Trung Tâm Huấn Luyện Hải Quân Nha Trang
Biết ra, anh là lính Hải Quân của Trung Tâm Huấn Luyện Hải Quân Nha Trang, cấp bậc Thượng sĩ, phụ trách tiếp liệu. Lần này tôi có dịp ngắm kỹ anh. Khuôn mặt chữ điền, trán cao, mái tóc đen, dầy, buông dài xuống gáy. Mũi thẳng, miệng rộng. Nét rắn rỏi và cương nghị vẫn còn sót lại trên khuôn mặt hốc hác. Lưỡng quyền nhô cao, hai má lõm vào trông anh già sọm trước tuổi. Thần hình cao nhòng ốm teo, đôi cánh tay gầy gò, hai bàn tay khô héo, xương xẩu. Tuy nhiên đôi mắt anh hãy còn tinh anh lắm. Trong khi nói chuyện, thỉnh thoảng, giọng anh trở nên sôi nổi, mắt anh quắc lên như có ánh lửa lóe lên trong đó.
Tôi dè dặt gợi chuyện:
- Anh không bị “cải tạo” sao gia đình không trở về quê quán làm ăn mà ở đây làm chi cho khổ vậy?
Hình như được khơi đúng nguồn u uất nén kín lâu nay, anh tuôn tràn tâm sự:
- Hồi tụi nó mới vô Nha Trang, tụi nó chiếm khu gia binh này ngay, đuổi tất cả chúng tôi về quê quán cũ. Tôi với vợ tôi là dân Bắc di cư 54 làm gì có quê quán mà về. Tôi đã trốn chạy chúng một lần rồi, giờ chạy đi đâu nữa. Không còn chổ ở, chúng tôi phải che chòi ở tạm tại đây chờ thời…và quyết liều chết với chúng môt phen.
- Thời gì? Chờ phục quốc hả? Tôi đùa.
- Chớ sao anh? Mình đâu có bại trận, đâu có đánh đấm gì đâu mà thua tụi nó! Nghĩ lại càng tức! Anh biết không! Mình bỏ chạy một phần cũng vì cái đài BBC chết tiệt đó. Tôi còn nhớ như in.
Hình như bao nhiêu năm nay, anh nhẩm đi nhẩm lại những ngày tháng, giây phút đen tối đó mãi, đến nỗi thuộc lòng. Anh nói thao thao:
- Ngày 11 tháng 3 tuy Ban Mê Thuột bị thất thủ nhưng mặt trận Pleiku – Kon Tum vẫn còn chiến đấu ác liệt với quân Bắc Việt nhưng cái đài khốn nạn này lại loan tin hai tỉnh này đã bị Việt cộng tràn ngập, đường số 7 bị cắt đứt. Tin này làm cho dân chúng hoang mang, đổ xô nhau di tản. Tiếp theo, ngày 19 tháng 3 tỉnh Quảng Trị cũng y chang với cái đài BBC. Tiếp theo đó, mỗi ngày nó loan tin một, hai tỉnh bị mất. Lần lượt các ngày 22, 24, 29, 31 tháng 3, dân chúng từ Quảng Trị chạy ùa vào Thừa Thiên. Thừa Thiên náo loạn bồng bế nhau chạy vào Huế. Rồi đến Quảng Ngãi, Đà Nẵng, Bình Định, Phú Yên, dân chúng nghe đài BBC, nghe tin đồn, cứ thế hoảng hốt kéo nhau chạy trốn. Đám dân di tản cứ tăng lên dần, đông nghịt cả mấy trăm ngàn, đàn bà, trẻ con kêu khóc vang trời, lê thê, lếch thếch đầy đường. Lính mình từ Pleiku, Kon Tum chạy xuống, từ Đà Nẵng chạy vào. Hỗn quân, hỗn quan. Trước tình thế ngày càng rối ren, hỗn loạn như thế mấy ông tướng của mình cũng đành bó tay bất lực, không cách gì giữ gìn trật tự được nữa. Bọn cộng sản cứ thế kéo vào không tốn một viên đạn. Chúng không ngờ lại thắng một cách dễ như vậy.
Có lẽ nỗi lòng bị dồn nén bấy lâu nay gặp được được người đồng cảnh ngộ, anh xả láng cho hả bầu tâm sự mà không một chút e dè, rào đón.
- Lúc ấy anh vẫn còn ở Nha Trang không?
- Còn chớ anh. Ngày 2 tháng 4 tụi nó mới vào Nha Trang nhưng chỉ có vài thằng nhóc con vào thăm chừng thôi chứ xe tăng, thiết giáp chưa dám vào. Chúng đứng gác trước Trung Tâm mà mặt mày xám ngoét. Bọn đi hôi của chở đồ đạc trong Trung Tâm ra lềnh khênh trước mặt mà có dám ngăn chận đâu. Cả hai cái kho gạo ngoài biển cũng bị cướp, phá. Chúng đứng đó mà chỉ giương mắt ra nhìn thôi.
- Sao vậy?
- Có lẽ tụi nó sợ bị lừa vào tròng. Thật ra trước đó một tuần, Nha Trang có lệnh quyết tử thủ. Tiểu khu Nha Trang và các yếu điểm đều dàn trận chờ tụi Vẹm vào. Trung tâm Hải quân cũng xây nhiều lô cốt bằng bao cát, đặt súng trung liên, đại liên, súng cối chung quanh hàng rào phòng thủ quyết đánh một trận. Lính tụi tôi được lệnh ứng chiến 100%, đầy đủ hỏa lực.
- Nhưng có đánh đấm gì đâu? Tôi lúc ấy cũng đang ở Nha Trang đâu có nghe tiếng súng nổ nào?
- Bởi vậy mới tức anh à. Không biết lý do tại sao. Vào ngày 29, 30 tháng 3, dân chúng từ Cao Nguyên tràn về, từ miền Trung ào vô, Nha Trang trở nên lộn xộn vô cùng. Ai nấy đều nhốn nháo không biết tình hình ra sao. Đến khi biết được mấy ông sếp lớn Chỉ huy trưởng ở Tiểu khu, ở Trung tâm Không Quân, Hải Quân đều dzọt mất tiêu hồi nào không hay, bỏ mặc lính tụi tôi ở lại như rắn không đầu thì thiên hạ bắt đầu đại loạn.
- Nghe nói trong Trung tâm có một vị sĩ quan tự sát cùng vợ con chứ không chịu hàng giặc?
- Dạ, Chính là ông Thầy tôi đó anh. Ông ta là Trung tá Hà ngọc Lương, Trưởng Khối Văn hóa vụ. Lúc đó mạnh ai nấy chạy. Ngày 29/3, một chiếc tàu Hải quân 402 cặp trước bãi để bốc toàn bộ gia đình Hải quân Trung tâm đi nhưng lính các binh chủng khắp nơi tràn về, ào xuống bãi tranh nhau lên tàu, có nhiều người toan nổ súng để làm loạn khiến cho chiếc tàu phải rời bến, neo ngoài khơi đảo Trí Nguyên, bỏ lại tất cả mọi người. Ngày 31/3 thêm một chiếc Hải quân 401 cặp bến Cầu Đá cũng gặp cảnh hỗn loạn tương tự nên đành kéo neo bỏ đi. Trên bến cảng, xe hơi, xe gắn máy đủ loại bỏ ngổn ngang, súng ống vất lại bừa bãi, la liệt. Một quang cảnh trông thật điêu tàn, ghê rợn. Gia đình Trung tá không thể xuống tàu di tản theo đơn vị.
Đêm ấy ông đã cùng vợ và hai con tự sát trong văn phòng làm việc của mình. Mãi đến 5 ngày sau bọn Việt cộng mới dám xâm nhập vào Trung tâm Hải quân và phát hiện ra thi thể của gia đình Trung Tá. Lúc ấy tử thi đã bốc mùi rồi.
- Ngay lúc Trung tá Lương tự sát anh có biết không?
- Không! Lúc đó lính tụi tôi tản lạc hết. Trung tâm bỏ trống mà. Mãi sau này tôi mới nghe kể lại. Rồi có ngày tôi sẽ trả thù cho ông Thầy. Nhất định phải trả thù.
- Anh làm cách nào mà trả thù?
- Một mạng tôi đổi mười mạng, hai mươi mạng tụi nó!
- Anh nói chơi hay nói thật?
- Thật mà chơi! Chơi mà thật đó anh!
Anh ta nói xong cất tiếng cười to há há nghe sảng khoái và ngang tàng lắm. Tôi cũng cười theo cho vui chứ thâm tâm không nghĩ gì về lời của anh. Chẳng qua chỉ là một cách để xả xú bắp cho hả hơi.Trong lúc lắp ruột xe vào vỏ, anh tiếp tục kể về cuộc sống mấy năm nay của anh ở đây. Anh không có hộ khẩu nên không được cấp tem phiếu để mua gạo, thực phẩm. Tất cả nhu cầu đời sống phải mua “chui” bên ngoài giá rất đắt. Anh đã làm đủ thứ việc như lên rừng đốn củi, đốt than một thời gian. Chúng ra lệnh cấm. Phải xuống chợ xin khuân vác, đạp xe ba gác chở mướn… nhưng vẫn không đủ sống. Làm được đồng nào xào đồng nấy qua ngày. Nghề cuối cùng là ôm thùng đồ nghề sửa, vá xe đạp. Có hôm không có khách sửa xe, không tiền mua gạo, phải húp cháo loãng. Bị đưa đi “kinh tế mới” Nhiễu Giang, Đồng Trăng mấy lần. Cứ ăn hết gạo cấp 3 tháng, vợ chồng anh lại bỏ vùng để trốn về.
Phường, khóm nhiều lần kêu lên kiểm điểm, hăm dọa bắt đi cải tạo. Anh liều mạng đổ lỳ, trây ra, ù lỳ. Riết rồi phường khóm cũng bỏ lơ. Anh rút được kinh nghiệm là “mình không sợ nó thì nó phải sợ mình”.
Sau lần trò chuyện tâm sự đó chúng tôi trở thành quen biết. Thỉnh thoảng tôi biếu anh bao mạt cửa để dùng. Có chút vậy mà vợ chồng anh cứ cám ơn rối rít. Bù lại khi vá ruột xe hay chữa xe cho tôi anh nhất định không nhận tiền công. Anh cứ xuýt xoa:
-Tội nghiệp cho mấy ông “cải tạo” quá!
Ngày ngày đạp xe ngang qua chòi, chúng tôi giơ tay chào nhau kèm theo nụ cười tương ái. Đôi lúc bánh xe non hơi, tôi ghé vào mượn anh cái bơm, mời anh điếu thuốc. Anh mời ly trà nóng. Lại cùng nhau rỉ rả vài ba chuyện đời.
Anh lại kể cho tôi nghe những thủ đoạn ăn cướp, nói láo của bọn cộng sản như thế nào để cướp bóc tài sản của người dân trong thời gian chúng tôi bị cách biệt trong trại tù, không một chút tin tức nào ngoài đời. Cứ sau mỗi lần trò chuyện, anh lại kết luận một câu bất di bất dịch:
- Anh nên nhớ là bọn cộng sản muôn đời vẫn chỉ là một bọn ăn cướp và nói láo mà thôi. Đừng bao giờ tin nó.
Biết chúng tôi trước là giáo chức, anh khuyên:
- Mấy anh là thầy giáo hiền lành rất dễ tin người nên bị tụi nó lừa ở lại dạy học cho nó. Dạy xong là bắt đi ở tù, bọn chuyên vắt chanh bỏ vỏ mà, còn bị ghép là có nợ máu với nhân dân. Nợ máu gì với mấy ông thầy giáo! Thật là một bọn khốn kiếp, chó đẻ!
Trong những buổi học tập chính sách tại Tổ dân phố, anh thẳng thừng vạch ra những điều dối trá, tiêu cực, tham nhũng, hạnh hoẹ người dân của cán bộ, công an đã làm cho bọn này không sao biện minh được khiến chúng cay cú ghép anh vào tội phản động, nói xấu cách mạng. Mọi người đều lo sợ cho vợ chồng anh. Nhưng anh không hề sợ sệt. Anh bảo
- Chúng kết tội tôi vào thành phần cực kỳ phản động. Mà phản động thật. Phản động ngang nhiên chẳng sợ thằng chó nào. Bất quá chúng bắt bỏ tù hay chết là cùng chứ gì? Sống mà bị áp bức bóc lột khổ hơn chó thì sống làm gì?
Có lần, mấy thằng bộ đội đậu xe tải giăng hàng trước cửa chòi của anh cả buổi để vào ăn uống, nhậu nhẹt trong cửa hàng Quốc doanh gần đó, anh chạy ra quát:
- Chúng mày đưa xe đi chỗ khác ngay, nếu không tao bắn chết hết cả lũ ngay!
Đám bộ đội thấy thái độ cương quyết, ngang tàng của anh cũng đâm ra khiếp phải đưa xe đi chỗ khác.
Hình như cuộc sống anh ngày càng khó khăn. Con đường vào ngã ba trụ cờ thời gian sau ngoại trừ đám cu ly chúng tôi phải đi qua để đến xưởng cưa ra, rất ít có người đi lại con đường này. Có ngày chả có người khách nào lai vãng.
Một hôm tôi ghé lại để mượn ống bơm để bơm thêm ít hơi vào bánh xe sau hơi mềm, anh mời tôi uống nước và nói:
- Có lẽ vài ngày nữa tôi sẽ đi xa khỏi nơi này.
- Anh định đi đâu? Mà sao lại đi? Ở đây không tốt sao?
- Bọn phường khóm buộc chúng tôi phải đi “kinh tế mới”. Lần này hơi gay đây!
Anh trầm ngâm một lúc rồi nói nhỏ:
- Trước khi đi tôi phải cho chúng biết tay mới được!
- Anh lại nói về việc trả thù cho ông Thầy phải không? Tôi cười đùa.
- À! Biết chừng đâu đó! Không biết chúng tôi sẽ đi lúc nào nên chúc cho ông giáo ở lại mạnh khoẻ nhé.
Không ngờ đó lại là lần cuối cùng tôi gặp anh.
Mấy tuần sau đó, vào một buổi sáng đầu tháng 9 năm 1982, như mọi ngày tôi đi làm, gần tới ngã ba trụ cờ, tôi thấy rất đông người tụ tập nhốn nháo ở tại chòi của anh Thanh. Nhiều công an, du kích, bộ đội đang bao vây căn chòi.
Tôi dừng xe hỏi chuyện mấy người dân đứng xa xa. Họ kể:
- Sáng sớm nay bỗng nhiên nghe trong chòi có hai tiếng súng nổ. Được báo tin, hai ông Trưởng, Phó và Ban An ninh Khóm Hoàng Diệu dẫn công an khu vực, du kích đến hiện trường xem xét việc gì đã xảy ra. Khi đến nơi, xô cửa vào, họ thấy chị Tám nằm chết trên giường, máu từ màng tang chảy ra ướt cả vũng. Anh Thanh còn trân trân chưa chết, ngồi dưới đất, lưng dựa vào giường chị Tám, hai mắt mở trừng trừng, tay phải còn cầm chắc khẩu Colt 45. Máu từ hai lỗ tai vẫn còn tiếp tục chảy. Thấy thi thể chị Tám đang nằm sấp, tên Trưởng Ban An ninh đưa tay lật ngửa chị ra để xem xét thì bất ngờ trái lựu đạn nằm ở dưới bụng chị bung ra, nhảy tưng lên, làm cả bọn chúng hết hồn, vừa xô nhau phóng ra khỏi chòi, vừa la lên bài hãi:
- Chết! Chết! Có lựu đạn! Có lựu đạn!
- Nằm xuống mau! Nằm xuống mau!
Hồi lâu quả lựu đạn vẫn chưa nổ nên mọi người phải dạt ra xa để phòng chừng. Còn đám An ninh đang cuống quít gọi điện xin tỉnh cho toán chuyên môn cháy nổ xuống tháo gỡ.
Tôi nghe xong, bàng hoàng, lặng người đi một lúc. Không ngờ lời nói của anh Thanh khi trước, tôi nghĩ là nói cho vui, cho hả nỗi uất hận thôi, đâu ngờ hôm nay lại thành sự thực. Anh đã thực hiện lời nguyền trả thù cho ông Thầy trước khi đi xa. Bỗng nhiên lời anh nói với tôi hôm nào cách đây không lâu, chợt vang lên văng vẳng bên tai, cùng tiếng cười ha ha ngang tàng:
- Một mạng tôi đổi mười mạng, hai mươi mạng tụi nó!
Tôi không còn lòng dạ nào để đi đến xưởng nếu chưa biết hết đầu đuôi câu chuyện thương tâm này. Tôi quyết định bỏ một buổi làm và đứng đợi màn cuối của vở bi kịch .
Một lúc sau, một chiếc xe Motolova chở toán chuyên viên chất nổ tới. Họ đuổi tất cả mọi người hiếu kỳ cùng đám du kích, công an dạt ra khá xa cái chòi trước khi họ vào việc tháo gỡ quả lựu đạn. Chỉ mươi phút, họ hoàn tất công việc. Hóa ra quả lựu đạn bị chôn giấu dưới đất lâu năm nên bị ẩm, không kích nổ được. Mọi người thở phào nhẹ nỗi lo âu tự nãy giờ.
Bấy giờ mọi người mới tiến gần lại chòi để nhìn rõ nạn nhân. Có tiếng la lên:
- Thằng phản động chưa chết! Coi chừng nó bắn!
- Bắn cho nó chết hẳn đi cho xong!
Lúc này anh Thanh cũng vẫn chưa chết hẳn. Viên đạn tự sát bắn vào tai không làm anh chết ngay như viên đạn anh bắn chính xác vào thái dương của vợ.
Tiếp theo đó là mấy phát súng A.K của du kích bắn vào đầu anh Thanh làm vỡ toác sọ và anh thực sự gục xuống. Người ta còn tìm được một lá thư tuyệt mệnh của vợ chồng anh để lại gửi cho đảng và Nhà nước cộng sản. Lá thư được dằn dưới một tô cháo còn nguyên chưa đụng đũa, đặt trên chiếc bàn gỗ. Nội dung lá thơ không ai được biết. Lão Bí thư tỉnh đã đút túi giấu biến đi. Nhưng tôi đoán biết được trong đó anh Thanh đã viết những gì. Đó là những lời tố cáo một chế độ ăn cướp, độc ác, hung bạo, áp bức, tàn nhẫn và bọn người ngu dốt đầy tham vọng đã đi theo một chủ nghĩa ngoại lai vô luân, tình nguyện làm tay sai cho đế quốc cộng sản, dìm dân tộc vào điêu linh thống khổ.
Tên Bí thư Tỉnh sau một hồi hí hoáy lập biên bản hiện trường, ngẩng đầu lên tuyên bố:
- Đây là một vụ thanh toán nội bộ để bịt đầu mối của một mạng lưới của bọn phản động, phản cách mạng, có âm mưu lật đổ Nhà nước ta, đang bị lộ. Đồng bào không nên bàn tán linh tinh mà mất lập trường.
Nửa tiếng sau, một chiếc xe Lam được Phường đưa tới, trên có hai cỗ quan tài gỗ tạp thô sơ, để bỏ hai thi thể xấu số vào đem đi. Xe vội vã chạy về hướng Phước Hải Hạ. Có lẽ bọn chúng sẽ vùi lấp hai thi hài đáng thương ở đâu đó ở ven rừng hay ven núi trong Đồng Bò cho xong chuyện. Có mấy người dân tốt bụng đốt vội bó nhang, chạy theo xe Lam, cố đặt trên hai quan tài, mong chút hương khói ấm cúng đưa tiễn, an ủi linh hồn kẻ bất khuất bớt lạnh lẽo. Bọn du kích quát nạt:
- Vợ chồng thằng phản động chết là đáng đời rồi! Không có nhang khói gì hết!
Đám đông đứng lặng yên, ngẩn ngơ nhìn theo, ngậm ngùi. Có người lâm râm cầu kinh. Có người niệm Phật. Có người đưa tay lên chùi nước mắt đang chảy dài trên mặt.
Lòng tôi rối bời xốn xang, cũng không làm sao ngăn được hai hàng nước mắt tuôn rơi. Bất chợt tôi nhận ra là tôi cũng đang thì thầm cầu nguyện cho linh hồn hai vợ chồng anh Thanh, chị Tám sớm được siêu thoát khỏi cõi trần gian đầy đau khổ này. Trong vô thức, bàn tay phải của tôi bỗng tự động giơ lên ngang mày như một cái chào tiễn biệt theo lễ nghi quân cách.
- Vĩnh biệt anh Thanh, chị Tám! Vĩnh biệt những người chiến sĩ kiên cường bất khuất!
*****
Căn chòi bị bọn du kích phóng hỏa sau đó.
Hàng ngày, đạp xe đi ngang qua ngã ba trụ cờ, chỗ căn chòi xưa, tôi vẫn có cảm tưởng trong sương mù buổi sớm hay trong ánh sáng chập choạng buổi chiều chạng vạng, nhá nhem, hình bóng vợ chồng anh chị Thanh lúc mờ, lúc tỏ, vào ra căn chòi như đang khi còn sống.
Ngã ba trụ cờ giờ đây không còn căn chòi nữa. Khoảng đường từ đó vào xưởng cưa Điện Biên hình như xa hơn trước và gió biển rạt rào thổi vào khoảng đất trống rộng mông mênh không có gì che chắn như trước hình như cũng lạnh hơn nhiều.
Tháng 9, mùa Thu năm 1982, cái lạnh đất trời dường như đến sớm hơn mọi năm.
Những buổi chiều bất chợt có mưa giông, gió lớn, sấm chớp loé lên từng lúc trên bầu trời đầy mây đen nghịt, đạp xe về ngang qua chỗ căn chòi, tôi cứ có cảm giác ớn lạnh, rùng mình.
Tháng 4 năm 1975, gia đình Trung Tá Hải quân Hà Ngọc Lương tuẫn tiết tại Trung Tâm Huấn luyện Hải quân để giữ tròn khí tiết một sĩ quan. Thà chết chứ không chịu nhục.
Tháng 9 năm 1982, gia đình thượng sĩ Hải quân Thanh cũng quyết lấy cái chết để tỏ hào khí ngất trời của mình, nhất định không cúi đầu trước ác quyền. Và cũng để trả thù cho ông Thầy, ông Thầy với ý nghĩa cao cả của nghĩa tình “huynh đệ chi binh”.
Than ôi! Hận cho chí cả không thành. Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên! Tiếc thay, thương thay!
Anh Thanh thân kính,
Đã hơn hai mươi năm qua rồi, tuy nay tạm dung nơi đất khách, nhưng cứ mỗi “tháng tư oan nghiệt” trở về, tôi lại nhớ đến anh và ân hận trong lòng mãi một điều là chưa có dịp hỏi anh, người chiến sĩ can cường với đầy đủ tên họ, để bây giờ mỗi khi nhắc đến anh thì chỉ biết vỏn vẹn một cái tên Thanh duy nhất.
Hôm nay, ngồi kể lại câu chuyện đầy bi thương nhưng rất hào hùng của anh, lòng tôi ray rứt không yên, tự trách mình sao đã quá vô tình.
Xin nói với anh điều này, có lẽ anh sẽ rất vui nơi suối vàng là câu nói của anh hôm nào “Mình không sợ nó thì nó sẽ sợ mình” đúng như câu châm ngôn “Hãy làm những gì cộng sản sợ mà đừng sợ những gì cộng sản làm” nay đã thành hiện thực. Nhân dân Việt Nam bây giờ không còn sợ bọn cộng sản như hồi năm 75 nữa.
Họ đã nổi dậy biểu tình khắp nơi, từ Nam ra Bắc, có lúc lên đến hàng vạn người, kéo dài hàng tháng, hàng năm, để tranh đấu đòi lại đất đai, đòi lại quyền sống, đòi lại tự do đã bị bọn chúng cướp đi hơn nửa thế kỷ. Và đặc biệt hơn nữa, họ đã dám chống cự và đánh trả lại lực lượng công an, cảnh sát của chúng. Điều từ trước đến nay chưa một ai dám làm.
Cộng sản giờ đã run sợ, đã chùn tay, đã co cụm lại rồi. Ngày tàn của bè lũ Việt gian phản quốc, phản động sắp đến ngày diệt vong.
Anh Thanh! Anh không chết đâu anh! Nhân dân sẽ trả thù cho anh một cách xứng đáng.
Anh đã xứng đáng với nhân cách của mình: Uy vũ bất năng khuất.
Quả thật: Anh hùng tử khí hùng bất tử.
(Viết theo lời kể của anh Võ.văn.Th, ở San Jose, một người bạn tù A.30 để tưởng niệm ngày 30/4/1975)
Nguyễn Thanh Ty
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét