
Vườn cau “Cháu gái lớn thật mau;mai mốt ngoại ăn trầu” (gợi ý từ ‘Mộng ban đầu’ của Nhạc sĩ Hoàng Trọng)
Xin chia bài thành 2 phần: Phần 1 – Cây Cau
Phần 2 – Hạt cau và Vấn đề ‘ăn trầu’
Từ Phương trời Âu, Nhỏ Gia Long, nay đã trở thành Ngoại Gia Long, gửi khoe Bùi Huyền Trân, những bó hoa tươi thắm mà Cô cháu ‘ngoại’ nhận được từ những ‘Cậu ’ái mộ’ gửi tặng ‘cô bé’ trong dịp Sinh nhất thứ 16..

Bình hoa Sinh nhật của Cháu gái
Bùi Huyền Trân xin chia vui với “Nhỏ”..và chúc ‘Ngoại GL; sớm nhận quả cau nho nhỏ, cùng lá trầu xanh..


Khay trầu
1- Cau và Văn hóa Việt
Văn hóa Việt thường ghép đôi “Trầu và Cau”, đặc biệt trong các nghi lễ hôn nhân, và các chuyện cổ tích dân gian như ‘chuyện Trầu cau”; tuy nhiên Cau vẫn có khi được dùng đơn độc, không liên hệ đến Trầu..
A- Đồng giao và tranh dân gian
* Con mèo mà trèo cây cau:

Con mèo mà trèo cây cau
* Thằng bờm có cái quạt mo
:

Thằng Bờm và quạt mo
B- Ca dao , tục ngữ
* “Thương nhau cau sáu, bổ ba / Ghét nhau cau sáu bổ ra làm mười..”
* “Quả cau nho nhỏ / Cái vỏ vân vân.. Nay anh học gần / Mai anh học xa..
Lấy anh từ thuở mười ba / Đến năm mười tám, thiếp đà năm con…”
* Quân sư quạt mo = Người bày mưu, mách kế.. ‘kém’, ‘tầm bậy’ (Quân sư theo định nghĩa là người giúp ý kiến cho Vị Chỉ huy trong các công việc quân sư , dân sự; Trong lịch sử Tàu có nhân vật Khổng Minh làm quân sư cho Lưu bị, thường cầm một cái quạt lông..)
.

Quân sư quạt mo
C- Thơ Hồ Xuân Hương:
Mời trầu
.. “Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi / Này của Xuân Hương đã quệt rồi..”
Bài thơ đã được đưa vào chương trình ‘Ngữ văn’ giảng dạy cho Học sinh Trung học tại Việt Nam; bài thơ được phân tích khá nhiều trên các trang mạng tiếng Việt, cùng những lời bàn.. ‘khó tưởng tượng’ của các nhà phê bình “phồn thực..” (Xin tìm đọc thêm trên Google).
2- Cau trong văn hóa Đông Nam Á
Tại Indonesia và Malaysia, có nhiều địa danh mang tên ‘Pinang, Jambi (jambe)’ là tên địa phương của Cau. như các Thành phố Tanjung Pinang, Pangkal Pinang (của Indonesia bên bờ biển phía Tây của Bán đảo Malaysia).. Nhiều thị trấn khác tại Maldives, Assam và Ấn độ cũng mang tên.. “Cau” (theo tiếng địa phương).
* Cờ Tiểu Bang Penang (Malaysia) mang hình Cây cau
.

Cờ Tiểu Bang Penang (Malaysia)
3- Vài đặc điểm thực vật..
A- Tên thực vật: Tên gọi và nguồn gốc,phân bố.
* Areca catechu thuộc họ thực vật Arecaceae (họ có khoảng 2600 loài)
Chi Areca có khoảng 20 loài, Việt Nam có 3 loài.
* Các tên gọi khác:
Anh-Mỹ: Areca nut palm; Areca palm; Penang palm; Betelpalm.
Pháp: Aréquier.
Tàu: Tân lang, nhân lang.
Philippines: Bũnga.
Cây cau được xem là có nguồn gốc tại Malaysia, Philippines.. được du nhập và trồng tại nhiều quốc gia vùng Đông-Nam Á và Nam Á như Thái, Indonesia..); sau đó được đưa đến Madagascar và Đông Phi do những cuộc di dân ‘austronesian’ và giao thương từ khoảng 1500 trước Tây lịch (do văn hóa ăn trầu, phải cần có cau). Cây cau được thuần hóa và trở thành cây bản địa tại vùng Thái Bình Dương nhiệt đới (Melanesia và Micronesia).
B- Mô tả thực vật:
Theo “Cây thuốc và Động vật làm thuốc ở Việt Nam (Viện Dược Liệu) Tập 1, trang 350).
.. “Cây có thân mọc thẳng đứng cao 15-20m, Thân hình trụ rỗng, có nhiều vòng đốt (là vết tích của những tàu lá rụng), gốc thân hơi phình ra, mang nhiều rễ nổi trên mặt đất, Ở ngọn thân có một chùm lá rộng.
Lá có cuống và bẹ to, mang hai dãy lá chét xếp đều đặn dạng lông chim. Lá chét hẹp ngang, màu lục bóng có gân to.
Cụm hoa là một bông-mo phân nhánh, thường gọi là buồng, bao bọc bởi một mo rụng sớm.
– Hoa đực nhỏ, rất nhiều, thơm; có 3 lá đài màu vàng-lục, 3 cánh hoa màu trắng, 6 nhị.
– Hoa cái to hơn, bao hoa không phân hóa, bầu trên, có 3 ô.






Quả hạch, hình trứng; vỏ quả ngoài mỏng, nhẵn bóng; khi chín màu vàng-đỏ; vỏ quả giữa cứng và nhiều xơ.
Hạt hơi hình nón cụt, đầu tròn, màu nâu nhạt, có những đốm ..




Cây cau và các thành phần
Vài chi tiết bổ sung:
Thân có đường kính 10-15cm. Tàu lá dài 1.5-2m.. Rễ thuộc loại rễ chùm lan rộng, mọc sâu vào lòng đất; Bẹ lá cau dạng hình mo bao quanh thân, khi rụng để lại sẹo.
Cây trổ hoa quanh năm. Mùi thơm của hoa đực dẫn dụ được côn trùng và ong; nhưng côn trùng lại không đến với hoa cái! Quả hình trứng có kích thước 4-5cm trong có chứa 1 hạt. Buồng cau có thể có đến 4-500 quả. Cây cau sinh lợi khoảng 6 năm sau khi trồng từ hạt.

3 trong số các loại cau được trồng phổ biến tại Việt Nam hiện nay
a – Mo cau

Mo cau
b – Hoa và mo
Hoa cau và mo cau
c – Buồng cau – Quả cau

Buồng cau

Quả cau bổ đôi
Chủng trồng = Cultivars
* Areca catechu (Dwarf) = Cau lùn (Cau hương):
Cây được chuyển gen, thành dạng lùn, cao trung bình 1-2m; tăng trưởng chậm. Bẹ lá ôm xít hơn vào thân. Lá khá ngắn. Tuy gọi là dwarf, nhưng chưa chắc đã lùn vì cây trồng ngoài vườn vẫn có thể mọc cao. Thường được trồng tạo cảnh trong vườn và có thể trồng trong chậu.

Cultivar Cau lùn
* Areca catechu var alba:
Chủng lai tạo, chuyển gen; có thân màu vàng nhạt (tạo cảm tưởng như cây thiếu dinh dưỡng; Cao 6-9m Lá có sọc.\
.

Cultivar ‘alba”
C – Cau rừng?
“Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam” cũng ghi: VN có loài Cau rừng Pinanga baviensis, thuộc họ Arecaceae và mô tả:
.. “Cây nhỏ, mọc thành bụi thưa cao 2-6m; thân mảnh màu lục nhạt, lá lông chim 0,8-1m, quả hình trứng dài hoặc thuôn, khi chín màu đỏ. Cau rừng tập trung tại Ấn Độ, Malaysia và Việt Nam (vùng núi Ba Vì, Thanh-Nghệ-Tĩnh). Quả không dùng được vì có độc tính cao..
”



Cau rừng (Pinanga baviensis)
* Vài cây Cau cảnh
Ngoài cây cau, lấy quả dùng cho việc ‘ăn trầu’, còn có nhiều loài ‘được gọi là cau’ (đúng hơn là ‘cọ’ = palm) dùng làm cây cảnh và trang trí trong nhà cũng như ngoài vườn.
* Cau vua (Royal palm) hay cau bụng (Roystonea regia):
Gốc Mexico, Trung Mỹ, Florida. Cao 15-25cm, trồng làm cây trang trí ven đường. Quả làm thực phẩm tự nhiên của chim; Hạt dùng lấy dầu và làm thực phẩm chăn nuôi; Lá dùng lợp mái..: Sợi từ mo: Lá dùng trong công nghiệp..

Cau Vua (Royal palm) hay cau bụng (Roystonea regia)
* Cau trắng (Christmas palm, Manila palm) (Adonidia merrillii) hay Cau kiểng, Cau trái đỏ. Gốc Philippines. Cao 2-10m. Trồng làm cây trang trí; Quả đỏ, không ăn được
.

Cau trắng (Cau trái đỏ, Christmas palm)
* Cau đỏ, Cau bẹ đỏ (Cyrtostachys renda):
Gốc Thái, Malaysia. Đặc điểm là bẹ lá ôm vòng quanh thân: cuống và bẹ lá đều màu đỏ tươi. Cây cao 5-8m; Quả khi chín chuyển sang màu đen. Trồng trang trí ven đường, lối đi
.



Cau đỏ, Cau bẹ đỏ (Cyrtostachys renda)
* Cau vàng= Cau kiểng vàng (Dypsis lutescens):
Gốc Madagascar. Cao trung bình 1-2m; Hoa vàng có mùi thơm nhẹ. Quả 1.5cm thuôn , vàng, khi chín ăn được vị chát, hơi ngọt. Có thể trồng trong chậu và giữ trong nhà.
.



Cau kiểng vàng (Dypsis lutescens)
4- Công dụng:
Các thành phần của cây cau có những công dụng khác nhau:
A- Thực phẩm
– Hạt cau tươi, có tính ma túy nhẹ; dùng để nhai (trầu-cau-vôi-vỏ cây chay). (Xin đọc phần 2 của Bài). Hạt cau có chứa 8-12% chất béo, có thể so sánh với dầu dừa, dầu hạt cau ép thô, sau đó có thể được tinh chế lại bằng một chất kiềm..
– Lá non, phát hoa và phần mềm bên trong đọt non có thể nấu chín và ăn thay rau.
– Vỏ quả có thể ăn được.
B- Y-dược
Cây cau được xem là một dược thảo, có vị chát và tính kích thích, giúp tạo cảm giác bớt đói, đau bụng và yếu ớt (weariness). Cây có tác dụng diệt ký sinh trùng, giun sán trong ruột, có thêm hoạt tính lợi tiểu và xổ. Thường được dùng làm thuốc xổ sán lãi.
Hạt cau dùng trị thiếu máu, ngất xỉu (fits), bệnh bạch cầu (leucoderma), phong cùi, béo phì và sán lãi. Hạt cũng dùng trị kiết lỵ và sốt rét. Khi dùng phối hợp với các cây thuốc khác, hạt cau có thể gây xổ, dùng trong thuốc thoa trị lở trong mũi.
Vỏ cau tươi và cau khô dùng nhai tạo vị chát và có tính kích thích (nhai chung trong phối hợp trần-cau). Phần vỏ (không hạt) cũng dùng làm thuốc xổ trong trường hợp táo bón kèm đầy hơi; dùng lợi tiểu trị phù thũng.
Nước sắc hiệu nghiệm diệt được nhiều loài ký sinh trùng , đặc biệt là gây xổ sán ‘xơ mít’.
C- Lâm nghiệp:
Trong nông-lâm nghiệp, các nghiên cứu cho thấy trồng cau chung (luân canh), không ảnh hưởng đến thời vụ của các cây lương thực cùng trồng. Khi trồng ‘chung’ với cây tiêu hạt, cau có thể giúp ‘kèm’ cho tiêu mọc. Chuối, cardamom, lúa, dứa (thơm), lúa miến, rau xanh và khoai lang đều có thể trồng xen mùa với cau..
D- Các công dụng khác
: 
Công dụng của cây cau
– Lá dùng lợp mái nhà: Tại một số vùng ở Sri Lanka, lá dùng làm bình chứa, chuyển, đựng nước, do đặc tính lá tròn, nước không bám, nên làm thành xô đựng nước rất tốt và khá bền. Bẹ lá làm thành cốc, tách uống nước và túi đựng. Bẹ hoa dùng làm nón, dù che nhỏ và làm dĩa đựng, bày thực phẩm.
– Sợi-Xơ của Vỏ cau (Betel nut fiber): là sợi tự nhiên, tách lấy được từ vỏ quả cau, Phần vỏ chiếm từ 15-30% trọng lượng của quả tươi. Mỗi quả cau có thể cung cấp từ 2.5 đến 2.75g sợi-xơ.
Thành phần hóa chất và tỷ lệ
:
Cách tách và lấy sợi trong vỏ quả:
Công đoạn đầu tiên là tách lát hạt; Quả được ép cho vỡ và sau đó rửa, ngâm nước trong 2 ngày để dễ tách xơ (retting process). Khi vỏ còn ướt, tách bỏ phần da ngoài vỏ. Việc tách sợi có thể dùng thủ công hay máy tách sợi. Sợ sau khi tách, ngâm và tráng qua nước để loại tạp chất, rồi phơi nắng 1-2 ngày..
Sợi lấy được dài 3–50mm, ngang 25µm, đường kính 28-90mm , độ ẩm 11.7%

Các công đoạn lấy sợi trong vỏ quả cau
fine fiber = sợi mịn và raw fiber = sợi thô Sợi từ vỏ cau có nhiều công dụng trong công nghiệp như:
* Sợi khô dùng làm chất đốt.
* Pha trộn làm vải và vật liệu tổng hợp (composites) trong các loại ván cứng (hardboard), nhồi nệm và ván ép.
* Tăng lực, sức chịu cho các polymer composites. Nhờ trong công thức có nhiều cellulose, hemicellulose và lignin, nên có thể dùng pha trộn với các nguyên liệu khác để chế tạo các cơ phận trong công nghiệp xe hơi, xây dựng, đóng gói.. và cả công nghiệp quốc phòng..
* Nhựa đường: pha trộn sợi vỏ cau giúp tăng sức bền, chịu đựng và ổn định nhựa dưới tác động của nước.
* Công nghiệp dệt.
* Công nghiệp nhựa epoxy:
* Sợi tách được từ vỏ cau được dùng để gia cố các vật liệu trong công nghiệp epoxy-resin, tạo ra một vật liệu có khả năng tự phân hủy khi phế thải, tốt cho môi sinh. Sợi vỏ cau , dưới tác động của dung dịch kiềm, benzoyl chloride.. góp tăng khả năng kết dính của epoxy-resin, và tăng thêm các đặc tính hóa học của resin.. Tùy loại ‘composite, tỷ lệ sợi vỏ cau có thể pha trộn với resin trong khoảng (40-70% sợi + 60-40% resin).
Vỏ cau: là nguồn cung cấp furfural. Than tăng hoạt (active charcoal) có thể chế từ vỏ cau, nung thành than với tỷ lệ thành phẩm thu hoạch 25-28%.
Mo cau: Dùng làm được nhiều dụng cụ thủ công như: quạt, mỹ nghệ (Xem phần trên)
Sản phẩm tiểu thủ công
– Cây (toàn cây): Là nguồn cung cấp tannins, dùng trong công nghiệp nhuộm vải; chế tạo keo dính trong công nghiệp chế tạo ván ép.
– Hạt cau dùng lấy dầu bôi trơn.
(xin mời đọc bài Hạt cau)
Bùi Huyền Trân 5-2025
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét