xâm nhập vào khu vực phía Bắc tỉnh Kontum. Đồng thời không thám của quân đội Hoa Kỳ cũng đã ghi nhận được những sự tập trung lớn của lực lượng Cộng sản trong vùng thung lũng phía Tây Nam của Dak Tô và Tây Bắc của thành phố Kontum. Kể từ khi được tin địch xuất hiện, các đơn vị không kỵ và trực thăng võ trang Hoa kỳ đã nỗ lực thám sát và phát hiện được 6 lằn xích song hành và nhiều chiến xa Bắc Việt tại phía Đông căn cứ 609 và thung lũng Plei Trap nằm về phía Tây của dãy núi “Rocket Ridge”. Theo như dự đoán của bộ chỉ huy Quân Đoàn 2 và những cố vấn Hoa Kỳ thì địch có thể sẽ tấn công Cao Nguyên vào mùa khô.
Quân Đoàn 2 bắt đầu tăng cường phòng thủ Kontum và Pleiku. Bộ Tư lệnh tiền phương Sư Đoàn 22 được dời từ Bình Định lên Tân Cảnh- Dakto. Sư Đoàn 22 bộ binh gồm có 4 Trung Đoàn 40, 41, 42, 47. Tư Lệnh Đại tá Lê Đức Đạt, trách nhiệm vùng Tân Cảnh và DakTô 2. Thiết Đoàn 19 Kỵ Binh cũng được tăng cường đến TânCảnh. Sư Đoàn 23 gồm 3 Trung Đoàn 44, 45, 53, Tư Lệnh là Đại tá Lý Tòng Bá, từ Ban Mê Thuột được tăng viện thay thế Sư Đoàn 22 bị tan rã sau khi căn cứ hỏa lực Tân Cảnh bị thất thủ, để bảo vệ Kontum, đã lập phòng tuyến từ phía Bắc thành phố từ Đông sang Tây.
Lữ Đoàn 2 Dù được tăng cường cho Quân Đoàn 2, chịu trách nhiệm vòng đai phía Tây Quốc Lộ 14, đóng trên những cao điểm. Đóng dọc theo biên giới có 11 Tiểu Đoàn Biệt Động Quân biên phòng chịu trách nhiệm căn cứ Ben Hei, ngay ngã ba biên giới, thường gọi là Tam Biên, cùng với tiền đồn Polei Kleng phía Tây Kontum khoảng 20 cây số.
Riêng dãy Rocket-Ridge, tên gọi của quân đội Hoa Kỳ, sẽ là một địa danh quen thuộc trong trận chiến mùa hè 72. Đây là một dãy cao điểm chạy dài từ Bắc xuống Nam, nằm dọc theo phía Tây Quốc lộ 14 khoảng 12 cây số, tọa lạc hầu như ở giữa Tân Cảnh và Kontum, nơi những căn cứ hỏa lực mang tên Tiền Đồn 6, Tiền Đồn 5, căn cứ Yankee, Charlie và Hotel đã nổi danh để đón nhận một định mệnh tàn khốc trong những trận chiến rực lửa mùa Hè 72. Đặc biệt nhất là căn cứ Charlie, qua bài ca bất hủ của nhạc sĩ Trần Thiện Thanh, “Người ở lại Charlie”, đã ca tụng và tiếc thương cái chết của người anh hùng Tiểu Đoàn trưởng TĐ/11 Lữ Đoàn 2 Nhảy Dù, Trung tá Nguyễn Đình Bảo.

Phi Vụ Mở Màn:
Oành!..Oành!.. Sau hai tiếng nổ như long trời lở đất, tôi mở choàng mắt dậy. Chưa tỉnh hồn không biết mình đang ở đâu, tôi phóng đại về hướng trước mặt. Được chừng vài chục bước tôi ngừng lại thấy mình đứng chơ vơ giữa phi đạo nhựa đường đen trơ trụi, hơi nóng bốc lên hừng hực, xung quanh không một bóng người. Biết mình vừa “bị tẩu hỏa nhập ma” tôi vội vàng quay trở lại.
Oành!.. Tôi nghe tiếng la to phía sau lưng:
– Ê...ê...hướng này nè!..Mẹ!..thằng này nó khùng rồi!..
Oành! Một trái pháo khác nữa nổ ngay đầu phi đạo. Tôi rụt đầu “né” những mảnh đạn pháo đang bay xé trong không gian.Người trần trùng trục, chiếc áo bay “nomex” màu cứt ngựa “fermeture” kéo tới rốn ra ngang thắt lưng, hai cánh tay áo quấn vòng ngang bụng cột gút. Tôi khom người phóng nước đại xuyên qua giữa khoảng trống của mấy chiếc trực thăng tắt máy đậu dọc theo phi đạo, hai tay khư khư ôm lấy quần cho khỏi tụt.
– Ê!... tao đây này!... lại đây mau lên!
Thấy Trung úy Thành “râu” đang ngồi trong hố đất cách mấy chục thước, thò đầu lên, nhe hàm răng trắng bóc dưới bộ râu đen, tôi đổi hướng. Cái hố cá nhân đào vừa đủ cho một người, Thành đang ép sát chừa chỗ cho tôi. Nhanh như cắt tôi phóng mình xuống đưa cả hai chân vào.
– Mẹ... mày ngủ mơ sao mà khùng thế! Tao thấy mày ở trần tay ôm quần chạy khơi khơi giữa phi đạo giống như thằng điên, tụi nó cười quá trời.
Nói xong Thành cười rộ. Bây giờ tôi có phần hoàn hồn, tim đã bớt đập, cố lấy giọng bình tĩnh đánh trống lảng cho bớt “quê”:
– Bố khỉ!.. tụi nó pháo dữ quá. Đón tiếp phi hành đoàn 215 kiểu này thì chết mẹ mình rồi. Chân ướt chân ráo lên đây găp cảnh này mất vui quá!

Thành “râu” rặc giọng Bắc kỳ, có vẻ sốt ruột:
– Không biết tụi mình đáp đây làm cái đếch gì ở đây mà chờ lâu thế, nằm chờ để “ăn” pháo kích toi mạng.
– Mình đáp lúc 2 giờ trưa phải không mày?... Chờ cả tiếng đồng hồ rồi đó.
Nói xong tôiđưa tay lên xem giờ vừa quẹt mồ hôi đổ hột trên mặt vừa phân bua cái vụ chạy “lộn sòng” lúc nãy:
– Tối hôm qua ở Phan Thiết đi chơi khuya mới về, lúc nãy chờ buồn ngủ quá tao chui ra sau tàu nằm thiếp đi ai dè tụi nó pháo làm tao giật cả mình tỉnh dậy không biết trời đất gì.

Oành!... Oành!... Hai trái pháo nổ gần đầu phi đạo, những cụm khói đen bốc lên lẫn bụi mù.
– Dzọt... dzọt... mày...
Tôi nhảy phóc lên khỏi miệng hố vừa chạy vừa mở gút tay áo buộc ngang bụng xỏ hai tay kéo áo bay lên người. Vừa đến gần chiếc trực thăng võ trang đang đậu, mấy anh xạ thủ đã nai nịt sẵn sàng. Tôi nhảy vọt lên ghế bay, không kịp bận áo giáp, cầm chiếc “helmet” treo sau lưng ghế đội vội vào, kéo hai sợi dây “seatbelt” buộc vào bụng xong, tôi cho con tàu quay máy. Tiếng kêu O...O... đồng loạt của những chiếc trực thăng khác đang đậu gần đó vang lên trong bầu không khí oi ả. Những cánh quạt trực thăng uể oải lười biếng chuyển mình chầm chậm rồi nhanh lên dần. Tôi nóng ruột vặn tay ga, chiếc kim rpm (revolution per minute) trên đồng hồ tăng vọt, xong tôi kéo vội cần cao độ, con tàu đầy ắp đạn và “rocket” nặng nề rùng mình rời mặt đất khô nóng bỏng. Trước mặt những chiếc trực thăng cất cánh bay tứ tán loạn cào cào, không đội hình hàng ngũ.
Con tàu đã lên cao, nhìn xuống phi trường Phượng Hoàng hoang vắng nhỏ dần dưới ánh nắng mặt trời đang nung đốt, lác đác một vài trái đạn nổ tung lên những cụm khói nhỏ đen xám lẫn bụi đỏ...
Chiếc Charlie nhắc nhở:
– Hợp đoàn bay vòng chờ, hết pháo tụi mình xuống đáp lại, nghe rõ.
5 chiếc trực thăng chúng tôi cùng với những chiếc của Không Kỵ Hoa Kỳ như một đàn diều đông đảo bay lượn trên bầu trời hanh nắng. Tôi tò mò hỏi:
– Charlie đây Mãnh Hổ! Mình đang chờ gì ở đây vậy?

Đại úy Đức trả lời:
– Sĩ quan liên lạc của quân bạn đang trên đường tới phi trường, mình sẽ làm phi vụ tiếp tế cho căn cứ hỏa lực vừa bị địch tấn công tối hôm qua.
Ngày hôm kia tôi cùng phi đội 215 được chỉ thị đi biệt phái ở Phan Thiết 1 tuần lễ. Nghe tin đi Phan Thiết anh em tranh nhau tình nguyện nhất là trong biệt đội có mặt Trung úy Thành, cháu của Đại tá Tỉnh Trưởng. Anh ta về đó như “Hổ” về rừng, ở trên trời anh là Hổ 2 bay theo đuôi Hổ 1, nhưng ở dưới đất Phan Thiết anh là “Charlie” dẫn đầu phi đội đi “bay...bướm”.Phi hành đoàn vừa đáp xuống ngay tỉnh đường đã có xe chờ sẵn mời đi ăn “điểm xấm” hay hủ tiếu mì phở, buổi trưa xe Jeep đón đưa đi ăn cơm tại những nhà hàng Tàu sang trọng, ăn xong còn thêm gói thuốc lá dắt lưng. Trong thời gian tại đó chúng tôi chỉ túc trực ứng chiến tại cư xá tỉnh dành cho khách vãng lai. Phòng ốc khang trang, ai rảnh muốn đi phố uống cà phê, cà pháo hay thụt bi da chỉ việc leo lên xe Jeep chừng vài phút là tới. Ở tại thành phố này có những quán nước sát bên bờ sông, cây râm bóng mát rất hữu tình, anh em phi hành đoàn “xum xoe” trong bộ đồ bay súng ống “lỏng chỏng” thường ra ngồi đó để ngắm mấy em đi qua đi lại... Đó là những khoảng thời gian nhàn nhã “vui thú điền viên” khó kiếm trong thời buổi chiến chinh.
Sáng ngày hôm nay sau khi biệt đội đi ăn trở về thì nhận được tin “sét đánh ngang tai”, tất cả hợp đoàn phải thu xếp hành trang Pleiku trực chỉ, thời gian biệt phái sẽ cho biết sau. Tôi linh cảm đây là chuyện chẳng lành. Một mặt trận nào đã xảy ra nữa đây? Không có sự lựa chọn tôi về phòng thu xếp hành trang, trong lòng ca câu “thân trai mười hai bến nước trong nhờ đục chịu” rồi theo chân hợp đoàn cất cánh.
Trên vòm trời Phan Thiết, bầu không khí thoang thoảng phảng phất mùi mắm ruốc thum thủm từ hàng trăm hãng sản xuất nước mắm bốc lên. Tôi nghiêng đầu nhìn xuống những xóm làng chài lưới lúp xúp mái ngói đỏ cùng những mái tôn chấp chóa kế hàng dừa xanh sau bãi cát trắng vòng cung hàng trăm chiếc thuyền đánh cá neo san sát trong vùng vịnh nhỏ.
Ở đầu bãi một ngôi nhà gạch màu vàng nhạt nằm trên ngọn đồi thấp cô quạnh sát mé nước, trên cao trông như một lô-cốt tí tẹo, đó là Lầu Ông Hoàng, nơi mà nhà thơ Hàn Mặc Tử đã nhiều lần dắt cô Mộng Cầm ra hóng mát. Điếu thuốc cháy dở trên môi, sợi khói trắng quyện vào mắt cay xè, tôi chắt lưỡi luyến tiếc trở lại với thực tại, trước mặt những chiếc trực thăng chổng mông nối đuôi nhấp nhô lên xuống. 5 con chim sắt bắt đầu hướng về vùng lửa đạn, để lại sau lưng thành phố yên bình. Theo chỉ thị mới nhận được trên tần số cho biết chúng tôi phải bay lên đáp phi trường Phượng Hoàng cạnh thị xã Tân Cảnh, tỉnh Kontum để nhận lệnh hành quân. Sau hơn 2 tiếng rưỡi đồng hồ, bay đáp lấy xăng tại phi trường Cù Hanh, Pleiku, hợp đoàn gần đên điểm hẹn. Trên cao độ 2 ngàn bộ, phi trường Phượng Hoàng thoáng hiện trong bầu không khí rực nắng oi ả. Hợp đoàn giảm cao độ nối đuôi đáp xuống dọc theo một phi đạo vừa đủ dài cho những phi cơ nhẹ đáp. Gọi là phi trường nhưng thật ra chỉ là 1 giải đất rộng nằm trơ trụi trên một địa thế cao và bằng phẳng, xung quanh toàn cỏ dại vàng cháy, không một công sự hay nhà cửa nào cả, xa xa chỉ thấy hàng rào kẽm gai vây bọc. 5 chiếc trực thăng chầm chậm nối đuôi nhau lướt trên mặt nhựa đường đen tháng năm đã loang lổ. Phía bên phải phi đạo đã có 7-8 chiếc trực thăng đậu hàng dọc tắt máy cùng 2 chiếc “gunship” Cobra mình dẹp lép như con cá chình, mang đầy nhóc “rocket” dữ dằn. Đơn vị Lữ Đoàn Không Kỵ của người bạn đồng minh Hoa Kỳ đã có mặt tại đây không biết từ bao lâu. Tất cả hợp đoàn tắt máy chờ, tôi chui ra sau khoang tàu nằm và đánh một giấc ngủ say sưa.

Bay vòng vòng trên bầu trời địa đầu giới tuyến, chờ cơn pháo ngưng, tôi ngả người vào lưng ghế nghỉ mệt, giấc ngủ vừa qua tuy ngắn ngủi nhưng cũng giúp tôi lấy lại sức lực sau chuyến bay dài từ Phan Thiết. Trong mơ hồ tôi suy nghĩ vẫn vơ tới những cuộc hành quân đã qua, yễm trợ bốc quân, đổ viễn thám, tiếp tế,cuộc hành quân hôm nay chắc cũng không khác gì những ngày tháng trước. Nhưng tôi đã không ngờ rằng cuộc diện bây giờ đã đổi thay, những sôi động đã âm thầm biến chuyển ngoài sự hiểu biết của 1 hoa tiêu tầm thường.
Phi vụ ngày hôm nay sẽ là 1 phi vụ mở màn cho những ngày tháng tới đối đầu với một trận chiến hoàn toàn khác hẳn những gì tôi đã kinh qua. Tôi sắp bước vào một trận chiến lịch sử, một trận chiến kinh hoàng khốc liệt nhất trong chiến trường từ khi bọn Cộng Sản khởi động xâm lấn miền Nam.Trận chiến được mang danh là “Mùa Hè Đỏ Lửa” hay là “Trận Chiến Một Trăm Ngày.”
Tôi sẽ là chứng nhân sống cho những ngày tháng sôi động, những cuộc giao tranh, thắng bại, dành nhau từng tấc đất, con tàu bốc cháy nổ tung trên không trung hay ngay giữa phi đạo, những bạn bè thân thương gãy cánh, lìa đàn, những giây phút căng thẳng thần kinh đến tột độ, những phi vụ mạng sống như chỉ mành treo chuông, những trận đại pháo ào ạt như mưa rào, như thác đổ, những xác người tan nát, cháy nám... Một mặt trận địch đã dốc hết toàn lực, khả năng gần như đã kiệt quệ để đánh một ván bài cuối cùng dứt điểm mục tiêu mà chúng đã kiên trì nổ lực bao năm qua với sự hy sinh hàng trăm ngàn, hàng triệu sanh linh vô tội đã bị chúng lôi cuốn vào cuộc chiến tranh điên rồ này.
Có lẽ trận pháo mở màn để chào mừng phi đội 215 đã chấm dứt sau 15 phút lòng vòng trên trời, chúng tôi được lệnh đáp trở lại phi trường Phượng Hoàng. Tắt máy xong, tôi bước xuống đi nhanh về hướng Đại úy Đức đangđứng nói chuyện với Đại úy Vỹ,bay chiếc chở quân. Thấy tôi Đại úy Đức cất tiếng rặt giọng Trung kỳ:
– Hổ... hồi nãy mày làm gì mà chạy ra giữa phi đạo vậy, chưa ăn mảnh pháo là may đó.
Nói xong anh cười thật tươi đưa hàm răng trắng đều.

Đại úy Đức người cao ráo, nở nang, khuôn mặt chữ điền rất đẹp trai, chắc có lẽ đã có nhiều em theo chết mê mệt. Từ ngày về với Thần Tượng đến giờ phút này tôi đã bay nhiều phi vụ võ trang dưới sự điều động của vị niên trưởng này. Chung chia rất nhiều kỷ niệm trong thời gian biệt phái Phù Cát, Pleiku, Ban Mê Thuột, Phan Rang, Phan Thiết... Chúng tôi gần bên nhau, cùng chung giới tuyến, chia sẻ những niềm vui lớn nhỏ, cũng như gian nguy cực khổ từ đó đã nẩy sinh những tình nghĩa vô cùng sâu đậm.
– Sao, m..à..y tỉnh ngu...ủ chư..a đó..!
Đại úy Vỹ đứng kế lên tiếng chọc quê tôi trong giọng nói nhừa nhựa ê a rặc tiếng Bắc Nghệ Tỉnh nghe buồn cười quá. Tại phi đoàn anh em thường gọi anh là “Cụ” Vỹ, vì thân hình thấp thấp tướng đi hơi lom khom cộng lại thêm giọng nói khàn khàn kéo dài. “Cụ” Vỹ là một đề tài tiếu lâm cho anh em chọc ghẹo, con người vui vẻ xuề xòa nhưng đôi khi hơi nóng tánh. Tôi ưa nói đùa với bạn bè trong những lúc họp mặt: “Nếu tao vào vùng “hot” nghe “Cụ” Vỹ kêu tần số báo cáo có phòng không của địch, chờ cho “cụ” nói xong thì tụi nó đã bắn tao banh xác rồi”. Một giai thoại liên hệ với “Cụ” Vỹ nghĩ tới tôi vẫn còn “sượng sùng”. Lúc còn chân ướt chân ráo làm lính mới tò te của phi đoàn, 1 buổi sáng đang đứng mua 1 ít đồ lặt vặt trên đường Nguyễn Hoàng cạnh chợ Xóm Mới Nha Trang, tôi vô tình gặp một cô bạn gái đi cùng với một người bạn đi ngang. Sau khi tay bắt mặt mừng, chào hỏi hai ba câu xong, cô bạn gái tôi hỏi:
– Anh ở phi đoàn Thần Tượng có biết anh Vỹ không? Tôi nhanh nhẩu, ra điều sành sõi:
– Biết chớ, Trung úy Trần Thế Vỹ ai mà không biết, tụi này kêu là “Cụ Vỹ” già đó mà!
Nghe tôi nói xong bạn tôi mĩm cười, xoay qua chỉ cô gái tóc bỏ ngang vai với khuôn mặt trái xoan dễ thương, chưa ngoài 20 đang đứng kế bên nãy giờ im lặng:
– Xin giới thiệu với anh đây là ‘fiancée’ của anh Vỹ.
Tai lùng bùng, người đứng sượng trân thiếu điều muốn độn thổ.Tôi gật đầu chào,miệng lí nhí nói không ra hơi:
– Dạ... dạ... chào chị...
Một thời gian sau đó, một bữa thằng bạn thân gặp tôi ở phi đoàn, anh ta kéo tôi ra một góc phòng ghé vào tai tôi thì thầm nói nhỏ, ra điều đang tiết lộ một chuyện gì quan trọng: “Tao nói cho mày biết chuyện này, để mày cẩn thận, hôm qua không có mày đây tao nghe “Cụ” Vỹ tuyên bố trước mặt bá quan văn võ rằng: Tụi mày nói lại với thằng H., nó mà còn lạng quạng mời con đào tao đi ăn phở một lần nữa thì tao bắn bỏ mẹ nó!” Thật là oan ơi ông Địa, tôi chỉ gặp đào “Cụ” có một lần đó thôi làm sao mà có cơ hội mời mọc, vả lại lúc đó tôi đang ở tình trạng “thặng dư” đào “dùng” không kịp đâu đến nỗi mà phải đi cửa hậu với người nhà.
Trong khi mọi người đang đứng đấu láo thì từ xa bụi đỏ tung mù, chiếc xe cam nhông cùng chiếc xe Jeep phom phom chạy đến. Chiếc Jeep dẫn đầu ngừng ngay bên hông tàu Charlie, một vị Đại úy Dù, đeo dây ba chạc, đầu đội nón sắt cùng người phụ tá vội vã nhảy xuống xe, trên khuôn mặt lộ vẻ khẩn trương. Viên Đại úy đưa tay lên chào theo cung cách nhà binh, xong bắt tay từng người:
– Chào quý vị.
Đại úy Đức lên tiếng:
– Chào Đại úy, sao giờ này mới đến, nằm chờ ở phi đạo bị tụi nó pháo quá.
– Xin lỗi quý vị phi hành đoàn nghe, tôi phải chờ ở phòng hành quân lấy thêm chi tiết và điều động xin vài phi tuần khu trục yễm trợ xong rồi mới ra đây được.
Trong tay cầm mấy bản đồ, vị Đại úy đi vòng phía trước chiếc xe Jeep, trải rộng tấm bản đồ trên đầu xe xong đi ngay vào vấn đề:
– Tối hôm qua căn cứ hỏa lực Tiền đồn 6 đã bị địch pháo kích cả hàng trăm trái hỏa tiễn và tấn công nhiều đợt tới tấp. Quân bạn hiện đang ở tình trạng nguy ngập cần tiếp tế gấp đạn dược, nước uống gấp và chở một số thương binh về.

Đại úy Đức chen vào:
– Sao trực thăng Mỹ ở đây làm gì mà anh không nhờ họ vậy Đại úy?
– Tụi tôi đã làm việc với họ sáng hôm nay rồi, nhưng khi vào đáp bị bắn rát quá nên họ quay trở lại từ chối phi vụ. Tôi đã xin nhiều phi tuần khu trục dội bom yễm trợ, nhưng địch bám sát quân bạn quá gần nên khó lòng. Cứ điểm này có một vị trí chiến lược rất quan trọng, bất cứ giá nào chúng tôi cũng phải giữ không để mất được, mong quý vị giúp cho một tay.
Vây quanh đầu xe Jeep, Đại úy Đức cùng Đại úy Vỹ và mấy hoa tiêu khác chăm chú nhìn vào tấm bản đồ màu xanh nhạt, những vòng tròn cao độ vẽ chằng chịt, cùng những nét bút màu đen đỏ.
Viên Đại úy chỉ vào một vòng tròn đỏ:
– Đây là Căn cứ Hỏa lực 6 hiện thời đang bị địch bao vây áp đảo nặng. Ngay bây giờ chỉ cần 2 chuyến chở đồ tiếp tế và chở một số thương binh về là xong ngày hôm nay. Tôi sẽ cho vài người lính ngồi theo tàu để phụ. Quý vị có thể nhìn thấy rõ ràng Tiền Đồn 6 từ đây.
Nói xong anh quay người lại chỉ tay về hướng Nam của phi trường. Xa khoảng chừng 5-7 cây số rặng núi đứng sừng sững nhô cao trên đồng bằng cao nguyên. Dưới ánh nắng chói chang,những ngọn núi đỉnh cao trọc màu xanh cỏ úa vàng. Trên bản đồ tôi ghi nhận những vòng cao độ vẽ hình của một rặng núi hình cánh cung trên đó những vòng đỏ có ghi chú những chữ 6, 5, Y, C, D, H. Tôi chỉ vào những vòng tròn kế tiếp nhau, hỏi:
– Đây là những tiền đồn?
– Đúng vậy! Kế cận Tiền Đồn 6 xuôi theo đỉnh núi về phía Nam là Tiền Đồn 5 rồi Yankee, Charlie, Delta và cuối cùng là Hotel, còn rặng núi này Mỹ họ kêu là “Rocket Ridge” vì tụi nó hay đặt súng trên đó pháo xuống. Tất cả căn cứ hỏa lực trên dãy núi này thuộc trách nhiệm của Lữ Đoàn 2 Nhảy dù, bộ chỉ huy đóng tại Võ Định.

Đó là những địa danh mới được đặt tên cho những căn cứ hỏa lực nằm trên những chuổi cao độ chập chùng vùng trên dãy “Rocket Ridge” khô cằn sỏi đá, nhưng những ngày tháng tới đây sẽ là những địa danh đi vào lịch sử vì những trận đánh bạo tàn, khủng khiếp, giằng co, dành giựt từng tấc đất, từng giao thông hào, máu đổ thành suối...
Mọi người đã sẵn sàng. Chiếc Charlie cất cánh trước, tôi dẫn chiếc gun số 2 của Thành “râu” theo sau.2 chiếc “slick” đang được quân bạn “load” lên sàn tàu những thùng đạn bằng gỗ và những ống sắt to đựng đạn đại bác bên trong chứa nước uống lấy từ chiếc xe cam nhông đậu kế bên. Chỉ trong vòng 5-3 phút là 2 chiếc trực thăng võ trang đã ở trên đầu căn cứ hỏa lực. Rặng “Rocket Ridge” hơi cong cong hình cánh cung, đầu cực Bắc cách biên giới Lào- Việt- Miên cỡ 15 cây số, chạy đến gần căn cứ Tân Cảnh rồi bẻ cong kéo dài về phía Nam, song song với QL 14, cuối cùng dừng lại tại phía Tây Kontum, khoảng chừng 20 cây số.
Trên cao độ cách đỉnh núi chừng ngàn bộ tôi nhìn xuống Tiền Đồn 6, xa xa về phía Nam là Tiền Đồn 5, Yankee, Charlie, Delta sau cùng là Hotel qua làn hơi nóng mờ ẩn lung linh, nối tiếp nhau trên đỉnh núi của rặng “Rocket Ridge”. Thận trọng bay vòng trên cao độ tôi quan sát phía bên dưới. Tiền đồn 6 hình tam giác màu đất đỏ nằm chơ vơ trên đỉnh, ngay chính giữa trại, lá cờ vàng ba sọc đỏ nhỏ xíu phất phơ trước gió. Xung quanh đồn, triền núi dựng đứng, rừng xanh mọc răng cưa đến ngang lưng chừng núi là ngừng lại, tiếp nối tới đỉnh chỉ là cỏ vàng cháy xém. Những vết bom đạn pháo kích lổ chổ khắp nơi, những công sự chiến đấu vỡ nát không nhận ra hình thù, còn ngun ngún khói bốc. Hai khẩu đại bác 105 ly màu đen còn lại nổi bật lên trên nền đất đỏ. Sát về phía Bắc của đồn, gần ngay hàng rào phòng thủ là một vòng tròn bãi đáp của trực thăng, ở giữa có một chữ H sơn màu trắng còn nhận ra lờ mờ. Tất cả là hình ảnh của một bãi chiến trường còn phảng phất mùi tử khí, hiện đang yên nghỉ trong sự căng thẳng, rình rập, đe dọa...
– “Lead” đây Charlie, 2 bạn cất cánh lên là vừa rồi, đáp về hướng Bắc nghe...
Ngồi trên tàu tôi nhìn về hướng phi trường Phượng Hoàng, 2 chiếc trực thăng chở đồ tiếp tế nhỏ như 2 con kiến li ti chạy dài trên phi đạo.
Charlie nhắc nhở:

– Hổ cẩn thận... sáng nay trực thăng Mỹ bị “ground fire” chạy rồi đó.
– Chiếc “lead” vào trước, chiếc số 2 “hold” trên trời chờ Đại úy Đức chỉ thị cho 2 chiếc “slicks”.
– Cha...a...arlie, đây “lead”... go...ọi,...đa...ang...va...ào đây, Hô..Hô..ổ..mày co.o..v.er cho kỹ gi..ù..m chút nghe.
Tiếng nói nhừa nhựa kéo lê thê bằng tiếng Bắc Nghệ Tĩnh nghe trên tần số trong giây phút căng thẳng này, tôi vẫn không nín được cười. “Cụ” Vỹ đã bắt đầu vào trục đáp, tôi cho con tàu bay bên cánh phải trên cao phía sau, chiếc số 2 của Thành “râu” kèm theo bên cánh trái. Chiếc trực thăng từ từ xuống cao độ, Tiền Đồn 6 phơi bày trước mặt...
– Le...ad đa...ang ở “fi...n...a...l”, H..ổ...H..ổ...th..e..o sát ngh...e...e...e....
Ở đàng sau nhìn xuống chiếc “lead” đang lơ lửng đưa bụng trên vòng vây vô hình của địch. Bỗng ở đâu đó, tôi nghe vọng tiếng “cóc...cóc...cóc...”, âm thanh quen thuộc của khẩu AK47. Trong tần số tiếng “Cụ” Vỹ la:
– Ơ...Ơ... H...Ô...Ổ, ơ...ơ...tụi n...ó bắn tao...
Lần này tiếng “Cóc...cóc...cóc...cóc...cóc...” nổ tràng dài như bắp rang... Oành!.. Oành!... 2 trái pháo rớt trong vòng rào phòng thủ, kế khẩu đại bác 105 ly, bụi đỏ lẫn khói đen bay tung lên. Tôi la lớn:
– Pháo... pháo kích!... Go around! Go around!
Chiếc “lead” cắm đầu,đuôi tàu chổng lên gần như dựng đứng lài xuống chân núi trước mặt. Tức thời tôi bấm nút, những trái “rocket” thi nhau lao xuống chung quanh chu vi hàng rào, nổ lốp đốp tung bụi. Bên trái Hổ 2 đang tuôn những lằn đạn lửa “mini-gun” vung vãi khắp nơi.
“Lead”!...“lead”...Đây Charlie!..Vỹ!.. anh OK không? Cho biết tình trạng?
– Để tô...i ch..e...ck...
Sau vài giây im lặng tôi nghe tiếp:
– Char..li..e...đồng h..ồ...bình thư..ờng chắc khô..ô..ng sa...o! – “Cụ” Vỹ lè nhè dứt đoạn trên tần số.
– “Lead”, ráng giúp một lần nữa đi. Quân bạn đề nghị mình bay “low level” ngang bãi, để lính đạp đồ xuống, khỏi cần đáp... Nghe rõ trả lời!.. Tình trạng khẩn trương lắm, hể tối nay không có đủ đạn dược, đồn sẽ bị “over run”...Ráng giúp họ nghe “lead”!... số 2!.. bạn vào trước đi, để cho “lead” nghỉ sẽ vào chuyến sau.
Trong tần số, tôi nghe chiếc số 2 trả lời cụt ngủn:
– Nghe 5!

Chiếc số 2 đang bay vòng chờ trên cao, bắt đầu vào “final”. Tất cả tần số im lặng theo dõi. 2 chiếc võ trang bay kè phía sau. Chiếc số 2 xuống nhanh giảm dần tốc độ rồi tiếp tục bay chầm chậm lướt trên đầu mặt đất lổ chổ hố pháo kích, là sát trên 2 khẩu 105 ly. Trên cao nhìn xuyên qua cánh quạt quay vùn vụt, những thùng đạn gỗ trăng trắng vàng cùng những ống nước màu rêu nhỏ xíu được đạp vội vã xuống bãi, rơi vung vãi khắp mặt đất trong vòng rào. Xong nhiệm vụ, con tàu trống nhẹ cắm đầu vươn mình nhanh lên không trung. Trên cao chiếc Charlie vòng vòng quan sát, tiếng Đại úy Đức la to:
– Hai!Số 2! Sao bạn không chờ chở thương binh ở bãi?
– Tôi đâu có đáp đâu mà bốc họ được, mà tôi không thấy ai cả, họ núp trong công sự tôi không thấy... để chuyến sau đi.
– Thôi được, bạn về đáp Phượng Hoàng “load” một chuyến nữa, xong báo tôi biết.
Tiếng nói Đại úy Đức có vẻ phấn khởi khi thấy đã đổ được một chuyến hàng cho quân bạn:
–“Lead”đâu rồi? Vào đáp được rồi đó.Hổ ra đem vào đi.
Chiếc “lead” bây giờ có phần vững dạ hơn khi thấy chiếc số 2 hoàn tất nhiệm vụ an toàn, vòng lại chuẩn bị hạ cao độ. Tôi bám theo sau, mắt láo liên đảo quanh chu vi đỉnh đồi hy vọng phát giác được vị trí nào khả nghi của địch. Kinh nghiệm tôi biết chắc địch đang chuẩn bị gờm súng chờ đợi con mồi mỏng manh chậm chạp này. Để một chuyến tiếp tế vào an toàn đã làm chúng điên đầu, sôi máu. Mồ hôi rịn lấm tấm trên trán, tay tôi siết chặt cần lái, ngón tay để sẵn sàng trên nút bấm hỏa tiễn. Con tàu của Đại úy Vỹ đang vào “final”, xuống thấp dần. Tôi nín thở theo dõi. Chỉ còn chừng vài chục bộ nữa là chiếc số 1 ở trên mặt đồn. Chiếc trực thăng bay chậm là sát trên mặt những công sự, tôi nhìn thấy những người lính lấp ló trong khoang tàu đang chuẩn bị đạp những thùng đồ.

Tiếng la thất thanh trong tần số, không phải của Đại úy Vỹ mà tiếng của người hoa tiêu phụ:
– Ground fire!... Ground fire!...
Cùng lúc tôi nghe rõ ràng nhiều tiếng gõ từ nhiều phía: Cóc... cóc... cóc... cóc... Những tiếng cóc...cóc... cóc tiếp tục liên hồi. Tôi bỗng nghe tiếng la chói lói của Đại úy Vỹ trên tần số:
– Á... á... ch...ế...t... chê... ết... tô... ô... i rồi………
Chỉ chừng đó rồi im bặt. Như có một luồng điện chạy dọc theo xương sống, tai như nghe rõ từng tiếng đập thình thịch của trái tim trong lồng ngực, tôi nghiến răng hai tay siết chặt cần lái, mắt đổ lửa, ngón tay bấm liên tục vào nút hỏa tiễn. Xoẹt... xoẹt... xoẹt... Những trái “rocket” như những mũi tên lửa tranh nhau rời dàn phóng lao xuống triền núi trọc, nổ ầm...
Dưới thấp, chiếc trực thăng đang phơi mình trước những lằn đạn của địch, cắm đầu cất cánh lài xuống triền núi, những tiếng cóc cóc bắn vói theo...
– “Lead”!... “lead”... nghe không trả lời!
Chiếc “lead” vẫn im bặt. Đại úy Đức la to:
– Hai Hổ bay theo “lead” cover... Nghe rõ...
Trong sự im lặng ngột ngạt căng thẳng, tôi kéo hết tốc lực cố bám theo chiếc số 1.
– “Lead” đây Hổ!.. nghe không... trả lời...
Vẫn im bặt trên tần số, chiếc tàu của Đại úy Vỹ hướng về phi trường Phượng Hoàng hạ thấp cao độ.
– Charlie gọi “lead” nghe không trả lời?
Tôi đã bắt kịp tàu “lead”, cặp sát bên hông tàu. Nghiêng đầu nhìn, qua khung cửa ngay ghế bay, trên tấm thép dày chắn đạn, tôi thấy chiếc nón bay của “Cụ” Vỹ lấp ló.
– Hổ gọi “lead”... trả lời?
Bỗng trên tần số vang lên tiếng của người hoa tiêu phụ:
– Charlie! “lead” bị bắn nhiều viên trúng tàu, hiện tôi đang chuẩn bị đáp... Charlie kêu xe cứu thương ra phi trường giùm!
Cho tàu đáp ngay sau đuôi tàu Đại úy Vỹ,cánh quạt vẫn còn đang quay vù vù, tôi mở cửa phóng xuống đất, trên đầu còn đội nón bay, chạy nhanh về phía tàu “lead”. Trên sàn tàu của Đại úy Vỹ một cảnh tượng hãi hùng bày ra trước mắt: bên cạnh những thùng đạn gổ thông màu vàng chất ngổn ngang, người lính bộ binh đi theo phụ nằm xoãi hai tay, máu đỏ che gần hết cả mặt, đôi mắt vô hồn mở trừng trừng nhìn thẳng lên trần, trên sàn tàu máu lênh láng. Tôi ngoảnh mặt quay người lại. Cánh cửa bên ghế phải phòng lái chợt mở ra, Đại úy Vỹ vừa bước xuống, máu đỏ tươi ướt đẫm trên ngực chiếc áo bay màu xám, bước đi xiêu vẹo, mặt chưa hoàn hồn. Tôi hốt hoảng:
– Trời đất! Chuyện gì vậy?
Tôi nói chưa dứt câu thì người hoa tiêu phụ mang lon Thiếu úy vừa bước đến, trong giọng Nam kỳ đặc kẹo, anh ta chen vô:
– Thầy Vỹ ok, không sao đâu! Máu của anh lính bộ binh bị bắn lúc nãy đó.
Vừa nói anh vừa lấy tay sửa lại dây nịt đeo khẩu súng “rouleau” xệ xệ bên hông trông rất phong độ. Tôi nhìn người hoa tiêu mới trong cặp kính mát “Rayban”, cao ráo đẹp trai, đang kể lại với một giọng bình thản như không có gì xảy ra. Anh ta nói tiếp:
– Khi tôi nghe tụi nó bắn như bắp rang, biết không xong rồi, thế nào cũng ăn đạn, chạy đâu cho khỏi.
Anh ta nói một cách bình thản như đang kể lại một chuyện phim gay cấn nào đó:
– Lúc tàu đang bay trên đồn sắp đạp hàng xuống đất tôi nghe tụi nó bắn rần rần từ phía Đông của đồn. Anh lính đang đứng khom khom sau ghế bay nhìn về phía trước “windshield”, bỗng đùng một cái anh chồm nguời về phía “cockpit”, ôm choàng lưng ghế Đại úy Vỹ, đầu gục trên vai “ông thầy” máu chảy ròng ròng... Tôi nghĩ chắc bị một viên vô đầu rồi.
Đại úy Vỹ đứng kế bên có lẽ chưa hoàn hồn, im lặng không nói gì nghe anh ta kể tiếp:
– Lúc té xuống tôi thấy tay anh ta nắm giựt đứt sợi dây “intercom” trên helmet của Đại úy, bởi khi Charlie gọi, ổng không trả lời được là vậy!
Chăm chú lắng nghe, tôi quá đổi ngạc nhiên khi thấy người hoa tiêu mới chưa hề có một kinh nghiệm chiến trường không hề biểu lộ ra một xúc cảm nào sau khi vừa trở về từ cõi chết. Vừa lúc đó người hoa tiêu phụ tàu tôi đang bước tới, tôi ngoắc anh lại gần:
– Bạn thông báo với giùm với Charlie phi hành đoàn OK, sẽ check tàu và báo cáo chi tiết đầy đủ sau.
Xong tôi quay lại nhìn Đại úy Vỹ, anh đang cúi đầu nhìn xuống chiếc áo bay bây giờ máu đã sậm màu:
– Mẹ...tiê...ên...sư cha...a chú...ng nó!.. khô..ng biết giặt c..ó sạch máu...không đây? Ta...o đem theo có 2 bộ đồ, khô...ông biết co...òn ở đây bao la...âu...
“Cụ” Vỹ vừa nói vừa cúi xuống nhìn vào chiếc áo bay đang bận trên người.Tôi không dấu được sự kinh ngạc:
– Trời đất ơi! “Ông Thầy” ơi, chết sống đây không lo, lo chi bộ đồ bay giặt không sạch!...
Bỗng có tiếng trực thăng chém gió kêu phành phạch trên cao, tôi ngửng đầu lên nhìn, chiếc Charlie đang bay vù ngang trên đầu phi đạo. Từ chỗ chiếc xe cam nhông chở đạn đang đậu gần đó, chiếc Jeep của bộ binh lăn bánh chạy đến ngừng lại kế chúng tôi, trên xe người lính Dù nhảy xuống:
– Đại úy Đức bảo hợp đoàn cất cánh về Pleiku trước đi. Tàu ông phải đáp Võ Định thả người sẽ về sau.
Tôi quay người hướng về Tiền đồn 6 nheo mắt nhìn. Rặng núi đang bình thản phơi mình trong nắng chiều. Trên cao 2 chiếc khu trục cơ nhỏ tí vần vũ nhào lộn.
Xa mãi tít trên cao nữa 3 chiếc pháo đài B-52 như 3 chấm đen bay lặng lẽ trên vòm trời xanh kéo sau theo sau đuôi những đường khói trắng…

KQ Vĩnh Hiếu

Không có nhận xét nào: