Tìm bài viết

Vì Bài viết và hình ảnh quá nhiều,nên Quí Vị và Các Bạn có thể xem phần Lưu trử Blog bên tay phải, chữ màu xanh (giống như mục lục) để tỉm tiêu đề, xong bấm vào đó để xem. Muốn xem bài cũ hơn, xin bấm vào (tháng....) năm... (vì blog Free nên có thể nhiều hình ảnh bị mất, hoặc không load kịp, xin Quí Bạn thông cảm)
Nhìn lên trên, có chữ Suối Nguồn Tươi Trẻ là phần dành cho Thơ, bấm vào đó để sang trang Thơ. Khi mở Youtube nhớ bấm vào ô vuông góc dưới bên phải để mở rộng màn hình xem cho đẹp.
Cám ơn Quí Vị

Nhìn Ra Bốn Phương

Chủ Nhật, 13 tháng 4, 2025

Hôm Nay: Chiều Nhạc Tưởng Niệm 50 Năm Tháng Tư Đen, Chủ Nhật Lễ Lá, Giới Thiệu Đêm Tưởng Niệm Hành Trình Của Những “Boat People” và Kỷ Niệm 1 Năm Tượng Đài Thuyền Nhân Tại San Jose! Và Kính Chuyển Vài Tin Tức Đáng Chú Ý - Lê Văn Hải


Hôm Nay: Nhớ Tham Dự, Chiều Nhạc Tưởng Niệm 50 Năm Tháng Tư Đen!

Giới Thiệu Một Sinh Hoạt Đặc Biệt Nhất, Nhân Mùa Tưởng Niệm 50 Năm Tháng Tư Đen, Hành Trình Kinh Hoàng Của Những Thuyền Nhân Việt, Gần Nửa Triệu Đã Chìm Xuống Biển Sâu! và Kỷ Niệm 1 Năm San Jose, Có Tượng Đài Thuyền Nhân!
<!>


Đúng Ngày 30 Tháng 4 Năm 2025 Tại Đền Thánh Tử Đạo Việt Nam
685 Singleton Road, San Jose, Ca 95111


6:00pm: Chương trình bắt đầu – Phần 1 (Trong Nguyện Đường)
6:00pm – 6:05pm: Dâng Hương tưởng niệm 50 năm “Tháng Tư Đen”.
6:05pm – 6:50pm: Thánh Lễ cầu nguyện cho những thuyền nhân đã chết trên đường vượt biên và vượt biển để tìm tự do.
6:55pm - 7:30pm: Ăn tối nhẹ
7:30pm: Phần 2 (Trong Hội Trường)

•Quốc ca Mỹ và Việt Nam
•Cha Chánh Xứ Andrew Nguyễn Chí Thông dâng lời cầu nguyện mở đầu cho phần 2 của chương trình
•(Optional) Cầu nguyện/Phát biểu của những viên chức chính quyền


7:40pm – 8:10pm: Chiếu Phim được rút ngắn của phim: “Boat People - A Fifty Year Journey” của đạo diễn Thanh Tâm và Ethnic Channels Group & Lunar Village Production.



8:10pm – 8:25pm: Ca Sỹ Lê Quốc Tuấn của Trung Tâm Asia trình diễn trong lúc chiếu slide show của đạo diễn Thanh Tâm.
8:30pm: Phần 3 (Trong Vườn Cầu Nguyện và Tượng Đài Thuyền Nhân)
•Đốt nến chung quanh Tượng Đài Thuyền Nhân.
•Cha Andrew Nguyễn Chí Thông và Cha Vũ Hùng dâng lời cầu nguyện cho các thuyền nhân đã mất.
•Ca Sỹ Lê Quốc Tuấn của Trung Tâm Asia trình diễn trong lúc mọi người lần lượt thắp hương chung quanh Tượng Đài Thuyền Nhân.
•(Optional) Cầu Nguyện/Phát biểu của những viên chức chính quyền tới tham dự trễ.
•Cha Vũ Hùng dâng lời cầu nguyện kết thúc chương trình.
9:15 pm: End


50 Năm! Chuyện Kể Hành Trình Kinh Hoàng Trên Biển Đông: Thuyền Nhân Vượt Biển!


*Gần nửa triệu Thuyền Nhân đã lấy đại dương mênh mông làm mồ chôn! Trên đường trốn chạy cộng sản!
*Thảm cảnh “Boat People” đã làm rúng động lương tâm thế giới! Hoa Kỳ bật đèn xanh, Nhiều quốc gia trên thế giới, ồ ạt nhận người tị nạn!
*Thời gian đau thương này, Bắc Cali, dắt đầu trong công tác cứu trợ, Anh Lê Văn Hải, đã cộng tác với Ủy Ban Báo Nguy Cứu Người Việt Biển, qua 6 chiến dịch “Tình Thương Dưới Ánh Mặt Trời” quyên góp trên một triệu đô la, yểm trợ những con tầu Tình Thương ra khơi, cứu vớt trên 3 ngàn Thuyền Nhân đến bến bờ tự do! Những công tác nhân đạo này, đã biến San Jose, có mỹ từ “Thủ Phủ Tình Thương Người Vượt Biển!”
*Anh cũng là Trưởng nhóm Vận Động và Xây Dựng “Tượng Đài Thuyền Nhân” tại San Jose, đã được khánh thành trong Tháng Tư 2024, cách đây đúng một năm!


-Vậy mà đã 50 năm! sau 75, CSVN đã gieo rắc không biết bao nhiêu tội ác trên quê hương Việt Nam. Có thể nói, trên từng tấc đất, ngọn cỏ, lá cây, hòn đá... của quê hương Việt Nam, dưới mỗi mái gia đình, trong mỗi thân phận người Việt, đều có những dấu ấn đau thương mất mát, ghi lại những tội ác kinh tâm động phách, do người cộng sản gây ra.
Kể từ 30 tháng 4 năm 1975, CSVN đã thực hiện hàng loạt chiến dịch đàn áp, khủng bố, thủ tiêu, bắt bớ... dã man trên khắp lãnh thổ Miền Nam, để một mặt ăn cướp trắng trợn tài sản của người dân, mặt khác, nghiền nát mọi sức đề kháng, chống đối của những người yêu nước, khiến hàng triệu người dân Miền Nam phải vượt biển, vượt biên tìm tự do.


Hậu quả, trong thời gian hơn hai thập niên kể từ sau 1975, hàng trăm ngàn người Việt, trong đó phần lớn là phụ nữ, trẻ em, ông bà già,... đã bị thảm tử trên biển cả, trong rừng sâu, ngoài hoang đảo.... sau khi phải trải qua những bi kịch thương tâm, muôn vạn phần đau đớn. Không những thế, ngay cả với những người sống sót, những bi kịch đó, vẫn còn mãi mãi tiếp tục ám ảnh, giầy vò, tra tấn họ, cho dù họ có sống trong bất cứ hoàn cảnh nào, có đi đến bất cứ chân trời góc biển nào...không thể nào quên!
"Những câu chuyện Kể Hành Trình Biển Đông". Là những dòng chữ được viết bằng máu và nước mắt, của chính những người trong cuộc, với tấm lòng xót xa và những giọt nước mắt đau đớn, của những người tỵ nạn cộng sản cùng cảnh ngộ, sẽ hiểu được, tội ác của chánh phạm CSVN, đằng sau muôn ngàn bi kịch rùng rợn của người vượt biển. Qua đó, chúng ta sẽ thức ngộ được, lần đầu tiên trong lịch sử bốn ngàn năm của dân tộc VN, và có thể nói lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại, tội ác của một chế độ đối với chính người dân của chế độ, như chế độ CSVN, quả thực đã vượt khỏi biên cương quốc gia, tung hoành trong mỗi gia đình, mỗi cuộc đời, để rồi tiếp tục tràn lan trên khắp bề mặt địa cầu...Thảm cảnh thuyền nhân, đã làm thế giới rung động!


Biến cố tháng 4 năm 1975, khởi đầu một cuộc viễn xứ vĩ đại của hàng triệu người Việt trên những con thuyền mong manh ra biển Đông mưu cầu hạnh phúc. Những thuyền nhân sống sót bởi lòng bác ái của cộng đồng thế giới, đã tạo dựng nền tảng của tập hợp người Việt tha hương khắp nơi. Ước tính 3 triệu người Việt rời bỏ quê hương trên những con thuyền mong manh sau biến cố 1975.
Nhiều năm đã trôi qua, những ai đã từng lênh đênh trên những chiếc ghe thuyền mong manh, thường chỉ được sử dụng đánh cá ven biển, để vượt đại đương đi tìm tự do, họ không thể nào quên được những giây phút hiểm nguy kinh hoàng đã qua, nếu họ may mắn sống sót sau cuộc hải hành tử sinh ấy.
Hoa Kỳ cho biết một vài số liệu đáng quan tâm như sau: "Theo chỗ được biết, thuyền nhân bắt đầu từ sau 1975. Những người di tản từ 1975 thì có những người đi bằng đường thủy, nhưng đa số là người di tản. Phải đến ít nhất là tháng 8, tháng 9 năm 1975, tức là sau khi Cộng Sản vào Sàigòn rồi, mới bắt đầu có những người rời Việt Nam bằng đường biển đến Mã Lai, Thái Lan. Lúc đó không còn người Mỹ đón ngoài biển nữa. Lúc đó, coi như là vượt biên bằng đường biển thực sự. Theo thống kê của các cơ quan nhận được, từ 1975 cho đến 2005, trong 30 năm đã có gần 3 triệu người Việt định cư trên 126 quốc gia trên toàn thế giới. Trong số người đi bằng đường biển có gần 1 triệu người đi vượt biên. Thống kê của các trại tị nạn Đông Nam Á vào năm 1995 là 839.200 người, kể cả 42.900 người đi bằng đường bộ. Có phỏng chừng 3 trăm đến hơn 400 ngàn người đã bị bỏ mình không đi đến được bến bờ tự do."


Chữ "thuyền nhân" thế giới trước đây, thường nghĩ ngay đến những người dân Hồng Kông, sống trên các thuyền bè, 50, 60 năm trở về trước, đến khi có sự kiện người Việt vượt biển: "Kể từ khi có người Việt vượt biển và có biết bao nhiêu người chết, vào các trại tị nạn thì trong tự điển thế giới bắt đầu có chữ mới "thuyền nhân" - "boat people", và định nghĩa "thuyền nhân" là những người tỵ nạn. Trong tất cả những gia đình người Việt ở hải ngoại, không có một gia đình nào là không có liên hệ với thuyền nhân, trực tiếp hay con cháu của thuyền nhân. Cho nên thuyền nhân là một ý nghĩa chính thức để xây dựng một cách toàn thể cộng đồng của người Việt ở hải ngoại."
Thời kỳ cao điểm người Việt trong nước vượt biên nhiều nhất là những năm 1979, 1980 trở đi. Trong giai đoạn này, hải tặc Thái Lan bắt đầu hoành hành. Ngoài việc phải chấp nhận sóng gió trên biển cả, họ còn phải đối diện với nạn hải tặc. Không biết bao nhiêu phụ nữ đã bị hãm hiếp, thậm chí bị bắt đi mất tích. Những thanh niên liều mình chống lại hải tặc, đều bị chết thảm thương và xác thì bị quăng xuống lòng biển sâu. Có người thì bị giam giữ nơi sào huyệt của bọn chúng, trên những đảo hoang, nếu không may được cứu thoát, thì không biết số phận sẽ ra sao. Nhà văn Nhật Tiến, một trong những thuyền nhân đã từng là nạn nhân của bọn hải tặc Thái Lan, kể lại: "Tôi vượt biển vào tháng 10 năm 1979. Sau 10 ngày trên biển, tàu chết máy và trôi, sau vài lần bị cướp, cuối cùng bị hải tặc kéo vào đảo Kra, cách bờ biển Thái Lan khoảng 4 giờ tàu chạy. Sau 3 tuần lễ liền, bị nhốt trên đảo, là sào huyệt của hải tặc. Nhóm của tôi có 81 người, trong 3 tuần sau đó thì có thêm 3 ghe thuyền nữa, cũng bị hải tặc kéo vào, tổng số là 157 người. Ngày thứ 21, có một trực thăng của Liên Hiệp Quốc bay qua đảo, phát hiện thuyền nhân bị như vậy, Cao Ủy đã mang thuyền ra để cứu vào đất liền..

Trước thảm cảnh này, Cộng Đồng Việt Nam Họ mau chóng thành lập Ủy Ban Cứu Nguy Người Vượt Biển." với sự cộng tác của những tấm lòng khắp nơi trên thế giới, như tại Bắc Cali, Có Nguyễn Hữu Lục, Lê Văn Hải.
Vào ngày 27 tháng 2 năm 1980, Ủy Ban Báo Nguy Cứu Người Vượt Biển, tức "Boat People SOS" được chính thức thành lập. Giáo sư Nguyễn Hữu Xương, hiện là giảng viên trường Đại Học San Diego, lúc bấy giờ là chủ tịch Ủy Ban, kể lại: "Lúc đầu, Uỷ Ban chỉ muốn lên tiếng để cho cộng đồng lưu ý chính phủ Mỹ và chính phủ Thái Lan biết để giúp đỡ thuyền nhân chống hải tặc. Nhưng đến năm 1984, 1985 thì thấy hải tặc tàn ác quá, nên chúng tôi mới nghĩ đến chuyện gửi tàu vớt người ngoài biển."

Cũng vào thời gian ấy, tại Pháp, hội Y sĩ Không Biên Giới, đang tiến hành việc tổ chức đi cứu thuyền nhân Việt Nam, nhưng không ai được ai hỗ trợ về tài chính. Thế là nhân chuyến công tác tại Âu Châu, giáo sư Nguyễn Hữu Xương đề nghị Hội này kết hợp làm việc. Giáo sư Xương kể tiếp về nhiều buổi gây quỹ được tổ chức để ủng hộ cho chiến dịch vớt thuyền nhân: "Lúc ấy cộng đồng ta còn nghèo nàn, chưa có nhiều như bây giờ, nhưng việc vớt thuyền nhân lại rất nhiều. Có người chỉ có 5, 10 đồng nhưng họ hết lòng đóng góp. Trong 5 năm quyên lên đến trên hàng triệu đô la. Không hẳn chỉ ở bên Mỹ, mà còn ở Úc, Canada, ở Pháp. nơi nào cũng lập ra ủy ban để quyên tiền cho việc vớt thuyền nhân. Vì thế mới gửi được 5 chiếc tàu đi. Một chiếc đi thường là 3 tháng. Trong 5 năm đi được 5 chuyến tàu, cứu được hơn 3000 người. Chúng tôi phải xin visa Âu Châu, hay Mỹ, thì Philippines, hay Malaysia mới nhận thuyền nhân lên. Xin visa là một chuyện rất khó khăn, chính phủ Pháp và Đức thì có nhiều visas. Chính phủ Mỹ thì không cho visa, nhưng giúp bằng cách là khi thuyền nhân được vớt lên trên đảo Palawan, Philippines, nếu có gia đình bên Mỹ thì chính phủ Mỹ sẽ nhận. Vì thế, visa còn lại sẽ được dùng để cứu thêm người."
Theo như các tài liệu và thông tin của tổ chức Ủy Ban Báo Nguy Cứu Người Vượt Biển SOS, vào tháng 3 năm 1989, để chặn bớt làn sóng người vượt biên, Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc đã ra chính sách thanh lọc tại các trại tỵ nạn Đông Nam Á, bắt đầu giai đoạn đóng cửa trại tị nạn.


Đồng thời lúc ấy, Hoa Kỳ cũng bắt đầu có chương trình di dân "ODP" (Orderly Departure Program), "HO" (Humanitarian Operation) và chương trình "Con lai" (Amerasian Resettlement Program). Trong thời gian đó, "người ta thấy đi bằng thuyền chết chóc nhiều quá, rồi ở trại tỵ nạn không được giải quyết, nên người ta cho chương trình "Ra Đi Có Trật Tự" thì mới giải quyết được bằng các diện người "Đoàn Tụ Gia Đình", "HO", hay "Con lai". Ngay cả những người đến trại tỵ nạn rồi bị trở về Việt Nam cũng được Mỹ cho tái định cư theo chương trình gọi là "ROVR" (Resettlement Opportunity for Vietnamese Returnees)".
Sau tháng 3 năm 1989, các trại tị nạn đóng cửa và bắt đầu chính sách thanh lọc. Tiến trình thanh lọc này có rất nhiều sai trái, bởi vì ý định của họ là loại bỏ thuyền nhân, giam giữ họ lại trại tị nạn, để làm bàn đạp đẩy họ về Việt Nam. Phần lớn thuyền nhân có rất nhiều kinh nghiệm đau khổ về chế độ Cộng Sản, mặc dù bị đàn áp nặng nề, nhưng vẫn bị mất quyền tị nạn.
Sau khi các trại tị nạn đóng cửa và bắt đầu chính sách thanh lọc, không còn visa vào các quốc gia, thảm cảnh thuyền nhân, được thế giới đóng lại, qua các chương trình định cư khác!


Để biết thêm về hành trình đau thương này, xin tham dự:
Giới Thiệu Một Sinh Hoạt Đặc Biệt Nhất, Nhân Mùa Tưởng Niệm 50 Năm Tháng Tư Đen, Hành Trình Kinh Hoàng Của Những Thuyền Nhân Việt, Gần Nửa Triệu Đã Chìm Xuống Biển Sâu! và Kỷ Niệm 1 Năm San Jose, Có Tượng Đài Thuyền Nhân!
Đúng Ngày 30 Tháng 4 Năm 2025, Tại Đền Thánh Tử Đạo Việt Nam
685 Singleton Road, San Jose, Ca 95111


CHÚA NHẬT LỄ LÁ – NĂM C TƯỞNG NIỆM CUỘC THƯƠNG KHÓ CỦA CHÚA


I. Nghi thức
Nghi thức trong Thánh lễ hôm nay, gồm:
- Làm phép và rước lá.
- Kết thúc phần rước lá là Lời nguyện Nhập lễ.
- Phụng vụ Lời Chúa với hai bài đọc và bài Thương Khó.
- Phụng vụ Thánh Thể.

II. Lời dẫn:
1. Dẫn đầu lễ
Kính thưa cộng đoàn phụng vụ,
Với việc cử hành Chúa Nhật Lễ Lá hôm nay, chúng ta cùng với toàn thể Giáo Hội bước vào Tuần Thánh, kỷ niệm cuộc Thương Khó và Phục Sinh của Đức Kitô. Cử hành phụng vụ hôm nay được khởi đầu bằng việc làm phép lá và đi kiệu lá để tưởng niệm Đức Kitô khải hoàn tiến vào thành Giêrusalem. Ngay sau đó là Thánh lễ tưởng niệm cuộc Thương Khó của Đức Kitô.
Cuộc khải hoàn vào thành Giêrusalem là dấu chỉ chiến thắng, là kết quả chung cuộc trong vinh quang mà Thiên Chúa đã ban cho Đức Kitô khi Người hoàn toàn vâng phục trong khiêm hạ để đón nhận cuộc Thương Khó để cứu chuộc chúng ta. Đây cũng là lời mời gọi chúng ta hãy noi theo gương Người, tin vào Người, trông cậy nơi Người để cùng Người bước đi trong vâng phục thánh ý Thiên Chúa.
Giờ đây chúng ta cùng tham dự Nghi thức làm phép và rước lá. Chúng ta cùng hân hoan tung hô Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế và hăng hái theo Người vượt qua những khổ đau để tiến vào vinh quang Phục sinh.

Phụng vụ hôm nay gồm hai phần: cử hành nghi thức tưởng nhớ Chúa Giêsu khải hoàn vào thành Giêrusalem và Thánh lễ tưởng niệm hy tế của Người. Chúa Giêsu khải hoàn tiến vào thành Giêrusalem như là dấu chỉ báo trước chiến thắng vinh quang chung cuộc sau khi Người đã đi trọn con đường Khổ Nạn để hoàn tất mầu nhiệm Vượt Qua. Vì thế, cử hành phụng vụ hôm nay vừa tung hô Chúa Giêsu khải hoàn, vừa mời gọi chúng ta can đảm bước theo Chúa Giêsu trên con đường Người đã đi xưa.
Giờ đây chúng ta cùng tham dự Nghi thức làm phép và rước lá. Chúng ta cùng hân hoan tung hô Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế và hăng hái theo Người vượt qua những khổ đau để tiến vào vinh quang Phục sinh.

2. Nghi thức làm phép lá:
- Sau lời mời gọi của chủ tế, cuộc rước bắt đầu. Người dẫn lễ đọc:
Dân Do Thái xưa tay cầm cành lá đi đón và tung hô Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế, là Con Vua Đavít. Hôm nay, trong tâm tình khai mạc Tuần Thánh, cộng đoàn chúng ta cùng làm lại cử chỉ đó để tôn vinh Chúa Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa, là Vua vinh hiển, chính Người là Đấng Cứu Thế của nhân loại. “Vạn tuế Con Vua Đavít ! Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Chúa”.
- Ca đoàn hát bài phù hợp:

3. Phụng vụ Lời Chúa:


SUY NIỆM 1: ĐỨC GIÊSU – NGƯỜI TÔI TỚ KHIÊM TỐN

Kính thưa quý ông bà và anh chị em,
Hôm nay, cùng với toàn thể Giáo hội, chúng ta bước vào Tuần Thánh - tuần lễ quan trọng nhất trong năm phụng vụ. Đây là thời gian tưởng niệm cách trọn vẹn mầu nhiệm thương khó, tử nạn và Phục Sinh của Chúa Giêsu Kitô. Chúa Nhật Lễ Lá khởi đầu bằng nghi thức rước lá - dấu chỉ của chiến thắng. Nhưng đồng thời, cũng là lời mời gọi chúng ta bước vào cuộc khổ nạn của Đấng đã chọn trở thành Tôi Tớ Khiêm Tốn để cứu độ trần gian.

Thưa anh chị em, bài đọc I hôm nay, ngôn sứ Isaia cho chúng ta thấy dung mạo của một Người Tôi Tớ khiêm tốn: biết lắng nghe, không chống trả khi bị phỉ nhổ, không phản kháng khi bị đánh đòn. Đó chính là hình ảnh tiên báo về Chúa Giêsu, được thánh Phaolô khắc họa rõ nét trong thư Philípphê, làm nổi bật tâm điểm của đức tin Kitô giáo: “Người vốn dĩ là Thiên Chúa… nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân... vâng phục cho đến chết, và chết trên thập giá.” Thập Giá không phải là thất bại. Đó là đỉnh cao của tình yêu dám hạ mình đến tận cùng. Chúa Giêsu không cứu độ bằng uy quyền, nhưng bằng khiêm nhường. Không bằng chiến thắng vũ lực, mà bằng máu và nước mắt. Người không chỉ là Vua khải hoàn, mà là Tôi Tớ chịu thương khó. Người không chọn con đường vinh quang theo kiểu thế gian, không phô trương phép lạ để thoát nạn, nhưng đi vào cuộc thương khó như một Tôi Tớ âm thầm và trung thành. Chính trong sự hạ mình ấy, Ngài đã được Thiên Chúa tôn vinh.
Trang Tin Mừng hôm nay cho thấy một thực tế đau lòng: Chúa Giêsu bị phản bội, bị chối bỏ, bị kết án oan sai, bị dân chúng quay lưng. Điều đáng buồn nhất: tất cả những điều ấy đến từ chính những người từng gần gũi và yêu mến Ngài. Ngôn sứ Isaia đã nói rất đúng về những kẻ đạo đức giả: “Dân này tôn kính Ta bằng môi miệng, còn lòng chúng thì xa Ta.”

Kính thưa quý ông bà và anh chị em,
Chúng ta bước vào Tuần Thánh, đỉnh cao của năm phụng vụ. Chúng ta được mời gọi sống theo mẫu gương của Chúa Giêsu Kitô - Người Tôi Tớ Khiêm Tốn. Khiêm tốn không phải là yếu đuối, mà là sức mạnh của tình yêu biết từ bỏ chính mình vì người khác. Đó là con đường mà Chúa Giêsu đã đi. Và hôm nay, Ngài mời gọi mỗi người chúng ta cùng đồng hành, thông chia và canh tân đời sống. Đừng chỉ cầm lá, hãy mang lấy Thập Giá. Đừng chỉ tung hô Chúa bằng lời, hãy sống như Chúa bằng đời. Sống khiêm tốn là biết lắng nghe thay vì tranh luận. Biết hy sinh mà không tính toán. Biết tha thứ thay vì loại trừ.
Là người cha âm thầm chịu thiệt vì con. Là người mẹ sẵn sàng hy sinh. Là người bạn dám nhường nhịn. Thập Giá nhắc chúng ta rằng: để cứu một ai đó, không phải đứng trên họ, mà là biết cúi xuống, yêu thương họ từ nơi thấp nhất.

Năm Thánh 2025 mời gọi chúng ta trở thành những “người hành hương của hy vọng.” Nhưng hy vọng thật không đến từ những khẩu hiệu, mà từ chính cuộc đời dám bước theo Chúa Giêsu - Tôi Tớ Khiêm Tốn. Hành hương là ra khỏi chính mình: ra khỏi sự ích kỷ, ra khỏi những kỳ vọng kiêu ngạo, ra khỏi ảo tưởng rằng mình luôn đúng. Người hành hương đích thực là người dám để Thập Giá sửa lại lối sống của mình.
Ước gì Tuần Thánh này là thời gian đổi mới nội tâm, để trong ánh sáng của Năm Thánh, chúng ta thực sự trở thành những người hành hương của hy vọng, bước theo Chúa Kitô Tôi Tớ Khiêm Tốn để đến với vinh quang Phục Sinh. Amen.

Lm. Phêrô Nguyễn Văn Quang


SUY NIỆM 2: NGÃ RẼ CUỘC ĐỜI
Bước vào Tuần Thánh với Chúa nhật Lễ Lá hôm nay, Giáo Hội muốn chúng ta nghe lại và chiêm ngắm cuộc thương khó và tử nạn của Đức Kitô, Chúa chúng ta; bởi nơi đó hàm chứa một sự thật hết sức phũ phàng.

“Vạn tuế con Vua Đavid – chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến!”. Người Do Thái đã đồng thanh tung hô như thế khi Chúa Giêsu tiến vào thành Giêrusalem. Thế nhưng, từ giây phút ấy đến trước ngày áp Lễ Vượt Qua không quá dài, từ Giêrusalem đến núi Sọ cũng chẳng xa; vậy mà có rất nhiều người đã âm thầm rẽ sang một lối đi khác: vì người ta sợ, vì người ta thấy không còn gì để hy vọng, vì người ta kém lòng tin.
Trước tiên là ngã rẽ của Giuđa. Ông được Chúa tin tưởng trao cho công việc nắm giữ túi tiền. Ngày Lễ Lá chắc chắn ông có mặt. Nhưng khi Chúa chịu chết thì ông đã biệt tăm. Ông đã rẽ sang một lối đi khác: lối rẽ của tiền bạc vật chất. Tiền của đã đưa ông bước đi thật xa, xa đến nỗi ông đã bán cả Chúa vì tiền.

Kế đến là ngã rẽ của Phêrô. Nhớ ngày nào ông mạnh mẽ tuyên xưng: “Bỏ Thầy con biết theo ai?”, “Con liều mạng sống con vì Thầy”. Nhưng chính lúc Chúa cần ông nhất lại chẳng thấy ông đâu. Ông đã lặng lẽ rẽ sang một lối đi khác của riêng mình: lối rẽ của lười biếng và hưởng thụ. Lười biếng vì khi vào vườn Giêtsimani, ông đã không tỉnh thức để cầu nguyện cùng Chúa dù chỉ 1 giờ. Hưởng thụ vì khi Chúa Giêsu bị xét xử tại dinh tổng trấn, thì ông lại tìm một nơi để sưởi ấm cho bản thân ông. Lười biếng và hưởng thụ đã kéo ông xa Chúa, xa đến nỗi ông đã chối cả Thầy mình.
Cuối cùng là ngã rẽ của đám đông dân chúng. Hàng ngàn người đã theo Chúa mê mệt đến cả quên ăn, quên luôn cả đường về. Biết bao người reo mừng nghênh đón lúc Chúa vào thành, thế mà trên đường lên Núi Sọ người ta lại sỉ vả, chê bai và nhạo cười. Đám đông năm ấy đã rẽ sang một lối đi khác: Lối sống của dư luận, thiếu lập trường. Thấy người ta đi theo Chúa thì cũng đi. Thấy người ta nhạo cười Chúa thì cũng cười nhạo. Thấy người ta kết án Chúa thì cũng kết án.

Thưa anh chị em, nếu tiền bạc có thể làm Giuđa bán Chúa, nếu hưởng thụ có thể làm Phêrô chối Thầy, và nếu dư luận có thể làm đám đông thay lòng đổi dạ; thì những thứ đó cũng có thể đánh lạc hướng hành trình đức tin của chúng ta hôm nay.
Mỗi người hãy nghiệm lại mà xem. Giuđa đã bỏ Chúa mà rẽ qua lối đi của tiền của vật chất, kết quả được gì? Ông đã chết trong tức tưởi không kịp ăn năn cho trọn. Còn Phêrô chọn con đường của hưởng thụ phải chăng là 1 lựa chọn đúng đắn? Thưa không, ông đã phải đau đớn và chịu dằn vặt trong nước mắt, vì ông nhận ra đó là 1 lựa chọn sai lầm. Cũng vậy, con đường dư luận mà đám đông chọn đã đưa họ đến 1 ngõ cụt của cuộc đời.
Chính vì thế, khi mời gọi chúng ta chiêm ngắm cuộc thương khó và tử nạn của Chúa Giêsu hôm nay, Giáo Hội ước mong người kitô hữu đừng bao giờ bước đi trên vết xe đổ của Giuđa, của Phêrô và của dân Do Thái xưa, vì đó là những con đường dẫn tới sự chết.
Đồng thời, Mẹ Giáo Hội cũng mời gọi mỗi người hãy can đảm bước đi trên con đường khổ giá. Tuy con đường ấy có đầy đủ hương vị của đắng cay ngọt bùi, nhưng lại là con đường dẫn tới sự sống, là con đường ngắn nhất và đẹp nhất để vào Nước Trời. Bởi Chúa chúng ta đã đi trên con đường ấy và đạt đến vinh quang. Amen.

Lm. Antôn

SUY NIỆM 3: BỨC TRANH “BA THẬP GIÁ”

Một trong những bức tranh nổi tiếng nhất của danh họa Rembrandt, người Hoà Lan, sống vào thế kỷ 17, đó là bức tranh “ba thập giá”. Nhìn vào tác phẩm, ai cũng bị thu hút ngay vào trung tâm: giữa thập giá của hai người bất lương, thập giá của Chúa Giêsu nổi bật lung linh trong mầu nhiệm đau thương và cứu độ. Dưới chân thập giá là cả một đám đông, gương mặt nào cũng biểu lộ hận thù oán ghét…giữa nét đau khổ của hai tử tội, hận thù của đám đông là dung mạo Đấng Chịu Đóng Đinh hiền hòa chan chứa tình thương.
Tuần Thánh bắt đầu từ Chúa nhật Lễ Lá. Cử hành phụng vụ hôm nay khởi sự bằng việc làm phép lá và đi kiệu lá. Cộng đoàn đi kiệu để tưởng niệm việc Chúa Cứu Thế khải hoàn tiến vào thành Giêrusalem. Ngay sau đó là Thánh Lễ tưởng niệm cuộc Khổ nạn, đặc biệt với việc đọc Bài Thương khó. Việc cử hành hôm nay với hai nhịp tương phản, mang hai sắc thái nghịch nhau : người Do thái tung hô Chúa Cứu Thế, ngập tràn tiếng reo vui, sau đó họ đòi lên án tử hình Người và cuộc thương khó đầy máu nước mắt.
Ôi nhân tình thế thái, sao mau đổi trắng thay đen!
Màu đen sự dữ, màu trắng tinh khôi bàng bạc trong bức tranh “ba thập giá” và cuộc thương khó.

1. Sắc đen sự dữ
Chìa khóa để đọc tất cả những sự vô lý, bất công, phi đạo đức trong vụ bắt và xét xử Chúa Giêsu là: quyền lực của tối tăm. Bốn sách Tin Mừng đều kể rằng Chúa Giêsu bị bắt ban đêm. Matthêu, Maccô và Gioan kể một đám người mang gươm giáo gậy gộc do các thượng tế, kỳ mục, Pharisêu sai đến. Thánh Luca lại nói có cả các thượng tế, lãnh binh Đền Thờ và kỳ mục ở trong bọn người mang gươm giáo gậy gộc. Trong đêm tối, đang khi Chúa Giêsu cầu nguyện thì giới lãnh đạo cao nhất của dân Do thái đã hội họp tại nhà thủ lãnh của họ, sai thuộc hạ đi bắt Chúa Giêsu theo sự hướng dẫn của Giuđa, người môn đệ phản Thầy. Họ ngồi chờ để kết án ngay trong đêm.Phiên họp ban đêm này do chính Caipha, chủ tịch Thuợng Hội Đồng chủ sự. Thánh Matthêu kể: “Các thượng tế và toàn thể Thượng Hội Đồng tìm chứng gian buộc tội Đức Giêsu để lên án tử hình” (Mt 26,59). Họ dùng chứng gian vu khống và xuyên tạc chụp mũ để kết án tử hình Đức Giêsu (Mt 26,60-61; Mc 14,59).
Trong bộ phim 12 giờ cuối cùng của Chúa Giêsu, nhà đạo diễn đã hoạ lại hình ảnh của đêm tối vườn Cây Dầu. Đó là đêm tối của đức tin và cũng là đêm tối của lòng người.

Bộ phim bắt đầu với cảnh Chúa Giêsu đưa các môn đệ lên núi cầu nguyện vào một đêm đen như bao đêm khác.Thế nhưng, đêm nay khác hẳn mọi đêm. Bóng tối của sự dữ phủ kín, bóng đêm của quyền lực Satan bao trùm. Đêm nay, bóng tối của sự dữ hoành hành. Đêm nay, quyền lực của Satan như muốn thống lãnh thế gian. Con người đã toa rập với Satan để giết hại Con Thiên Chúa. Đêm tối vườn Cây Dầu chỉ còn lại một mình Chúa cô đơn.
“Giuđa tới đó, dẫn một toán quân cùng đám thuộc hạ của các Thượng tế và nhóm Pharisiêu; họ mang theo đèn đuốc khí giới…” (Ga 18,3). Người ta phải sử dụng đèn, đuốc…chứng tỏ họ đang ở trong bóng tối. Họ sử dụng khí giới tức là tựa vào sức mạnh và quyền lực thế gian. Với những từ ngữ này, Thánh Gioan giới thiệu họ như là biểu tượng của sức mạnh thế gian và quyền lực bóng tối. Giữa bóng đêm của vườn Cây Dầu thấp thoáng những khuôn mặt hung tợn với gươm giáo gậy gộc, xâu xé tấm thân đơn độc của Chúa Giêsu. Bóng tối như tiếp tay cho những hành động lén lút, bắt giữ bất minh. Màn đêm đó cũng che kín lý trí của những người tham dự phiên tòa bóng tối. Tất cả mọi chứng cứ kết án đều nằm trong vòng tròn gian dối. Mọi sự vật lúc này như nhuốm một màu đen đồng lõa cho sự dữ. Màu đen của những tâm hồn đen tối che lấp luôn cả màu đen của bóng đêm âm u. Đây là đêm của hận thù. Đây là giờ của bóng tối. Đây là thời điểm của xấu xa ngự trị. Không ai còn có thể nhận ra được ánh sáng chân lý trong màu đen của ác tâm.
Và trong các giờ kế tiếp, bóng tối càng bao trùm. Chúa Giêsu càng lẻ loi cô độc hơn.

Kể từ khi Giuđa bước ra khỏi phòng Tiệc Ly thì trời tối đen. Giuđa lẩn vào bóng đêm với đôi tay đen đúa nhận lấy những đồng bạc là giá máu của Thầy mình. Thánh Gioan trình bày, Giuđa rõ ràng thực hiện công việc này dưới tác động của Satan. Khi Giuđa rời phòng Tiệc Ly, “lúc đó, trời đã tối” (Ga 13,30). Trời tối bên ngoài chưa quan trọng. Ở đây, trời tối trong tâm hồn Giuđa. Đối với Gioan, Giuđa trong hành động nộp Chúa Giêsu đã thật sự là hiện thân của quyền lực bóng tối, đối lại với Chúa Giêsu là ánh sáng tinh tuyền.

Giuđa khoác lên trái tim màu đen của tội lỗi qua nụ hôn phản bội.Từ đó, bóng tối của sự dữ đã bao trùm lên Thượng Hội Đồng từ Thượng tế Caipha đến các Luật sĩ và Kỳ mục. Bóng tối như đồng lõa và biện minh cho mọi âm mưu thâm độc của những người đại diện cho lề luật.
Những mảng đen được tô đậm lên trên bức tranh Tình Yêu Giêsu, không phải bằng những nét vẽ dịu dàng, những nét chấm phá đặc sắc nhưng là những vết màu ngoằn nghèo, vô lối. Tình Yêu Giêsu lúc này đang bị tàn phá theo từng vết đen xấu xa của đám đông. Bóng tối đã làm tất cả mờ ảo trong điên cuồng. Mọi âm mưu đã được trù tính cẩn mật. Mọi lý lẽ độc dữ đã được hoạch định. Mọi hành vi được thực hiện ngay trong bóng tối của thần chết. Cứ thế, từng mảng đen tội lỗi như được dịp trút hẳn xuống Đức Giêsu, như muốn nhuộm đen toàn bộ cuộc đời và tình yêu của Ngài bằng mọi cách và mọi phương tiện. Ngài bị cho là đồ mê ăn uống, là phường tội lỗi. Ngài bị liệt vào hàng trộm cướp, hàng nô lệ cùng đinh. Ngài bị xem là phường gian dối, tiên tri giả. Ngài bị kết án là quân nói lộng ngôn, phạm thượng. Ngài bị xử tử vì bị gán cho việc kích động phản loạn. Đám đông dân chúng, từ những tên đầy tớ mạt hạng đến những bậc vị vọng, từ những người quen biết đến cả khách thập phương không từ chối điều gì để bôi đen con người Đức Giêsu. Ngài đã bị nhúng xuống bùn nhơ của sự khinh miệt, phỉ báng. Ngài đã bị đày đọa tận cùng của kiếp làm người.(x. Cuộc khổ nạn của Đức Giêsu qua tấm khăn liệm Turin, trang 252-253).Tình Yêu Giêsu đã bị tội lỗi nhân loại nhuộm đen màu tăm tối. Cuộc đời Chúa Giêsu đã bị dã tâm con người hủy hoại trong bóng đêm của sự bêu riếu, sỉ nhục và cái chết trần trụi thương đau. Nào ai có thể tin vào con người tàn tạ như thế! Còn ai có thể trông cậy vào con người yếu đuối bất lực này!!!

2. Sắc trắng thanh khiết
Tưởng chừng như bức tranh cuộc đời của Đức Giêsu chỉ là một vệt đen khiếp đảm với những ẩn tình vô lối mà nhân loại áp đặt lên chân dung Ngài. Nhưng thật nhẹ nhàng và linh động, Tình Yêu Giêsu như ngọn bút tài hoa đã gợi mở những nét vẽ thật diễm tuyệt. Tình Yêu sáng lên một màu trắng tinh khôi và mênh mang huyền ảo của trái tim thanh khiết trao ban đến tận cùng.
Tình Yêu ấy không mang một chút bợn nhơ của hận thù chia cắt nhưng lóng lánh sắc màu hồng tươi của Tình Yêu phục hồi và giải thoát. Tình Yêu ấy chấp nhận tất, dâng hiến tất cả để xóa đi mặc cảm tội lỗi của con người, cho con người cái nhìn mới của Thần Khí, cái nhìn của Thiên Chúa trong một tổng thể toàn vẹn và đưa con người đến với Tình Yêu sung mãn tuyệt hảo của Thiên Chúa. (x. Cuộc khổ nạn của Đức Giêsu qua tấm khăn liệm Turin, trang 254-255).

Màu đen sắc tối của con người đã được Tình Yêu Giêsu làm cho trắng tinh và trả lại sự trong sáng trong Sự Thật. Ngài đã đáp trả lại tất cả mọi bất công và hận thù bằng lòng bao dung tha thứ. Khổ đau của Thập Giá Đức Kitô không bao giờ là nỗi đau của hận thù, oán ghét mà luôn mang dáng đứng của tình yêu và sự khoan dung tha thứ. Trên thập giá, Chúa Giêsu đã cầu nguyện cùng Chúa Cha: “Xin Cha tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm”. Hơn thế nữa, Ngài công bố ơn cứu độ của Thiên Chúa ngay trên thập giá, lúc mà thế trần nhìn thấy Ngài trần trụi và yếu đuối nhất, khi Ngài ôm trọn con người tội lỗi trần gian qua hình ảnh tên gian phi biết cúi mình nhận ra Chân Lý: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng” (Lc 23,43). Đức Giêsu đã xóa màu đen ghê tởm của sự dữ trong lòng con người qua việc phục hồi giá trị của mỗi nhân vị và đưa nhân loại đến với Thiên Chúa qua Tình Yêu toàn tha của Ngài. Đức Giêsu đã dùng cạn hết mọi dấu chỉ của thế trần để biểu lộ Tình Yêu thâm sâu của Ngài cho chúng ta. Đó là màu trắng thanh khiết nhất và là ánh sáng đẹp nhất mà nhân trần này có thể chiêm ngưỡng.

3. Trắng đen trong lòng người.

Tiến bước theo Chúa Giêsu trong cuộc thương khó, chứng kiến sự thay đổi nhanh chóng của lòng người, thấy sự tráo trở thay lòng đổi dạ, đổi trắng thay đen của nhân tình thế thái, chúng ta thấy bàng bạc một màu đen của những ý đồ xấu xa, những manh tâm gian ác và những hành vi tội lỗi thấp hèn và thấy sáng lên tình yêu thanh khiết của Đấng Cứu Độ.

Cuộc đời hôm nay vẫn còn đó những sắc tối của lòng người. Dòng đời hôm nay vẫn còn đó những con người công chính, lương thiện lại là nạn nhân của bất công, gian dối và tham lam. Biết bao người đã để cho bóng tối của lòng tham nổi loạn đến nổi sẵn sàng chà đạp và lường gạt nhau. Biết bao người vì lòng tham, vì tính ghen tương đố kỵ,vì thói tự mãn kiêu căng vẫn đang tìm cách làm khổ nhau và làm hại đời nhau. Bao lâu lòng người còn chất chưa những ý đồ bất chính, những thủ đoạn lừa lọc, những ích kỷ nhỏ nhen, bấy lâu vẫn còn đó những con người lương thiện bị đe doạ, bị hành hạ và bị loại trừ.

Con người thời nay vẫn nhân danh hạnh phúc của riêng mình để kết án tử cho người khác, nhất là các thai nhi vô tội. Họ giết người vô tội không cần bản án, không cần thẩm phán hay quan toà. Tử tội thai nhi đã bị giết, chỉ vì một bà mẹ không muốn sinh con. Cả xã hội từ ông bà, cha mẹ, họ hàng và các người hành nghề lương y đã sẵn sàng giết chết sự sống của một sinh linh không có khả năng tự vệ. Biết bao cha mẹ đã viện ra nhiều lý do để loại trừ những đứa con của mình cách dửng dưng vô cảm.
Điều ác và sự thiện cũng chỉ là sự khác biệt của hành động rút gươm “hãy xỏ gươm vào bao, vì tất cả những ai dùng gươm sẽ chết vì gươm” (Mt 26,52). Khi tất cả mọi lưỡi gươm được cất vào vỏ, sự thiện và thiên đàng đang ở giữa lòng thế giới. Khi thanh gươm được rút khỏi bao, nhân loại đang đắm chìm trong hỏa ngục của chính mình. Con người luôn muốn hành xử tất cả theo lối quyền uy và bạo lực của bóng tối. Tuy nhiên, Chúa Giêsu đã dùng một phương cách kỳ lạ để cho con người thấy đâu là sự thật nhân loại cần hướng về. Qua Ngài, những cơn cuồng nộ của sự dữ, những bão táp của nhục hình, những tiếng thét hận thù như bị cuốn vào một lực hút vô hình của Tình Yêu thanh khiết. Sức của của tình yêu nơi Chúa Giêsu đã thâu tóm mọi sự xấu xa độc dữ của nhân loại và hóa giải tất cả để biến nên những giá trị mới của hiền lành, khiêm nhường và khoan dung.(x. Cuộc khổ nạn của Đức Giêsu qua tấm khăn liệm Turin, trang 258-260).

Chúa Giêsu không quỵ lụy, không riên xiết trong cuộc khổ nạn, nhưng Ngài luôn kiên cường và nhẫn nại để mời gọi và mở ra cho nhân loại một cái nhìn về chân lý, về tình yêu, về một Thiên Chúa yêu thương đến cùng. Chúa Giêsu không oán trách hay hận thù ai, Ngài vượt lên trên tất cả bằng tình thương tha thứ. Chúa Giêsu đã biểu lộ sức mạnh của tình yêu, sức mạnh của niềm tin và phó thác trọn vẹn cho Thiên Chúa. Chính sức mạnh tình yêu đã làm mọi chia rẽ được hàn gắn, mọi hận thù được xóa bỏ và mọi xa cách được nên hiệp nhất. Chúa Giêsu đã hợp nhất nhân loại trong trái tim rộng mở của Ngài, trái tim chỉ có tình yêu thanh khiết. Ngài nâng con người lên giá trị cao hơn trong sự kết hiệp với tình yêu Thiên Chúa, một tình yêu Nguyên Tuyền.
Ánh Sáng Tình Yêu chính là Ánh Sáng Phục Sinh. Ánh Sáng ấy không làm mờ đi bóng cây thập giá nhưng lại mang một ý nghĩa và sắc màu huyền diệu lung linh. Tin và bước theo Chúa Giêsu, chúng ta được tháp nhập vào tình yêu thanh khiết của Ngài, nhờ đó cuộc sống luôn có niềm vui bình an và hạnh phúc. Thánh Gioan đã đi trọn cuộc khổ nạn cùng với Chúa Giêsu và đã viết những lời thật đẹp, thật ý vị về Tình Yêu Chúa Giêsu: “Tình yêu cốt ở điều này: không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta, và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta. Anh em thân mến, nếu Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta như thế, chúng ta cũng phải yêu thương nhau.Thiên Chúa chưa ai được chiêm ngưỡng bao giờ.Nếu chúng ta yêu thương nhau, thì Thiên Chúa ở lại trong chúng ta, và tình yêu của Người nơi chúng ta mới nên hoàn hảo”. (1Ga 4,10-12).
Linh mục Giuse Nguyễn Hữu An


SUY NIỆM 4: CUỘC KHỔ NẠN CỦA TÌNH YÊU

Mỗi năm, vào Chúa nhật Lễ Lá, chúng ta có cơ hội được nghe lại bài Thương Khó của Chúa Giêsu. Từ “thương khó” nói đến những đau khổ và nhục hình mà Chúa Giêsu phải chịu, mà đỉnh điểm là cái chết của Người trên thập giá.
Trong kinh Tin Kính, khi đọc đến câu “Người chịu khổ hình và mai táng”, chúng ta có cảm tưởng rằng Chúa Giêsu hoàn toàn thụ động trong cuộc thương khó, vì Người bị xem như một tội nhân: Người bị bắt, bị đánh đập, bị xét xử, bị kết án tử, bị đóng đinh... Nghĩa là Chúa Giêsu hoàn toàn ở trong thế bị động, Người không có quyền hay cơ hội để phản kháng trước sự tàn bạo của con người.
Nhưng nếu đọc kỹ các bài tường thuật về cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, cả bốn tác giả Tin Mừng đều cho chúng ta thấy rằng, chính Chúa Giêsu đã chủ động đi vào cuộc thương khó của Người. Vì biết “giờ” của mình đã gần đến, Người chủ động lên Giêrusalem, vì như Người nói “một ngôn sứ mà chết ngoài thành Giêrusalem thì không được” (Lc 13,33). Trước giờ khổ nạn, Chúa Giêsu biết rõ Người sẽ bị môn đệ phản bội và chối bỏ, nhưng Người không tìm cách loại trừ họ, trái lại Người còn lên tiếng cảnh tỉnh để mong họ tỉnh ngộ và giúp họ tỉnh thức; dù biết kế hoạch của Giuđa và biết rằng mình sẽ bị bắt và bị giết, Người vẫn không trốn chạy nhưng điềm nhiên cùng các môn đệ đi vào vườn Cây Dầu cầu nguyện như thói quen, và chính ở đó, Người tiến ra cho quân lính bắt (x. Ga 18,1-4), cũng như trong dinh Tổng trấn, Người đã nói với Philatô: “Ngài không có quyền gì đối với tôi, nếu Trời chẳng ban cho ngài”... Và thánh sử Gioan đã tóm tắt tất cả sự chủ động của Chúa Giêsu trong cuộc khổ nạn qua lời tuyên bố của Người: “Mạng sống của tôi, không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình. Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy...” (Ga 10, 18).

Giáo Hội khẳng định ý tưởng này trong Kinh nguyện Thánh Thể II mà chúng ta thường được nghe trong thánh lễ: “Khi tự nguyện nộp mình chịu khổ hình, Người cầm lấy bánh…” Như vậy, Chúa Giêsu đã bước vào cuộc khổ nạn của Người với sự tự do tuyệt đối. Và khi đón nhận cuộc thương khó với tất cả sự tự do trong tình yêu, Người đã biến mọi đau khổ Người chịu trở nên hiến lễ cứu độ nhân loại.
Vì thế, cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu phải được hiểu theo nghĩa tích cực, nghĩa là một hành động của tình yêu trọn vẹn. Chính Người đã nói ý nghĩa cuộc Thương Khó của Người: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình.” (Ga 15,13)
Trong suốt Tuần Thánh này, chúng ta hãy dành thời gian để đọc và đọc lại các bài Tin Mừng về cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu. Chúng ta hãy chú ý đến tất cả những chi tiết cụ thể trong từng lời nói, cử chỉ hay cách thức hành động của Chúa Giêsu trong cuộc khổ nạn. Vì tất cả giờ đây đều trở nên dấu chỉ, mà qua đó Người bày tỏ sự tự do trong tình yêu đối với Chúa Cha và đối với nhân loại. Người đã rửa chân và chia sẻ bữa ăn với các môn đệ, trong đó có những môn đệ sẽ phản bội và chối bỏ Người; Người chạm vào và chữa lành tai của một tên đầy tớ vị thượng tế bị môn đệ của Người chém đứt; Người đã nhìn Phêrô sau khi ông chối Người đến ba lần, một cái nhìn tha thứ và đầy lòng thương xót để ông biết khóc lóc ăn năn; Người an ủi những người phụ nữ đang đấm ngực than khóc Người trên đường vác thập giá. Trên thập giá, Người xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ tố cáo và xử tử Người, vì “họ không biết việc họ làm”. Cuối cùng, Chúa Giêsu tỏ tình thương đặc biệt với người gian phi bị đóng đinh cùng khi hứa cho anh ta được vào Thiên Đàng ngay ngày hôm đó. Quả thật, đây là cuộc Thương khó, nhưng là một cuộc Thương Khó của Đấng tự nguyện bước vào vì yêu con người.

Vâng, Chúa Giêsu Kitô yêu thương nhân loại đến cùng. Người vác thập giá của mình thay cho tất cả thập giá đang đè nặng trên từng người chúng ta. Người chấp nhận chịu án tử bất công và chịu chết để chia sẻ số phận của những người bị bỏ rơi, loại trừ, bị bắt bớ, tra tấn, bị kết án, bị xử tử cách bất công. Người đã đón nhận và sống tất cả những điều đó để nói lên tình yêu của Người dành cho chúng ta. Từ nay không có bất cứ vất vả, đau đớn, tủi nhục hay mất mát nào chúng ta chịu mà Chúa Giêsu không thể thấu hiểu, cảm thông và chia sẻ với chúng ta. Vì Người đã trải qua tất cả.
Hôm nay, chúng ta chiêm ngắm Chúa Giêsu trong cuộc Thương Khó để học với Người cách đón nhận và đối diện với những đau khổ. Mỗi người trong chúng ta, ai cũng có cuộc thương khó của đời mình, ai cũng đã từng bị phản bội, bị vu oan giá họa, bị đối xử bất công, bị khinh chê coi thường, chịu mất mát thiệt thòi... và còn biết bao bận tâm, lo lắng và đau khổ đang bóp nghẹt trái tim chúng ta. Nhưng chúng ta hãy nhớ rằng, Chúa Giêsu cũng đã trải qua tất cả những điều đó, và Người đã đi đến tận cùng những khổ đau của phận người là cái chết. Chúng ta hãy học với Chúa Giêsu, đón nhận tất cả những khó khăn đau khổ xảy đến với sự tự do của tình yêu để biến nó thành của lễ dâng lên Chúa Cha, và sẵn sàng hy sinh sự tự do được làm điều chúng ta muốn như một cách chết đi chính mình, để sự sống mới được sinh ra cho chính chúng ta và cho tha nhân.
Cầu chúc cho mỗi người chúng ta trong Tuần Thánh này, có đủ thời gian thinh lặng để nhận ra mình được Chúa yêu nhiều như thế nào trong cuộc Thương Khó của Người.
Lm. Giuse Vũ Thái Hòa


SUY NIỆM 5: TIẾN BƯỚC NHƯ MỘT CON LỪA

Hôm nay, toàn thể Hội Thánh cử hành biến cố Chúa Giêsu vào thành thánh Giêrusalem, đồng thời Hội Thánh khởi đầu Tuần Thánh, là thời gian Hội Thánh sống tâm tình của Chúa Giêsu bước vào cuộc thương khó của Ngài. Như vậy, trong cử hành hôm nay, Hội Thánh muốn mỗi chúng ta trả lời câu hỏi: tại sao nơi mỗi chúng ta có sự thay lòng đổi dạ đối với Chúa nhanh như vậy? Tại sao hôm nay đông đảo con người giơ tay tung hô Chúa là Đấng Cứu Độ rồi chỉ trong một tuần lễ thôi, đám đông đó lại giơ tay hét lớn: “Đóng đinh nó vào thập giá”? Có lẽ không có gì gây bất ngờ cho bằng lòng người và cũng không có gì thay đổi nhanh chóng cho bằng lòng người!
Điều bất ngờ là không phải ai khác, không phải chỉ những người chưa biết Chúa hay đang thù ghét Chúa, mà chính Kitô hữu chúng ta thay đổi lòng dạ với Chúa đến mức không ngờ. Chúa Giêsu hôm nay đang bị xã hội hôm qua và hôm nay loại ra khỏi, ai gây nên? Chẳng lẽ chỉ những người Rôma và Do-Thái hay những người vô thần? Không có một kitô hữu nào, một gia đình nào, một nhóm người nào gây nên sao? Giáo lý của Chúa bị người nghe chống đối, ai gây nên? Chẳng lẽ chỉ những người ghét Chúa và ghét đạo thánh của Chúa? Không có môt Kitô hữu nào, một gia đình nào, một nhóm người nào chống đối giáo lý của Chúa sao? Trong những ngày này, một số giám mục trên thế giới đã không phải lo âu và lên tiếng cảnh báo rằng ngay cả trong Giáo Hội đang có khuynh hướng tự ý sửa đổi giáo lý của Chúa đó sao? Hội Thánh là thân mình của Chúa hôm nay không được tung hô đã đành, lại còn bị những trận đòn tơi tả của các phương tiện truyền thông, của những thủ đoạn trục lợi bất chấp sự thật, có khác gì những trận đòn Chúa chịu xưa đâu. Trong hoàn cảnh này, các môn đệ của Chúa đi đâu cả? Đang nhập vào đám đông để trá hình: Vừa hoan hô Chúa, vừa lên án Chúa? Hay đang tìm một nơi nào đó ngủ nghỉ, trốn tránh để mặc Chúa một mình? Chúng ta đang là ai trong đám đông hôm nay?

Chúng ta là những người đang vẫy lá hoan hô Chúa ư? Đó không phải là chọn lựa tốt, vì sau khi tiếng tung hô không còn, chúng ta có thể hét lớn: đóng đinh nó vào thập giá, máu nó sẽ đổ lên đầu chúng tôi và con cháu chúng tôi. Chúng ta là một trong các môn đệ trong những ngày này ư? Đó cũng không phải là chọn lựa đúng, vì sau đó các tông đồ kẻ bán Chúa, kẻ thì chối Chúa, kẻ bỏ Chúa mà đi và có những kẻ ơ hờ nằm ngủ, mặc dù nhiều lần được Chúa kêu gọi “Các con ngủ sao? Hãy dậy và cầu nguyện” tham dự vào cuộc khổ nạn của Ngài. Vậy, tôi là ai trong biến cố tuần thánh này? Xin mượn hình ảnh của Đức Hồng Y Etchegarey để chọn đó là được nên như con lừa cho Chúa cỡi lên. Đám đông hai bên đường tung hô, con lừa không tự mãn, vì biết danh dự đó dành cho Đấng Mêsia; đám đông lên án Chúa, con lừa cũng không chán nản, ngừng nghỉ, nhưng cứ âm thầm mang Chúa trên lưng, bước lên con đường đầy sỏi đá dù làm cho chân đau nhức mà vẫn không kêu than: “ Đời tôi tiến bước như một con lừa.”
Xin cho sự lựu chọn và tâm tình này giúp chúng ta đồng cảm với những đau khổ của Chúa và vui lòng đi theo Chúa suốt chặng đường đời.

Linh mục Tađêô Võ Xuân Sơn


SUY NIỆM 6: ĐƯỜNG LÊN CANVÊ

Phụng vụ Tuần Thánh mời gọi chúng ta đọc lại, suy gẫm và sống trình thuật thương khó của Đức Giêsu. Chúng ta cùng đồng hành với Người tử tội. Tuần Thánh là cao điểm phụng vụ Kitô giáo, Giáo hội yêu mến và biết ơn Thầy chí thánh của mình, nên Giáo hội hằng năm tổ chức lễ GIỖ của Thầy. Khi tưởng niệm người đã khuất, người ta thường nhắc lại những việc làm, những lời nói và nhất là những lời trăn trối cuối cùng của họ, để con cháu học hỏi và noi gương bắt chước.
Đường Thánh Giá là một trong những thực hành truyền thống đạo đức bình dân lâu đời nhất, chảy từ tâm huyết của các tín hữu ngay từ ban đầu, mặc dầu tất cả các chặng Đường Thánh Gía không nhất thiết được Thánh Kinh nói đến. Biết rằng ngoài Kinh thánh, Giáo hội còn có Thánh truyền, là sự chuyển giao sự sống bằng thực hành tôn giáo qua các hình thái đạo đức, bằng sinh hoạt cộng đoàn, được gọi là các tập tục tôn giáo. Thánh truyền được lưu truyền qua các việc làm đạo đức, và rất được Giáo Hội trân trọng.

Kết án tử hình mở đầu cuộc thương khó cho thấy, từ nay những sức mạnh tối tăm nắm quyền quyết định. Đức Giêsu bị kết án, vì đối phương của Người không thể chấp nhận Người, họ từ chối các phép lạ Người làm và cho Người là kẻ phá đám và gây nguy hiểm cho an ninh trật tự chính trị xã hội cũng như tôn giáo. Người đáng phải đóng đinh! Như thế bản án tử hình của Chúa theo quy trình của luật Rô-ma.
Đức Giêsu xê vai lại vác thập giá; vai tượng trưng cho điểm tựa của trách nhiệm, của sức nặng công việc. Công việc cứu rỗi là gánh lấy tội lỗi nhân loại đè xuống trên vai, một khi hoàn tất, niềm hy vọng và ơn cứu chuộc nhân loại sẽ được thực hiện, đó là điểm then chốt trong trình thuật nầy.

Một Thiên Chúa ngã quỵ và can đảm đứng lên không than thân trách phận, cho ta bài học khiêm nhường và kiên cường trong thi hành nhiệm vụ và bổn phận. Người hoàn thành phận vụ bất chấp thất bại và khó khăn.
Đức Mẹ Maria gặp Đức Giêsu đang vác thập giá, một sự đồng cảm và đồng hành chia sẻ gánh nặng và cảm thương giữa Mẹ và Con trong việc cứu chuộc. Sự hiện diện của Mẹ là sự an ủi nâng đỡ Con. Là lời động viên “cố lên Con”.
Ông Simon vác thập giá giúp Đức Giêsu, cũng như bà Maria Mađalêna lấy nước mắt rửa chân cho Đức Giêsu, các nghĩa cử nầy được nhắc lại và truyền tụng qua mọi thời cho đến tận thế. Cảm thông và nâng đỡ người lâm cơn hoạn nạn luôn là sự kích lệ cho dù không giải quyết được gì bao nhiêu.Bà Vêrônica chạy đến lau mặt Đức Giêsu bất chấp sự đe dọa của quân lính Rôma, bà không đồng ý với bản án bất công. Đấng mà bà lau sạch gương mặt, sẽ lau khô mọi dòng lệ trên con mắt chúng ta, khi chúng ta nhìn thấy Người là ai.

Dù được nâng đỡ trong tình liên đới, Đức Giêsu ngã xuống một lần nữa. Chắc hẳn trong đám đông có người đã chịu ơn phép lạ của Người, điều chua chát nầy làm Người ngã gí xuống đất.
Với đoàn phụ nữ đi theo than khóc, Đức Giêsu nói với họ đừng than khóc vì Chúa, nhưng hãy than khóc vì chính tội lỗi mình và vì con cháu của họ, hãy dấn thân trong trách nhiệm hơn là than khóc nặng nề tình cảm.
Ngã xuống rồi lại can đảm đứng lên và bước đi cho đến cùng. Tới núi Can-vê tất cả y phục bị lột ra, một thân thể bê bết máu me phơi bày không chút thẹn thùng. Người đã hạ mình xuống tận đất đen như loài sâu bọ!
Bị lột trần, chỉ còn chờ đóng đinh vào thập giá. Xác thánh nầy đã được bọc trong khăn nay bị đóng đinh vào thập giá. Đấng chuyển động cả vũ trụ, nay hoàn toàn bất động, vô hại, ngay cả kẻ thù cũng không khiếp sợ gì Người nữa.

Người sắp trút hơi thở cuối cùng, Người nói những lời trối trăn cho Mẹ và cho Gioan, hứa cho người trộm lành thiên đàng, không một lời oán hận nào đã thốt lên. Không bao giờ có ai đã yêu và chết vì yêu như thế! Người bình an dâng hiến cuộc đời, tha thứ và yêu thương tất cả.
Nhân loại mà nói, chết là hết. Thật diễu cợt! Đấng có quyền đặt chúng ta bên hữu Thiên Chúa thì nay lại không có chỗ để đặt xác của Người. Phải mượn tạm mộ của một ai khác. Vua cả trời đất, chết vô địa táng!
Trước nấm mộ lạnh lùng của Vua trời đất và sự thinh lặng khó hiểu của Thiên Chúa, chúng ta được mời gọi tin tưởng vào sự sống lại. Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời! Hy vọng của chúng ta ở nơi thập giá Chúa Kitô.
Lạy Chúa Giêsu,“chúng con kính lạy và ngợi khen Chúa Giêsu Kitô, vì Chúa đã dùng rất Thánh Giá mà chuộc tội cho thiên hạ”. Amen

Linh mục Lu-y Nguyễn Quang Vinh



SUY NIỆM 7: NIỀM VUI - THẬP GIÁ - VÀ ƠN CỨU ĐỘ

Với Chúa nhật Lễ Lá, khai mạc Tuần Thánh, trung tâm của toàn thể Năm Phụng Vụ, trong Tuần này chúng ta dõi theo hành trình thương khó của Chúa Giêsu, chết và sống lại.
Niềm vui
Hoan hô, chúc tụng vua Israel, Ðấng nhân danh Chúa mà đến! (x. Ga 12, 12-16)
Nghe đọc những lời trên lúc mở đầu nghi thức làm phép kiệu lá, tưởng nhớ tới sự kiện Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem, dân chúng rủ nhau ra mà đón: “Dọc đàng, người ta trải áo trên lối đi. Khi Người đến gần triền núi Cây Dầu, tất cả đoàn môn đệ hân hoan lớn tiếng ca ngợi Chúa về mọi phép lạ họ đã thấy mà rằng: "Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến! Bình an trên trời và vinh quang trên các tầng trời” (Lc 19, 36-38). Giờ đây mỗi người cầm cành lá trong tay vừa đi vừa hát “Hoan hô...” thấy thật là vui.

Đám đông dân chúng đón rước Chúa lúc đó hân hoan, ngợi khen, chúc tụng, đúng là một bầu khí vui mừng mà chúng ta cảm nghiệm được khi tái cử hành biến cố năm xưa hôm nay. Chúa Giêsu, Thái Tử nhà Đavít tiến vào Giêrusalem đã khơi dậy lên bao nhiêu niềm hy vọng nơi tâm hồn những người đơn sơ, nghèo khổ, bị lãng quên, những người không đáng kể gì trong xã hội. Người thấu hiểu và cảm thông cảnh lầm than khốn khổ của họ, cúi mình xuống chữa lành những vết thương thể xác cũng như tâm hồnvà tỏ lòng từ bi đối với họ.
Đúng như lời ngôn sứ I-sai-a nói: “Người đã mang lấy các tật nguyền của ta và gánh lấy các bệnh hoạn của ta” (Mt 8,17). Đó là tình thương cao cả của Chúa Giêsu, Người đã mang tình thương ấy đi vào thành Giêrusalem. Chúng ta thật vui mừng và tràn đầy hy vọng, vì thế giới chúng ta sống đang rất cần tình thương đó.

Thập giá
Niềm vui của dân chúng đang hân hoan, tung hô, chúc tụng Chúa, sự đấu tố, đòn vọt, vòng gai và thập giá bao trùm, những lời của Tiên tri Isaia, bài tường thuật của thánh sử Marcô, và những bài đọc phụng vụ khác dẫn đưa chúng ta vào trong mầu nhiệm Thương Khó và cái chết của Chúa Giêsu. Isaia mô tả cho chúng ta hình ảnh của một người bị đánh đòn và chịu vả mặt nhục nhã (x. Isaia 50, 6). Lời đáp ca: “Lạy Chúa tôi, lạy Chúa tôi, sao Chúa bỏ rơi tôi?” giúp chúng ta chiêm ngắm cơn hấp hối của Chúa Giêsu trên thập giá (Lc 23,44-45). Nơi bài đọc II, thánh Phaolô tông đồ giúp chúng ta hiểu sâu xa hơn mầu nhiệm Vượt Qua: Chúa Giêsu, “dù là Thiên Chúa, nhưng không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân phận nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, và chết trên cây thập tự” (Phil 2, 6- 8).

Một vị Vua cưỡi trên con lừa con, không có đoàn tùy tùng đi theo, không có một binh đoàn biểu tượng quyền lực tiến vào thành Giêrusalem là Chúa Giêsu. Người không vào Thành Thánh để nhận vinh dự dành cho các vua trần thế, cho kẻ có quyền bính, cho kẻ thống trị; Người vào thành để chịu đánh đòn, lăng mạ và xúc phạm, như Isaia đã tiên báo (x. Is 50,6); Người vào để chịu đội mão gai và mặc áo choàng đỏ, vương quyền của Người là đối tượng cho sự nhạo cười; Người vào để bước lên đồi Canvê vai vác khổ giá; Người vào thành Giêrusalem để chịu chết trên Thập giá. Thập giá là ngai vàng của Người, Người mang lấy Thập giá trên mình, mang vào mình sự ác, cùng với sự nhơ bẩn, tội lỗi của trần thế và cả tội chúng ta nữa. Với lòng từ bi và tình thương của Thiên Chúa, Người lấy máu mình mà tẩy rửa cho sạch. Vì thế, Thập giá được Chúa Giêsu đón nhận với tình thương không bao giờ đưa tới sầu muộn, nhưng dẫn đến niềm vui, niềm vui được cứu độ.

Sống Tuần Thánh

Bước vào Tuần Thánh, Giáo hội cùng với con cái mình dõi theo Chúa Giêsu trên hành trình tiến lên đồi Canvê với thập giá và sự sống lại của Người. Sống Tuần Thánh là đi vào tình thương hiến thân của Chúa Giêsu hầu mang lại sự sống cho con người

Lúc sinh thời, Chúa Giêsu đã rong ruổi trên khắp nẻo đường, với lòng tin, Người đã chọn gọi 12 người đơn sơ để họ ở với và tiếp tục sứ mạng yêu thương của Người. Trong Tuần Thánh chúng ta sống trọn vẹn cuộc hành trình này. Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem để thi hành sứ mạng yêu thương ấy.

Chúa Giêsu không sống cách thụ động tình thương dẫn đến hy sinh, hoặc như một định mệnh không thể tránh được; Người không che giấu sự sao xuyến sâu xa như một con người trước cái chết dữ dằn, nhưng phó thác hoàn toàn nơi Chúa Cha. Chúa Giêsu tự ý nộp mình chịu khổ hình và chịu chết, để chứng tỏ tình thương của Thiên Chúa đối với thế gian. Thánh Phaolô cảm nghiệm được rằng, trên Thập giá, Chúa Giêsu “đã yêu thương tôi và hiến mình vì tôi” (Gl 2,20). Mỗi người chúng ta có thể nói: Người đã yêu thương tôi và đã phó nộp mình vì tôi.

Nhìn vào Chúa Giêsu trong cuộc thương khó, chúng ta khám phá ra những đau khổ của nhân loại nói chung và những đau khổ của chính cá nhân mình nói riêng. Chúa Giêsu, dù vô tội, đã nhận mang lấy vào thân điều mà con người không thể chịu được như: sự bất công, sự dữ, tội lỗi, hận thù, đau khổ và cuối cùng là sự chết. Trong Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa phải chịu nhục nhã và đau khổ để chứng tỏ rằng Thiên Chúa yêu thương tất cả, tha thứ cho tất cả và mang đến cho con người ý nghĩa cuối cùng của cuộc sống.

Mỗi năm, với Tuần Thánh, Giáo Hội bước vào trong Mầu nhiệm Vượt Qua, Mầu nhiệm tưởng niệm cái chết và sự sống lại của Chúa Giêsu. Chính nhờ sức mạnh của Mầu Nhiệm Vượt Qua mà Giáo Hội có thể công bố cho thế giới bằng lời nói và bằng những việc làm tốt của những con cái mình rằng: “Chúa Giêsu Kitô là Chúa, để Thiên Chúa Cha được vinh hiển” (Phil 2,11). Phải, Chúa Giêsu Kitô là Chúa, Người là Chúa của thời gian và của lịch sử; là Ðấng Cứu Chuộc con người; Người là Ðấng Cứu Thế! Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến! Hosanna!
Cùng với Mẹ Maria, chúng ta hãy xin với Mẹ là Ðấng đã theo Chúa Giêsu Con Mẹ trong suốt chặng đường dẫn tới Canvê trong đức tin, giúp con cái Mẹ vác thập giá với niềm thanh thản và yêu thương bước theo Chúa, để đạt được niềm vui của lễ Phục Sinh. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ


SUY NIỆM 8:

Một trong những điểm nổi bật và làm rơi nước mắt của bao nhiêu người khi xem bộ phim về cuộc khổ nạn của Đức Giêsu đó là cảnh bạo lực.

Người Do Thái dùng bạo lực một cách khủng khiếp đối với Đức Giêsu. Họ bắt Ngài phải vác thập giá. Họ đánh đòn Ngài. Họ khạc nhổ vào mặt Ngài. Họ bắt Ngài đội mạo gai. Họ đóng đinh chân tay Ngài vào thập giá. Họ còn lấy lưỡi gươm đâm thấu cạnh sườn Ngài thấu cả trái tim. Người Do thái thời bấy giờ quả thật là quá tàn nhẫn với Đức Giêsu Con Thiên Chúa xuống thế làm người. Xem cảnh bạo lực đó, có lẽ không ai không trách móc người Do thái sao họ lại làm như thế với Đức Giêsu? Nhưng nếu để ý thì chúng ta vẫn thấy những cảnh bảo lực người ta gây nên cho Đức Giêsu vẫn được tái diễn lại nơi các Tông đồ và các môn đệ của Ngài suốt hơn 2000 năm qua. Và ngày hôm nay, bạo lực vẫn còn tái diễn lại trong các gia đình, nơi học đường, nơi mỗi môi trường sống của xã hội hôm nay.
Thật vậy, trong số các Tông đồ, chỉ có Thánh Gioan bị bỏ vào vạt dầu sôi không chết, còn 11 vị khác đều chịu chết vì đạo, nghĩa là các Ngài đã phải chịu cảnh bạo lực trước khi chết. Rồi suốt 2000 năm qua, vô vàn vô số các kitô hữu đã phải chịu nhục hình vì Chúa. Chỉ riêng ở Việt Nam chúng ta, với gần 300 năm bách hại đạo, có khoảng 150 ngàn kitô hữu chịu chết tử vì đạo, trong số đó đã có 117 vị thánh đã được phong hiển thánh và 1 vị được phong chân phước. Sau đây là hình khổ mà các vị tử đạo Việt Nam phải chịu: 1 vị chịu bá đao, tức là bị lý hình dùng dao cắt xẻo từng miếng thịt trên thân thể cho đủ 100 miếng; 4 vị chịu lăng trì, tức là bị chặt chân chặt tay trước khi chém đầu; 6 vị chịu thiêu sinh, tức là bị thiêu sống; 75 vị chịu xử trảm, tức là bị chém đầu; 22 vị chịu xử giảo, tức là bị tròng dây vào cổ và bị lý hình kéo hai đầu dây cho đến chết; 9 vị chịu chết rủ tù, tức là bị tra tấn, hành hạ đủ cách đủ kiểu, rồi bị bỏ đói cho tới khi kiệt sức và chết gục trong tù.

Ngày hôm nay, người ta vẫn dùng bạo lực để bạch hại các kitô hữu đây đó trên thế giới. Người ta không chỉ dùng bạo lực đối với các kitô hữu mà người ta còn dùng bạo lực để giải quyết mọi vấn đề giữa con người với nhau trong gia đình, nơi trường học, nơi các cơ quan công quyền và nơi mọi môi trường sống.
Trước hết, bạo lực trong gia đình: Theo thống kê của Vụ Gia đình (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) Việt Nam cho thấy trong 5 năm trở lại đây, số vụ bạo lực gia đình được ghi nhận khoảng 20.000 vụ/năm. Chỉ riêng trong năm 2015 có 31 phụ nữ, 7 trẻ em bị người thân giết hại. Số liệu báo cáo của các tổ chức phi chính phủ năm 2014 cũng cho thấy cứ 2-3 ngày lại có một người bị giết liên quan đến bạo lực gia đình, mà nạn nhân đa phần là phụ nữ và trẻ em (theo www.rfa.org). Xin nêu lên một số vụ nổi cộm như: Bố tẩm xăng đốt hai con gái tại Hải Phòng; con giết cha tại Đăk Nông; giết chồng để đi theo người tình tại Lâm Đồng; đâm chồng 18 nhát rồi vứt xác xuống sông tại Thái Nguyên; cha giết 2 con rồi tự sát tại Nam Định; chồng đánh vợ gẫy 8 xương sườn, chấn thương sọ não tại Hạ Long (Theo phununews.vn).

Thứ hai, bạo lực ở học đường: Theo số liệu thống kê đầu năm 2015 của Bộ GD&ĐT, trong một năm học, toàn quốc xảy ra khoảng 1.600 vụ học sinh đánh nhau ở cả trong và ngoài phạm vi nhà trường, tương đương khoảng 5 vụ đánh nhau trong một ngày. Nguyên nhân xẩy ra bạo lực có đôi khi không đáng là gì. Chẳng hạn: Vì viết sai chính tả, một học sinh lớp 1 bị cô giáo đánh tím mặt; vì thiếu 5 nghìn đồng “nộp tô”, một nam sinh cấp 2 bị đánh hội đồng dã man; 6 nam sinh bị giáo viên đánh chỉ vì một cái ghế gãy; 6 nữ sinh lớp 9 Trường THCS Quỳnh Long đánh 2 nữ sinh Trường THCS Quỳnh Thuận, Quỳnh Lưu, Nghệ An bằng dép, tát và đối phương dùng chân đạp liên tiếp vào người đối phương như phim hành động (theo dantri.com).

Thứ ba, bạo lực tại các đồn công an: Những năm gần đây người ta thường đồng hóa công an với côn đồ. Bởi vì, công an giả dạng côn đồ hay côn đồ được công an bảo kê để đi đánh người dân. Mặt khác, nhiều người dân được mời đến trụ sở công an, rồi bị đánh cho đến trọng thương, thậm chí bị đánh cho đến chết: Vụ 5 công an dùng nhục hình gây chết người ở Phú Yên; Nam Sinh Tu Ngọc Thạch (14 tuổi, học sinh lớp 9) bị công an đánh chết tại trụ sở công an xã Vạn Long, huyện Vạn Ninh, Tỉnh Khánh Hòa…
Ngoài ra, bạo lực còn xảy ra nơi mọi môi trường chúng ta đang sống: trên đường đi, nơi làm việc, nơi quán ăn nhậu, nơi quán cà phê…Chẳng hạn như: Bảo vệ dân phố sát hại bé trai 6 tuổi ở Sài Gòn; nam thanh niên sát hại người tình tại Royal City - Hà Nội; bé trai 6 tuổi tử vong với nhiều vết thương trên người ở Quảng Bình; nam thanh niên bị đâm chết khi đi dự đám cưới tại Nghĩa Đàn, Nghệ An; nam thanh niên giết người vì đèn pha xe mấy dõi vào mặt ở Nghĩa đàn… (theo kenh14.vn).

Chúng ta phải có thái độ nào trước bạo lực? Chúng ta hãy học gương của các Tông đồ, các thánh Tử đạo và đặc biệt gương của Đức Giêsu, các Ngài không bao giờ chủ trương bạo lực, các Ngài còn lên án bạo lực và khi đứng trước bạo lực mà con người gây ra cho các Ngài, các Ngài vẫn bình tĩnh và chấp nhận theo thánh ý Thiên Chúa. Với Đức Giêsu, trước khi bước vào cuộc khổ nạn, Ngài đã cầu nguyện rằng: “Lạy Cha, xin cất cho con khỏi chén đắng này, nhưng đừng theo ý con một làm theo ý Cha”. Thái độ của Đức Giêsu trước bạo lực cũng được diễn tả trong bài đọc I hôm nay: Người tôi tớ đau khổ ở đây chính là Ngài; Ngài chấp nhận sự bách hại, tra tấn, phỉ nhổ, cô đơn; Ngài nhịn nhục chịu đựng, không dùng bạo lực chống lại bạo lực; đặc biệt, Ngài tin tưởng phó thác vào Thiên Chúa là Đấng sẽ đến giải thoát mình.
Còn chúng ta thì sao? Chúng ta có chủ trương bạo lực không? Hãy xét lại thái độ sống của chúng ta đối với những người thân trong gia đình, với bà con làng xóm láng giềng, với bạn bè và đồng nghiệp nơi chúng ta làm việc và với mọi người chúng ta gặp gỡ. Có khi nào chúng ta dùng bạo lực để giải quyết các vấn đề không? Chồng có dùng bạo lực đối với vợ không? Vợ có dùng bạo lực đối với chồng không? Cha mẹ có dùng bạo lực với con cái không? Con cái có dùng bạo lực đối với cha mẹ không? Anh chị em có dùng bạo lực đối với nhau không?
ãy quyết tâm: Không được gây ra bạo lực; không được dùng bạo lực để chống lại bạo lực; hãy xây dựng sự hòa thuận trong gia đình và các mối tương quan bằng cách sống hiền lành và khiêm nhường.
Thánh Phanxico Salesio có bẩm tính rất nóng nảy, họ hàng bè bạn ai cũng biết thế …
Một hôm, có người đến Toà Giám Mục Annecy để thăm thánh nhân. Trong câu chuyện trao đổi hai bên, ông ta nhiều lần lớn tiếng cãi vã, đấm bàn đấm ghế, chỉ trích phê bình và mắng nhiếc thánh nhân thậm tệ. Thế nhưng, thánh Phanxicô vẫn cứ ngồi nghe cách thinh lặng, thỉnh thoảng lại nhã nhặn mời ông khách xơi trà, hút thuốc. Trước những câu nói nặng nề xấc láo, thánh nhân vẫn đáp lại bằng những lời lẽ hết sức dịu dàng, khiến ông khách qúy bắt đầu cảm thấy thẹn thùng rồi từ từ rút lui.
Người anh của thánh nhân ngồi ở phòng sau chăm chú theo dõi câu chuyện hai bên. Khi người khách vừa ra khỏi cổng, ông phóng ngay ra phòng thánh nhân và lạ thay…. Phanxicô vẫn tươi cười bình tĩnh! Ông liền nói:
- Nè, chú Phanxicô, xưa nay chú tính nóng như lửa, sao độ này lại hiền từ nhịn nhục đến thế? Tôi ở phòng sau nghe lão ta nói mà sốt ruột lộn gan, muốn nhào ra đánh một trận cho vỡ mặt hắn ra. Ðồ lếu láo mất dạy!
- Anh à, ai cũng có máu Adong cả. Em cũng bực tức xung giận lắm, nhưng em cố gắng theo gương Chúa Giêsu, hiền lành và khiêm nhường trong lòng. Cứ mỗi dịp như vừa rồi, em lại tập thêm được một chút ít bằng cách tự bảo: này hỡi Phanxicô, hãy đậy kỹ vung, đừng mở, đừng nói gì ráo! Cuối cùng em thấy rằng: lấy một giọt mật, bắt được cả bầy ruồi; chứ lấy cả thùng giấm, chẳng tóm được một con. (Trích: chuyện ĐHY Fx Nguyễn Văn Thuận kể)
Lạy Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường xin uốn lòng chúng con nên giống Chúa.

Lm. Anthony Trung Thành


Vài Tin Đáng Chú Ý
NHÂN DÂN LÀ KẺ THÙ TIỀM TÀNG CỦA ĐẢNG


(Bác sĩ Dương Quỳnh Hoa)
-Bạn lớn lên và được nghe rằng nhà cầm quyền của bạn là điều tuyệt vời nhất từ trước đến nay—nhà cầm quyền chiến đấu vì nhân dân, bảo vệ nhân dân và luôn biết điều gì là tốt nhất. Bạn đã được dạy phải yêu mến các nhà lãnh đạo và tin vào mọi điều họ nói, giống như mọi người xung quanh bạn. Nhưng giờ đây, bạn nghe một đảng viên cao cấp nói điều gì đó kỳ lạ:
“Trong chiến tranh, chúng ta sống trong trái tim của nhân dân. Ngày nay, khi quyền lực nằm chắc trong tay Đảng, Đảng coi nhân dân là kẻ thù tiềm tàng”. Bác sĩ Dương Quỳnh Hoa.
Thoạt đầu, điều này có vẻ khó hiểu. Làm sao Đảng, vốn tuyên bố chiến đấu vì nhân dân, giờ đây lại coi họ là mối đe dọa? Hãy cùng phân tích.

1. CHIẾN TRANH LÀ THỜI KỲ ĐOÀN KẾT

Trong chiến tranh, đặc biệt là chiến tranh cách mạng, Đảng cần sự ủng hộ của nhân dân. Các nhà lãnh đạo nói với mọi người rằng, “Chúng tôi chiến đấu vì các bạn, vì công lý, vì một tương lai tốt đẹp hơn!” Mọi người tin vào sự nghiệp, hy sinh vì nó và coi Đảng là anh hùng của họ. Đảng sống trong trái tim họ vì họ tin tưởng và sẵn sàng tuân theo nó. Nhà cầm quyền và người dân được cho là cùng chung một chiến tuyến chống lại kẻ thù chung.

2. KHI ĐÃ NẮM QUYỀN, ĐẢNG KHÔNG CÒN CẦN ĐẾN LÒNG TIN ĐÓ NỮA

Nhưng khi chiến tranh kết thúc và Đảng nắm toàn quyền kiểm soát, mọi thứ đã thay đổi. Bây giờ, thay vì cần sự ủng hộ của người dân để chống lại kẻ thù, Đảng cần phải tiếp tục kiểm soát cai trị đất nước. Và chỉ còn lại một mối đe dọa thực sự - chính là người dân.

Hãy nghĩ về điều này: Khi một nhà cầm quyền có quyền lực tuyệt đối, họ không muốn người dân đặt câu hỏi hoặc đòi hỏi sự công bằng. Nếu người dân nhận ra rằng họ không nhận được những gì đã hứa, họ có thể bắt đầu phản kháng. Điều đó thật nguy hiểm đối với một nhà cầm quyền độc tài độc đảng muốn duy trì quyền kiểm soát mãi mãi. Vì vậy, thay vì đối xử với người dân như bạn bè, Đảng bắt đầu đối xử với họ như những kẻ thù tiềm tàng - những người có thể nổi dậy chống lại họ.

3. NỖI SỢ HÃI THAY THẾ CHO LÒNG TIN

Đảng từng truyền cảm hứng hy vọng giờ đây cai trị bằng nỗi sợ hãi. Những người từng được ca ngợi là anh hùng có thể đột nhiên bị coi là kẻ gây rối nếu họ đặt quá nhiều câu hỏi. Nhà cầm quyền bắt đầu giám sát công dân của mình, hạn chế quyền tự do của họ và phát tán tuyên truyền để đảm bảo họ không bao giờ thách thức quyền lực của mình.

Đây là lý do tại sao tuyên bố của đảng viên cao cấp lại tiết lộ nhiều điều như vậy. Nó phơi bày một sự thật mà hầu hết các nhà cầm quyền như thế này không muốn mọi người hiểu: họ không coi bạn là công dân có quyền—họ coi bạn là đối tượng phải bị kiểm soát.

TẠI SAO ĐIỀU NÀY LẠI XẢY RA?

Bởi vì một hệ thống dựa trên quyền lực toàn diện được xây dựng trên sự dối trá. Đảng có thể đã bắt đầu bằng cách hứa hẹn bình đẳng và công lý, nhưng ngay khi giành được quyền kiểm soát hoàn toàn, mục tiêu thực sự của họ đã trở nên rõ ràng: giữ quyền lực đó bằng mọi giá. Và để làm được điều đó, họ phải khiến người dân tuân thủ, sợ hãi và chia rẽ.

Câu trích dẫn này là một lời cảnh báo: Khi một nhà cầm quyền ngừng sợ kẻ thù bên ngoài, họ bắt đầu sợ chính người dân của mình. Và khi điều đó xảy ra, TỰ DO biến mất và Đảng cai trị thông qua giám sát, kiểm duyệt và vũ lực—giống như trong tác phẩm 1984 hoặc Trại súc vật của Orwell.

Bây giờ, câu hỏi thực sự là: Làm sao bạn biết được nhà cầm quyền của bạn vẫn còn sống trong lòng người dân hay đã bắt đầu đối xử với họ như kẻ thù?


ÔNG KHAI TRÍ


-Ở trại tù Z30C Hàm tân vào mỗi buổi sáng, những người tù đợi đi lao động, nhưng sớm hơn có một ông già lúc nào cũng với bộ quần áo trắng đã ngã màu cháo lòng, đẩy chiếc xe cải tiến chứa phân bắc của tù nhân đem đi.
Sáng nào cũng vậy, ít ai biết ông là ai?
Người Sài gòn gọi ông là ông Khai Trí( theo tên nhà sách, nhà xuất bản mà ông làm chủ)
Hết sức quảng bác nhưng ông lại ít nói về mình, nên ít người biết ông chính là tấm gương sống động:
"Từ hai bàn tay trắng trở thành người kinh doanh ngành sách lớn nhất và uy tín nhất ở miền nam."

Ông Khai Trí tên thật là NGUYỄN HÙNG TRƯƠNG, sinh năm 1926 tại Thủ đức.
Thuở nhỏ, ông thường nhịn ăn sáng, dùng 2 đồng xu mẹ cho để mua báo đọc.
Lên Sài Gòn học trung học ở Petrus Ký, ông được sắm cho chiếc xe đạp cũ để cuối tuần đạp về nhà , đầu tuần trở lên với món tiền đủ để tiêu xài tiện tặn trong tuần .
Nhưng cứ mỗi chiều thứ hai là ông tiêu sạch số tiền đó vào sách báo, rồi cả tuần nhịn ăn sáng, uống nước lã cho đỡ đói.
Sách ông mua hầu hết là sách báo nước ngoài.

Vào thập niên 1940, ông đã gầy dựng một tủ sách có giá trị.
Bạn bè đến chơi thấy ông có nhiều sách hay thường nhờ ông mua dùm.
Có lần chỉ 5 người nhờ, nhưng ông mua đến 10 cuốn để được hưởng 30% hoa hồng.
Số sách dư ra ông đem ký gửi ở quán sách. Ba hôm sau người chủ quán hỏi ông loại đó còn không? nếu còn thì đem tới tiếp vì số sách trước đã bán hết sạch rồi.
Từ đó ông nảy ra ý định, mua sách báo ở nước ngoài về bán, lúc đầu mua mỗi thứ vài chục cuốn, thấy bán chạy ông mới tăng số lượng lên, có khi cả ngàn cuốn.
Nhờ cố gắng làm việc, không quản khó khăn, tiết kiệm từng đồng nên đến năm 1952, ông đã đủ vốn để mở một hiệu sách nhỏ tại số 62 đại lộ Bonard (nay là Lê Lợi)... đặt tên là Nhà sách KHAI TRÍ.

Nhà sách KHAI TRÍ, đây là nhà sách đầu tiên ở VN bán hàng theo kiểu tự chọn.
Khách có thể đứng đọc tại chổ hàng giờ rồi đi ra mà không phải mua.
Mỗi nhân viên bán hàng mặc đồng phục, lúc nào cũng vui vẻ ân cần, trông nom một cách kín đáo, những điều này hiện nay được áp dụng ở một số hiệu sách nhưng vào thời điểm đó thì quá mới mẻ và rất được khách hàng ủng hộ, nhờ vậy mà sau đó nhà sách được mở rộng thêm 2 căn liền kề với nhiều tầng lầu .
Nhà sách KHAI TRÍ còn phụ trách cả việc xuất bản với những đầu sách được chọn lựa kỹ càng và phong phú.
Một thú chơi đặc biệt của ông nửa là sưu tầm sách báo, chỉ riêng tờ báo Pháp ngữ Le Monde, ông có từ số đầu tiên cho tới số... của ngày 30/4/75).
Ông còn cùng nhà văn NHẬT TIẾN chủ trương ra tuần báo THIẾU NHI và là tác giả của nhiều đầu sách có giá trị.

Riêng trong khoảng 10 năm từ 1993 đến 2003, ông đã tuyển chọn và biên soạn khoản 15 cuốn sách:
- Thơ tình VN và thế giới chọn lọc
- Quê em mến yêu
- Làm con nên nhớ
- Chánh tả cho người miền nam
- Huế mến yêu
- Những bài thơ hay trong văn chương VN v.v…

(Theo Phạm Bích Nga - Sài Gòn Kỷ Niệm)


CHỮ TARIFF VIỆT CỘNG DỊCH RA TIẾNG VIỆT SAI..!!


-Gần đây nhiều người đều nghe và thấy chữ tiếng Anh là TARIFF trên Báo Chí, Truyền Hình, Truyền Thanh và Youtube. Chữ TARIFF này đã được các đỉnh cao của ngành Truyền thông Báo Chí nhà nước thổ tả Xã Hội Chủ Nghĩa VN lại dịch là THUẾ QUAN. Các truyền thông, Youtuber và Facebook kể cả những người Việt ở hải ngoại cũng hùa theo xử dụng hai chữ Thuế Quan mà họ cũng không hiểu Thuế Quan là nghĩa gì ?
(TARIFF : a tax or duty to be paid on a particular class of imports or exports) Trong tự điển Anh Việt của Giáo sư Nguyễn Văn Khôn chữ TARIFF là “ Định Thuế xuất nhập cảng hàng hóa” Phải hiểu chữ TARIFF này là Thuế Mậu Dịch Xuất Nhập Cảng hàng hóa, chúng ta có thể gọi ngắn gọn cho dễ hiểu là Thuế Mậu Dịch.
Còn hai chữ Thuế Quan thì không có trong các Tự Điển Việt Nam. Trước năm 1975 không có ai nghe hai chữ Thuế Quan và cũng không biết hai chữ Thuế Quan. Dân miền Nam chỉ biết đơn thuần hai chữ Thuế Vụ (Tax) Thuế Nhà, Thuế Đất hay Thuế Lợi Tức…
Việt Cộng tưởng đưa ra 2 từ ngữ ngược ngạo THUẾ QUAN mới sáng chế ra đó cốt ý chứng tỏ ta là văn minh tài giỏi, nhưng thật ra là tự khoe cái Dốt về văn hóa.

Riêng về hai chữ Quan Thuế (Custom) tức là nhân viên Quan Thuế Phi cảng, hoặc nhân viên Quan Thuế Hải cảng, kiểm soát hành lý của khách đi máy bay hoặc tàu thủy. Sau 1975 thì Việt cộng xóa bỏ 2 chữ Quan Thuế thay vào đó là hai chữ tào lao Hải Quan. Phi cảng và Hải cảng đều gọi là Hải Quan. Nói tóm lại chữ TARIFF mà dịch là THUẾ QUAN, dịch bá láp SAI BÉT…. Tôi xin nêu ra để quý vị giúp thêm ý kiến và gìn giữ tiếng Việt thêm phong phú và thanh tao. Cám ơn nhiều.


Tháng 4 Đen
BÓC TRẦN SỰ THẬT VỀ ĐỊA ĐẠO CỦ CHI – CÂU CHUYỆN PHẢN BIỆN DỰA TRÊN TÀI LIỆU, NHÂN CHỨNG VÀ SỰ THẬT LỊCH SỬ…


-Trong nhiều thập niên qua, địa đạo Củ Chi đã được Hà Nội tô vẽ như một biểu tượng bất khả chiến bại của "lòng yêu nước, ý chí cách mạng và sự sáng tạo thần kỳ". Các phái đoàn quốc tế, du khách, sinh viên, học sinh được đưa tới tham quan như một "bằng chứng sống" về chiến thắng của du kích cộng sản trước quân đội Hoa Kỳ. Tuy nhiên, những ai từng chiến đấu tại chiến trường này, những người từng đổ máu, đổ mồ hôi giữa vùng đất Củ Chi, lại mang một ký ức rất khác – một ký ức không phải được kể bằng ống kính quay phim tuyên truyền, mà bằng mảnh đạn, bằng khói B52 và xác người vùi trong đất đỏ.
Tài liệu "2000 Ngày Đêm Trấn Thủ Củ Chi" của Dương Đình Lôi và hồi ký Xuân Vũ là một trong những tiếng nói hiếm hoi từ chính những người đã từng sống trong lòng địa đạo và trên chiến trường này. Trong đó, tác giả thẳng thắn vạch trần những chiêu trò tuyên truyền sai lệch của Hà Nội.

1. Địa đạo không phải là mạng lưới kỳ vĩ và bất khả xâm phạm như tuyên truyền.
Các tài liệu tuyên truyền của Hà Nội thường tuyên bố địa đạo dài tới 200 dặm (tương đương 320km), thông suốt các xã, tạo thành "vòng đai thép" quanh căn cứ Đồng Dù. Tuy nhiên, chính Dương Đình Lôi – người từng trấn thủ Củ Chi suốt 2000 ngày đêm – khẳng định địa đạo chỉ tồn tại được ở một vài xã có nền đất cao như Phú Mỹ Hưng, An Phú, An Nhơn, Nhuận Đức và Phú Hòa Đông. Những khu vực còn lại là đồng ruộng ngập nước không thể nào đào địa đạo.
Danh sách các đoạn địa đạo còn ghi nhận được chỉ ngắn vài trăm mét, như Bến Dược (200m), Hố Bò (200m), Bến Mương (100m), Góc Chàng (500m)... chứ không có hệ thống nào dài hàng trăm cây số. Không hề có tuyến địa đạo nào "bao vây Đồng Dù", càng không thể nghe nhạc Bob Hope từ dưới lòng đất như các tài liệu tuyên truyền từng bịa đặt.

2. Điều kiện sinh tồn trong địa đạo cực kỳ khắc nghiệt.
Các miệng địa đạo chỉ vừa đủ một người chui lọt, thiếu không khí, ẩm thấp, nhiều loài bò sát, rắn rết, chuột bọ. Một người khoẻ mạnh chỉ cần ở dưới đó vài giờ là choáng váng vì thiếu oxy, chứ đừng nói đến việc giải phẫu thương binh như tài liệu Hà Nội từng tuyên bố. Dương Đình Lôi kể lại rằng, chỉ cần một người phụ nữ có kinh nguyệt ở dưới địa đạo cũng có thể khiến cả hầm ngộp vì mùi hôi. Việc vệ sinh, phóng uế, xử lý vết thương... dưới địa đạo là điều gần như không thể.

3. Địa đạo từng là mồ chôn tập thể khi bị B52 cày nát.
Các tài liệu quân sự Hoa Kỳ như trong chiến dịch Cedar Falls (1967) và Junction City (1967) đã ghi rõ việc sử dụng bom B52 rải thảm xuống vùng Tam Giác Sắt, trong đó có Củ Chi. Một trái bom B52 có thể tạo hố sâu tới 11 thước, hoàn toàn phá huỷ bất kỳ hệ thống hầm ngầm nào bên dưới. Trong một trận pháo kích, một đoạn địa đạo tại An Nhơn bị sập, vùi chết nguyên ban tham mưu quận – không ai cứu nổi. Sau đó, Quân khu ủy IV ra lệnh cấm cán bộ chui xuống địa đạo vì "xuống đó là chết".

Tài liệu từ Quân sử Hoa Kỳ và báo cáo chiến dịch của Bộ chỉ huy MACV (Military Assistance Command, Vietnam) đã xác nhận hiệu quả tàn phá của B52 tại vùng Củ Chi. Lính Mỹ mô tả vùng này là "chảo bom", nơi mọi gốc cây đều bị san bằng, không có nơi nào đủ an toàn để lẩn trốn.

4. Nhiều nhân vật được tuyên dương là anh hùng chiến đấu trong địa đạo thực chất không hề có mặt hoặc không hề chiến đấu như thế.
Một số người như "thiếu tá Năm Thuận", "thiếu tá Quợt" hay thậm chí ông Võ Văn Kiệt được tuyên truyền là từng chỉ huy chiến đấu trong địa đạo. Tuy nhiên, theo lời kể của người trong cuộc, họ chỉ nương náu vài ngày, hoặc như Năm Thuận chỉ làm lính lãi, còn Quợt thì nổi tiếng... són ra quần mỗi khi xuống hầm.
Các nhân chứng như Dương Đình Lôi, từng chỉ huy Tiểu đoàn Quyết Thắng, khẳng định không ai có thể "chiến đấu suốt 10 năm trong địa đạo" như lời tuyên truyền. Địa đạo không phải là hầm lầu có máy lạnh, mà là nơi tạm lánh lúc nguy cấp, và sau năm 1967 đã trở thành tử địa.

5. Địa đạo được khai thác thành phim ảnh, du lịch để tô vẽ lịch sử.
Từ năm 1985, theo lời kể, nhiều đoạn hầm đã được đào lại bằng máy cày, được làm rộng ra để phục vụ quay phim và đón du khách. Báo cáo của phái đoàn du lịch Hoa Kỳ, các bài viết của ký giả phương Tây (như Neil Sheehan, Stanley Karnow) và cả các đoạn video của CNN đã ghi lại việc một số khu địa đạo được tái thiết để phục vụ mục đích tham quan, không còn giữ nguyên bản chất ban đầu.

6. Chính Hà Nội cũng từng dùng địa đạo để tuyên truyền nội bộ.
Trong các báo cáo nội bộ, như tài liệu của Ban Tuyên giáo Trung ương năm 1979, đã thừa nhận việc "huy động truyền thông, hình ảnh địa đạo Củ Chi để làm biểu tượng chiến thắng và kích động lòng yêu nước trong nhân dân". Nghĩa là ngay cả phía cộng sản cũng hiểu rằng địa đạo là công cụ tuyên truyền chứ không hẳn là phương tiện chiến đấu thực sự.

7. Ghi nhận từ phía Mỹ và nhân chứng độc lập.
Bản đồ và báo cáo từ Lữ đoàn 25 Bộ binh Hoa Kỳ (25th Infantry Division), đóng tại Đồng Dù, xác nhận các trận càn lớn năm 1966–1968 đã san bằng gần như toàn bộ khu vực Củ Chi, và không phát hiện hệ thống địa đạo quy mô như tuyên truyền.
Phóng viên chiến trường như Peter Arnett, David Halberstam đều mô tả Củ Chi là vùng "nội bất xuất ngoại bất nhập", nơi bất kỳ hầm hố nào lộ diện đều bị pháo bầy, napalm hoặc bom 7 tấn ném xuống.

Cựu phóng viên Wilfred Burchett, mặc dù thân cộng, từng bị Hà Nội từ chối cho xuống hầm vì... quá to, và sau đó bị trì hoãn mãi không được xem địa đạo thực. Một dấu hiệu rõ rệt rằng địa đạo lúc ấy không còn tồn tại đúng như lời tuyên truyền.
Địa đạo Củ Chi từng là một biện pháp trú ẩn chiến thuật trong giai đoạn đầu của chiến tranh, tại một vài khu vực có địa hình phù hợp. Tuy nhiên, từ sau năm 1966–1967, khi không quân Hoa Kỳ triển khai chiến thuật rải thảm B52, địa đạo đã mất hoàn toàn hiệu quả và trở thành nấm mồ tập thể cho hàng trăm cán binh.
Việc Hà Nội tiếp tục khai thác địa đạo như một biểu tượng tuyên truyền không chỉ bóp méo sự thật lịch sử mà còn xúc phạm đến hàng ngàn người đã chết oan trong lòng đất đỏ. Đã đến lúc cần nhìn lại và đối diện với sự thật. Không phải để bôi nhọ ai, mà để lịch sử Việt Nam được viết lại bằng sự thật, chứ không bằng khói pháo và phim ảnh dựng lại sau chiến tranh.

(Thuy Trang Nguyen)

ĐẾN PHIÊN CU BA THỨC VIỆT NAM NGỦ

-Bạn lớn lên ở một đất nước mà nhà cầm quyền kiểm soát mọi thứ bạn nhìn thấy, nghe thấy và học được. Họ nói với bạn rằng cuộc sống ở đây là tốt nhất, rằng các nhà lãnh đạo khôn ngoan và tử tế, và bất kỳ ai không đồng ý đều là kẻ phản động. Nhưng nếu tôi nói với bạn rằng các thủ đoạn tương tự được xử dụng để tẩy não bạn cũng đã được xử dụng ở các quốc gia khác, như Cuba thì sao? Chúng ta hãy cùng phân tích nhé.
Tuyên truyền của Cuba so với Việt Nam: Hai quốc gia khác nhau, cùng một chiến thuật
Mặc dù Việt Nam và Cuba ở hai phía đối diện của thế giới, nhưng nhà cầm quyền cộng sản của họ lại xử dụng tuyên truyền gần như giống hệt nhau. Tại sao? Bởi vì cả hai đều tuân theo cùng một công thức để kiểm soát suy nghĩ của mọi người và bảo vệ những người nắm quyền.

1. TẠO RA KẺ THÙ CHUNG: “NƯỚC MỸ GIÃY CHẾT LÀ MỐI ĐE DỌA CỦA CHỦ NGHĨA XÃ HỘI”
• Ở Việt Nam, bạn được cho biết rằng nước Mỹ là kẻ thù số một, rằng nước này đã phá hủy đất nước và rằng chủ nghĩa tư bản là tàn ác và bất công.
• Ở Cuba, nhà cầm quyền liên tục đổ lỗi cho nước Mỹ (cụ thể là Miami và những người Cuba lưu vong) về mọi vấn đề thất bại của nước này.
Nhưng đây là mánh khóe:
• Cả hai nhà cầm quyền đều dùng nước Mỹ làm vật tế thần để bất cứ khi nào có điều gì đó không ổn (nghèo đói, thất nghiệp, thiếu thốn, áp bức), mọi người đổ lỗi cho kẻ thù bên ngoài thay vì chất vấn chính những nhà lãnh đạo của họ.
• Trong khi đó, giới tinh hoa Việt Nam và Cuba bí mật gửi con cái của họ đi du học ở Hoa Kỳ, mua nhà sang trọng ở đó và thậm chí cất tiền trong các ngân hàng Hoa Kỳ. Nếu nước Mỹ tệ đến vậy, tại sao họ lại cố gắng đến đó?

2. TẨY NÃO THÔNG QUA GIÁO DỤC VÀ TRUYỀN THÔNG
• Ở Việt Nam, sách lịch sử tập trung vào cách những người cộng sản "giải phóng" đất nước. Miền Nam được miêu tả là yếu đuối và tham nhũng, và những người trốn thoát được mô tả là những kẻ phản động.
• Ở Cuba, trường học dạy rằng Fidel Castro là một anh hùng đã cứu đất nước, và bất kỳ ai rời đi (lưu vong) đều là những kẻ hèn nhát tham lam đã bỏ rơi người dân của họ.
Mục tiêu là như nhau: kiểm soát lịch sử để nhà cầm quyền trông giống như một vị cứu tinh và những người chỉ trích nhà cầm quyền trông giống như những kẻ phản diện.

3. CHẾ GIỄU NHỮNG NGƯỜI TRỐN THOÁT
Cả Việt Nam và Cuba đều có lịch sử lâu dài về việc chế giễu những người tị nạn và lưu vong để che giấu sự thật rằng mọi người chạy trốn vì nhà cầm quyền thất bại, không muốn làm mà muốn có ăn.
• Ở Việt Nam, những người đi thuyền được gọi là “lưu vong” (người lưu vong) và “khát nước” (người mất quê hương). Nhà cầm quyền chế giễu họ như thể họ đã thất bại và hối hận vì đã rời đi.
• Ở Cuba, những người lưu vong được gọi là “gusanos” (giun), ám chỉ rằng họ vô dụng và hèn nhát.
Nhưng nếu nhà cầm quyền thực sự tự tin vào “vinh quang vĩ đại” của mình, tại sao họ lại quan tâm đến những người đã rời đi? Sự thật là, các chế độ độc tài độc đảng rất sợ những người lưu vong vì họ là nhân chứng sống chứng minh rằng cuộc sống dưới chế độ cộng sản tồi tệ đến mức mọi người thà liều mạng để trốn thoát.

4. NHỮNG LỜI HỨA SUÔNG VỀ BÌNH ĐẲNG
• Ở Việt Nam, bạn được dạy rằng chủ nghĩa xã hội mang lại bình đẳng và mọi người đều được đối xử công bằng. Nhưng trên thực tế, các quan chức Đảng sống trong những dinh thự, biệt phủ nguy nga trong khi người dân thường phải đấu tranh vất vã trong những phòng trọ chật hẹp.
• Ở Cuba, nhà cầm quyền nói rằng mọi người đều bình đẳng, nhưng các đảng viên lái xe sang trong khi người dân Cuba trung bình phải xếp hàng hàng giờ chỉ để mua thức ăn.
Họ bán cho bạn giấc mơ về sự bình đẳng, nhưng thực tế, có một nhóm tinh hoa cầm quyền nhỏ bé nắm giữ toàn bộ của cải trong khi người dân phải chịu đau khổ.

5. TẠI SAO BÂY GIỜ SỰ ĐẠO ĐỨC GIẢ NÀY LẠI RÕ RÀNG ĐẾN NHƯ VẬY?
Trước đây, tuyên truyền có hiệu quả vì mọi người không được tiếp cận thông tin bên ngoài. Nhưng ngày nay, với internet, mọi người có thể nhìn thấu những lời nói dối.
• Ở Việt Nam, ngay cả các quan chức nhà cầm quyền cấp cao cũng đang bí mật mua thẻ xanh của Hoa Kỳ trong khi chế giễu những người đã rời đi.
• Ở Cuba, con cái của các nhà lãnh đạo cộng sản sống huy hoàng ở Miami trong khi người dân Cuba bình thường vẫn mắc kẹt trong cảnh nghèo đói.
Nếu chủ nghĩa cộng sản thực sự vượt trội, tại sao những người giàu có và quyền lực lại cố gắng trốn sang các nước tư bản?

BỨC TRANH TOÀN CẢNH: TẠI SAO HỌ VẪN TIẾP TỤC NÓI DỐI?

Câu trả lời rất đơn giản: QUYỀN LỰC.
• Nếu mọi người biết sự thật, họ sẽ đòi hỏi sự thay đổi.
• Nếu mọi người hiểu rằng cuộc sống tốt đẹp hơn ở các quốc gia tự do, họ sẽ ngừng tin vào những lời dối trá.
• Vì vậy, nhà cầm quyền cứ lặp đi lặp lại cùng một tuyên truyền, hy vọng rằng mọi người vẫn sẽ mù quáng, vẫn sẽ nghèo đói và vẫn sẽ ngoan ngoãn.
Cách duy nhất để thoát khỏi sự ràng buộc là đặt câu hỏi về mọi thứ, suy nghĩ một cách phê phán và nhìn thấu ảo tưởng. Khi bạn làm được điều đó, bạn sẽ nhận ra rằng những kẻ phản bội thực sự không phải là những người đã rời đi—mà là những kẻ vẫn nắm quyền và ăn cắp của người dân.

Không có nhận xét nào: