(hình minh hoạ)
Chiến
tranh đồng nghĩa với bom đạn, với súng gươm, với giết chóc, với gian lao, khổ ải,
với tàn phá, hủy diệt, ... mà lại nói tới lãng mạn, hay dù hẹp hơn, tới thi ca
lãng mạn là một điều hoàn toàn nghịch lý, khó có thể tưởng tượng được. Nhưng
đối với những người Việt Nam đã từng sống trong cuộc chiến ba mươi năm vừa qua,
đây lại là một sự thực, một sự thực có bằng chứng hẳn hoi mà người tìm hiểu khó
có thể chối cãi. Nó hoàn toàn đúng ít ra là cho ba năm đầu của cuộc chiến
nếu ta tính từ cuối năm 1946 khi cuộc kháng chiến chống Pháp mới thực sự bùng nổ
trên toàn quốc Việt Nam đến năm 1949 là năm Mao Trạch Đông và Đảng Cộng Sản của
ông làm chủ được Trung Hoa Lục Địa,
<!>
Tưởng Giới Thạch phải bỏ chạy ra Đài Loan,
biên giới Việt Trung trở thành biên giới giữa hai nước Cộng Sản Á Châu và đặc biệt Quốc Gia Việt Nam của
Cựu Hoàng Bảo Đại được thành lập, mở đầu cho một giai đoạn mới cho cuộc chiến. Đây
chính là ba năm cuối cùng của nửa đầu của thế kỷ hai mười, ba năm đầu của thời
kỳ độc lập hay tranh đấu giành độc lập dưới hình thức này hay hình thức khác,
sau một thời gian dài sống dưới sự cai trị của người Pháp. Đây ba
năm đẹp nhất của lịch sử chiến tranh của người Việt trong thế kỷ hai mươi, trước
khi mọi chuyện đều thay đổi và thay đổi một cách bi thảm ngoài sự tưởng tượng của
mọi người mà ngót nửa thế
kỷ sau người ta mới dần dần hiểu được sự thật.. Câu
hỏi được đặt ra là do đâu mà đặc tính lãng mạn này đã có thể tồn tại và lãng mạn
đã được thể hiện ra sao trong thi ca của thời này?
I. Nguyên nhân nào đã khiến cho đặc tính lãng mạn
tiếp tục tồn tại trong ba năm đầu của Cuộc Chiến 30 năm
nói chung hay thời kỳ chống Pháp nói riêng
Có
nhiều nguyên nhân khiến cho cuộc sống lãng mạn của người Việt, vốn đã nảy nở và
phát triển từ trước, đặc biệt là lãng mạn trong thi ca và đương nhiên trong bộ
môn song sinh của nó là âm nhạc, không những vẫn có thể tồn tại được mà còn
phát triển rộng rãi hơn trong giai đoạn này:
Thứ
nhất: Người Cộng Sản chưa sẵn sàng để thực thi chính sách kiểm soát
chặt chẽ sinh hoạt văn nghệ trong ba năm đầu của cuộc chiến
Thế
lực của người Cộng Sản xuyên qua chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa của Hồ Chí
Minh cho đến hết thời gian này còn quá mới, chưa đủ để cho họ có thể áp đặt
một sự chỉ đạo và kiểm soát chặt chẽ lên mọi phạm vi sinh hoạt của người dân,
trong đó có văn nghệ, vốn dĩ là một sinh hoạt rất tế nhị mà họ đang cần để
tuyên truyền lôi cuốn mọi người vào cuộc kháng chiến chống Pháp dưới sự lãnh đạo
của Việt Minh, đồng thời tiêu diệt nốt những thành phần đối lập, dù cho là bản
Đề Cương Văn Hóa của Đảng Cộng Sản đã được soạn thảo và phổ biến từ năm 1943.
Làm sao có lợi cho vai trò lãnh đạo của họ là được rồi. Cũng cần phải để
ý là trong thời gian này Hồ Chí Minh và chính phủ của ông đã dời bỏ thủ đô Hà Nội,
di tản lên miền rừng núi Việt Bắc, do đó cần phải có thì giờ để củng cố lại thế
lực cũng như để sắp đặt lại mọi cơ sở, mọi hệ thống liên lạc mới nhằm thắt chặt
trung ương với địa phương, song song với vai trò lãnh đạo kháng chiến của mình.
Thứ
hai: Lãng mạn trong thời gian này đã trở thành rất phổ biến trong sinh hoạt
của giới thanh niên như là sự tiếp nối phong trào lãng mạn của những năm cuối của
thập niên ba mươi và những năm đầu của thập niên bốn mươi của thế kỷ hai mươi
Ở thời điểm ba mươi của thế kỷ hai mươi người ta nói tới ý
muốn thoát ly khỏi cuộc đời nhàm chán, dù cho là chẳng biết để đi đâu trong khi
cách mạng hãy còn là một ý niệm mơ hồ và chế độ đô hộ của người Pháp có vẻ mỗi
ngày một vững hơn. Sang đầu thập niên bốn mươi tất cả đã đổi khác.
Lý do là sự bại trận của người Pháp ở ngay chính nước Pháp và sự thắng thế của
quân đội Nhật và sự hiện diện của họ trên đất nước Việt Nam. Nếu vào
cuối thập niên ba mươi người ta nói tới chuyện
Rũ áo phong sương trên gác trọ.
Lặng nhìn thiên hạ đón xuân sang
hay ngồi trước lò sưởi trong một ngày mưa gió, hút thuốc lá,
thở khói lên trần... thì vào đầu thập niên bốn mươi, người ta lại sính
hát Hòn Vọng Phu của Lê Thương hay tìm hiểu và ngâm những đoạn thơ và vẽ những
cảnh diễn tả buổi chia ly tuyệt đẹp và vô cùng lãng mạn trong Chinh Phụ Ngâm:
Áo chàng đỏ tựa ráng pha,
Ngựa
chàng sắc trắng như là tuyết in.
Mọi người dường như chờ đợi và sẵn sàng để làm công việc
này.
Khi chiến tranh toàn quốc bùng nổ vào tháng Chạp năm 1946,
tinh thần lãng mạn qua ý niệm thoát ly để đi làm cách mạng từ mơ hồ đến chỗ gần
như bế tắc đã được thay thế bằng một thứ lãng mạn yêu nước cụ thể
hơn. Người ta sẵn sàng từ bỏ gia đình, từ bỏ quê hương, ruộng vườn để
ra đi và ra đi mà không ai trách cứ. Nhiều thanh niên đã hăng hái
xung phong gia nhập Vệ Quốc Đoàn, nhiều người không được nhận vì thiếu sức khỏe
đã khóc khi phải trở về nhà. Người ta đã ra di để cứu quốc một cách ngây thơ, tự
nhiên, đơn giản, không cần biết ai là người lãnh đạo, nói như Phạm Duy ở một chỗ
nào đó trong hồi ký của ông. Trước đó, khi các mặt trận mới chỉ diễn
ra ở các thành phố, các lực lương Tự Vệ Thành đã thu hút một số lớn thanh thiếu
niên nam nữ thuộc đủ mọi thành phần từ các sinh viên, học sinh đến những người
làm nghề lao động. Họ tự bỏ tiền túi ra để may quần áo, khí giới,
làm huy hiệu... và đã ở lại giữ thành phố thân yêu của họ trong một thời gian khá dài, điển
hình là sáu mươi ngày ở Hà Nội, trong khi quân đội chính qui của Cộng Sản được
rút lên miền núi cùng với Hồ Chí Minh và các nhân viên chính phủ của ông nhằm bảo toàn lực lượng.
Thứ ba: Ảnh hưởng của các phong trào Hướng Đạo và
thanh niên thể thao
Các phong trào Hướng Đạo và thanh niên thể thao qua những buổi
cắm trại hay du ngoạn đã đưa giới trẻ đến chỗ có dịp thoát ra khỏi cuộc sống chặt
hẹp nhàm chán ở các thành phố hay các phủ hay huyện lỵ của thời bấy giờ để có
thể vào rừng, lên núi, ra các miền quê hay bờ biển sống gần với thiên nhiên, tiếp
xúc với dân quê hay người miền núi hơn, đồng thời thăm viếng các thắng cảnh hay
các di tích lịch sử của đất nước mà trước đó họ chỉ có dịp tiếp xúc qua sách vở
hay trong lớp học. Lãng mạn tính thể hiện trong tình yêu thiên
nhiên, tình yêu thương quê hương, đất nước và đồng bào cũng như cái đẹp của quê
hương, đất nước, và của những người dân quê hay miền núi, công lao xây dựng và
bảo vệ đất nước của người xưa... của một thế hệ người Việt mới đã nẩy nở trong
bối cảnh này.
Thứ
tư: Ảnh hưởng của những bài ca mới đầy tình cảm mang chủ đề quê
hương, đất nước và lịch sử oai hùng của dân tộc đã xuất hiện trước đó
Những năm đầu của thập niên bốn mươi cũng là thời gian xuất
hiện của nhiều bài ca mang nặng tình cảm bình thường của con người cùng tình
yêu quê hương, đất nước, đặc biệt là những bài ca lịch sử. Bắt đầu những bài ca
này được phổ biến ở thành thị, sau đã tràn về thôn quê do những cuộc tản cư thời
phi cơ Mỹ ném bom các cơ sở của quân đội Nhật hay trong các cuộc cắm trại hay
du khảo của các phong trào Hướng Đạo hay thanh niên. Nên nhớ là khi
Cộng Sản còn ẩn náu ở các chiến khu Việt Bắc những bài ca được dùng trong các
sinh hoạt của họ phần lớn là những bài ca của Hướng Đạo và khi Văn Cao được cán
bộ Cộng Sản tiếp xúc, người nhạc sĩ này đã được giao cho nhiệm vụ làm những bài
ca mới để thay thế cho những bài ca của Hướng Đạo cũ với bài đầu tiên ông làm
là bài Tiến Quân Ca, sau trở thành quốc ca của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và Cộng
Hòa Xã Hội Việt Nam hiện tại..
Từ
sau năm 1949, mọi sự đã hoàn toàn thay đổi, ở trong nước cũng như trên thế giới. Ở
trong nước chính phủ của Hồ Chí Minh và những người Cộng Sản đã đứng vững được
về cả hai phương diện chính trị và quân sự, những lực lượng chống đối không còn
nữa. Ở Trung Quốc, Đảng Cộng Sản của Mao Trạch Đông đã hoàn toàn
đánh bại được quân đội của Tưởng Giới Thạch và làm chủ được toàn thể Trung Hoa
Lục Địa, biên giới giới hai khối Cộng Sản Hoa, Việt đã tiếp giáp với nhau và Cộng
Sản Việt Nam đã được Cộng Sản Trung Quốc trực tiếp hỗ trợ kèm theo với những ảnh
hưởng của họ. Sự e ngại kẻ thù từ phương bắc tới không còn nữa,
nhưng áp lực của người anh em mới mỗi ngày một thêm đè nặnglên vai của người
anh em đang cần sự giúp đỡ. Một mặt khác, cũng năm 1949, Quốc
Gia Việt Nam của Cựu Hoàng Bảo Đại đã được chính thức thành lập với sự trao đổi
văn kiện trực tiếp giữa Cựu Hoàng Bảo Đại với chính Tổng Thống Pháp Vincent
Auriol thay vì với một nhân vật cấp dưới, rồi rất nhanh chóng chính quyền
Quốc Gia này đã được hai nước Anh và Mỹ và rất nhiều quốc gia thuộc khối tự do
thân Tây Phương thừa nhận, đe dọa sự chính thống của Hồ Chí Minh và của chính
phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Hậu quả là cả một cuộc hồi sinh mới trong mọi phạm vi sinh
hoạt đã nẩy nở trong những miền đất do người Việt Quốc Gia
kiểm soát. Những biến chuyển này đã khiến cho Hồ Chí Minh
và chính phủ của ông phải thay đổi hoàn toàn đường lối cai trị của mình, trong
đó có lãnh đạo văn nghệ. Sự thả lỏng cho các văn nghệ sĩ dù là các
người làm thơ, các người soạn kịch, các người vẽ tranh... muốn làm sao thì làm,
muốn đi đâu thì đi, miễn là tất cả hướng vào toàn quốc kháng chiến, toàn quốc
chống Pháp phải được bãi bỏ. Ở Đại Hội Văn Nghệ Lần Thứ Hai mà Phạm
Duy đã tinh ý nhận xét là có thêm hai chữ Nhân Dân vào mùa hè năm 1950 ở Việt Bắc,
chính quyền trung ương đã bắt đầu áp đặt đường lối mới. Thiếu Tướng Nguyễn Sơn,
một ngưới rất yêu mến văn học nghệ thuật và các văn, nghệ sĩ, người đã biến đại
bản doanh của mình ở Thanh Hóa thành một thủ đô của giới văn nghệ sĩ thời bấy
giờ, bên cạnh nhiều trung tâm khác như Cống Thần - Chợ Đại, Rừng Thông... đã bị
triệu hồi về trung ương. Đây là thời điểm các cuộc dinh tê của mọi người bấy
lâu theo chân kháng chiến tản cư trở nên ào ạt hơn trong đó có rất đông các văn
nghệ sĩ mà sau này người ta thấy xuất hiện trong sinh hoạt văn hóa ở các vùng
Quốc Gia, ở miền Nam và luôn cả ở Hải Ngoại trong những năm kế tiếp. Luận
cứ cho rằng những người tản cư từ các thành phố về thôn quê hay lên miền trung
du dinh tê về thành là do họ đã quen với cuộc sống tiểu tư sản thành thị không
chịu nổi cuộc sống kham khổ, thiếu thốn ở trong vùng kháng chiến là không đúng. Nó
chỉ là một trong nhiều nguyên nhân mà thôi. Còn nhiều nguyên nhân
khác hơn nguyên nhân hoàn toàn vật chất này.. Cuộc sống tự do, nhân
bản và chính quyền quốc gia không Cộng Sản, tương lai học vấn của giới trẻ, chẳng
hạn. Nhiều người thuộc
thành phần lãnh đạo sau này ở Miền Nam, sau nhiều năm tản cư bị thất
học, đã có dịp trở lại học đường tiếp tục việc học hay xuất dương
du học. Các văn nghệ sĩ đã có dịp tự do sáng tác theo lý
tưởng và ý tưởng riêng của mình thay vì phải theo lệnh Đảng và Nhà
Nước.
II. Thi ca lãng mạn thời chiến
Bây giờ nói tới thi ca thời chiến, đúng hơn thi ca lãng mạn
thời chiến hay đúng hơn nữa, thi ca lãng mạn trong những năm đầu của cuộc kháng
chiến chống Pháp của người Việt trong nửa sau của thế kỷ hai mươi, thời quân đội
kháng chiến còn được gọi là Vệ Quốc Đoàn, chưa bị đổi tên là Quân Đội Nhân Dân,
những năm tôi nghĩ đẹp nhất trong lịch sử giành độc lập của người Việt trong thế
kỷ hai mươi, bất kể là do ai lãnh đạo, trước khi mọi chuyện thay đổi. Còn
nếu so sánh với cả lịch sử của dân tộc Việt Nam thì đó cũng là một trong những
thời gian đẹp nhất như chính những người tham dự đương thời đã miêu tả như:
Ở thời nhà Trần:
Bạch
đầu quân sĩ tại
Vãng
vãng thuyết Nguyên Phong
................
Lính
già phơ tóc bạc
Kể
chuyện thuở Nguyên Phong
(Thơ
Trần Nhân Tông, Xuân Nhật Yết Chiêu Lăng
Ngô
Tất Tố dịch)
và thời kháng chiến chống Pháp:
Buông
tay gầu vui lại thuở bình Mông
Ghì nấc súng nhớ ôi thời chiến
thắng!
Thơ
Yên Thao, Nhà Tôi
Nếu người lính già của thời nhà Trần cứ thỉnh thoảng ngồi kể
chuyện của thời Nguyên Phong thì những người đã từng là lính hay đã từng sống
hay tham dự vào những sinh hoạt ở thời chống Pháp từ cuối năm 1946 đến đầu năm
1950 cũng không bao giờ quên được những ngày kháng chiến của mình dù là sau này
họ sống ở vùng Tề hay ở hậu phương, ở trong Nam hay ở
ngoài Bắc, ở trong nước hay ở hải ngoại, dù là họ tiếp tục được sống trong vinh
quang hay bị bỏ quên ở một góc phố hay ở một làng thôn hẻo lánh nào
đó. Có điều văn thơ của họ đã được phổ biến mỗi ngày một rộng, từ
hình thức những bài chép tay nằm dưới đáy ba lô của những người lính Vệ Quốc
Đoàn hay những cán bộ còn nặng đầu óc tiểu tư sản ở ngay chính thời chúng mới
được làm đến những bản in trong các sách vở, những bản phổ nhạc ở miền Nam hay
được đưa lên sân khấu ở Hải Ngoại. Những tên tuổi của Hoàng Cầm, Quang Dũng,
Chính Hữu, Hoàng Trung Thông, Yên Thao, Hữu Loan... đã được người ta nhắc tới. Những
tác phẩm như Đêm Liên Hoan, Tâm Sự Đêm Giao Thừa, Bên Kia Sông Đuống,
Tây Tiến, Đôi Bờ, Đôi Mắt Người Sơn Tây, Đồng Chí, Bao Giờ Trở Lại, Làng Tôi,
Màu Tím Hoa Sim... của các tác giả này đã được người ta thuộc lòng dù là thuộc một
vài đoạn, một vài dòng hay một đôi câu hay ít ra là có thể nhận ra được vì đã
được nghe ngâm, nghe hát vào một dịp nào đó trong đời mình, kể cả những người
chưa từng được nghe, được học về cuộc kháng chiến chống Pháp của thời cha ông họ.
Nhận xét về các tác giả này, người ta thấy đa số họ là những
tên tuổi mới và hầu hết đều rất trẻ. Tất nhiên là rất trẻ cho thời kỳ
các tác phẩm của họ được sáng tác. Đa số năm sinh của họ là vào đầu
hay giữa thập niên hai mươi, tuổi của những người đã đóng vai trò chính
trong cuộc cướp chính quyền của Việt Minh vào tháng 8 năm 1945. Họ cũng là những người có học,
đã từng là cựu học sinh các trường Sư Phạm, Bưởi, Thăng Long hay cao hơn là các trường Luật, trường
Thuốc.... Điều này cũng có nghĩa là họ đã có dịp tiếp xúc với văn hóa
tây phương, trong đó có văn chương lãng mạn Pháp. Nhưng quan trọng
hơn hết họ là những nhà thơ có thực tài, có cảm giác rất bén nhậy với những nhận
định tinh vi và đã được sống trong thời kỳ sôi sục nhất của lịch sử dân tộc. Riêng
Quang Dũng còn là một người rất tài hoa, phóng khoáng. Cái lãng mạn
của họ do đó không phải chỉ khác hơn mà còn phức tạp hơn cái lãng mạn của những
nhà thơ lớp trước. Lãng mạn của họ là lãng mạn kết hợp bởi không
riêng tình yêu nam nữ mà luôn cả tình yêu gia đình, đặc biệt là tình yêu dành
cho người mẹ, người vợ, cho đứa con còn bú, cho xóm làng, bờ sông, ruộng vườn,
hình ảnh quê hương thuở còn thanh bình ngay không lâu trước đó... và đương nhiên cả cuộc kháng chiến
với những đồng đội, với đơn vị, với núi rừng, thú dữ, với bệnh hoạn, với cái chết
kề bên, với những xóm làng đã đi qua... Chính vì vậy mà có nhà nghiên cứu
chỉ xếp Hữu Loan và Quang Dũng vào loại những tác giả lãng mạn, còn các tác giả
khác vào loại tranh đấu hay tuyên truyền cho kháng chiến dù là ở một mức cao về
nghệ thuật. Có điều dù xếp thơ của họ vào loại nào đi chăng nữa, người
ta phải cũng phải công nhận rằng những thi ca này đã phát xuất một cách tự
nhiên, từ tâm hồn của mỗi tác giả. Chúng đã được làm vào lúc họ vẫn
còn được quyền tự do sáng tạo, chưa bị áp lực và sự kiềm chế chặt chẽ của chính
quyền Cộng Sản như trong những năm sau này. Chính vì thế mà mỗi người có một
phong cách riêng tùy theo bản chất và hoàn cảnh của mình. Ngôn từ họ
dùng cũng rất đơn sơ, giản dị, trong sáng, dễ dàng khiến cho người nghe, người
đọc không đến nỗi phải cố gắng, phải căng óc ra để tìm hiểu. Âm điệu
cũng vậy. Đa số những bài mọi người ưa thích đều là thơ tự do, nhưng
dòng thơ rất tự nhiên, trôi chảy, nhẹ nhàng, từ đó lôi cuốn người đọc khác với nhiều bài làm theo cùng thể
về sau này.
Trong giới hạn của một bài báo, người viết không thể đi sâu
vào từng tác phẩm, từng tác giả mà chỉ đề cập tới hai tác giả chính, được nhiều
người ưa thích là Hoàng Cầm và Quang Dũng. Hữu Loan vì lànhân vật chính của buổi lễ trao giải
trong năm nay, năm 2007, nên chắc chắn đã được mọi người tìm hiểu nên
tôi thấy không cần phải nói thêm ở đây.
Hoàng Cầm và Quang Dũng, hai người cùng một tuổi, một
người sinh ở Bắc Ninh, quê hương của dân ca miền Bắc, một người ở làng Phùng, một
làng được người ta biết tới là vừa chăm chỉ làm ăn, vừa ham mê du hí, nói theo
Trần Lê Văn, tác giả của một tuyển tập về Quang Dũng. Hai người cùng
có trình độ học vấn cao ở thời bấy giờ và cùng dự tính vào nghề dạy học. Nhưng,
trong khi Hoàng Cầm ở lại với nghề trước khi tham gia kháng chiến thì Quang
Dũng, mặc dầu đã ra trường sư phạm nhưng lại bỏ nghề đi đánh đàn, kéo nhị cho
môt gánh hát, chỉ làm thày giáo dạy kèm để được đi đây, đi đó, kể cả lên Yên
Báy làm ký ga, sau mới về Hà Nội, tham gia cách mạng rồi kháng chiến và kháng
chiến thực sự trong đoàn quân Tây Tiến. Sự khác biệt trong đời sống
của hai người đã ảnh hưởng lớn tới thi ca. Thơ của Hoàng Cầm phát xuất từ quần
chúng, từ đoàn thể, lấy quần chúng, đoàn thể làm đối tượng nên có lời lẽ bình dị,
dễ dàng, lôi cuốn, hấp dẫn, khi thì mạnh mẽ, khi thì sôi nổi, khi thì nỉ non, kể
lể, tha thiết.., điển hình là ba bài bàiĐêm Liên Hoan, Tâm Sự Đêm Giao Thừa
và Bên Kia Sông Đuống. Cả ba đều là thơ ca tụng kháng chiến và cổ võ cho
kháng chiến nhưng ca tụng và cổ võ với một nghệ thuật cao, một phong thái tự
nhiên vững vàng, không sống sượng, thô lỗ như những bài thơ tuyên truyền người
ta thường thấy về sau này dưới chế độ Cộng Sản. Cả ba bài đều lấy
đám đông hay người của đám đông làm khởi điểm với những bối cảnh, những tình tiết
của đám đông hay những con người của đám đông, đám đông làm công việc chiến đấu
để bảo vệ quê hương với những hình ảnh quen thuộc của quê hương được nêu lên
trong truyện kể. Bài Đêm Liên Hoan theo Phạm Duy được
làm để thay thế cho một vở kịch thơ mà ông và Hoàng Cầm muốn dựng, hướng vào các Vệ Quốc Quân nhưng vì đội
văn nghệ của ông có rất ít người nên cuối cùng ông chỉ có thể làm một bài thơ
cho một hay hai người ngâm trên một sân khấu ngoài trời mà thôi. Chính vì thế
ta không lấy làm lạ là khi trình bày bài thơ này người ta không thể chỉ có
ngâm, chỉ có dùng lời nói để diễn tả mà thôi mà còn phải kèm theo những cử chỉ,
những điệu bộ ngay khi ngâm mấy câu đầu:
Đêm
liên hoan đầu người nhấp nhô như sóng biển
ngang tàng
Ta
muốn thét cho vỡ tung lồng ngực
Vì
say sưa tình thân thiết Vệ Quốc Đoàn...
Cũng theo Phạm Duy, Phạm Duy đã cùng Hoàng Cầm diễn ngâm rất
nhiều lần trước hàng trăm, hàng ngàn Vệ Quốc Quân với những lời lẽ vô cùng tha
thiết và đầy hào khí như:
Trong
tiểu đội của anh
Những
ai còn ai mất?
Không
ai còn ai mất
Ai cũng chết mà thôi!
Người
sau kẻ trước lao vào giặc
Giữ
vững nghìn thu một giống nòi!
Dù
ta thịt nát xương rơi
Cái
còn vĩnh viễn là người Việt Nam!
Tâm
Sự Đêm Giao Thừa kể chuyện người lính nghèo có vợ mới sinh con. Vì
nghèo và đang chiến đấu ở chiến trường nên anh lính và cũng có thể chính
tác giả không có gì để cho vợ
con
ăn Tết. Còn nếu có thì chỉ là ráng lập công để sớm được về.
Trong khi đó thì người vợ ở nhà sinh sống bằng bán hàng ở một
quán nhỏ, cuối năm ế khách, thiếu ăn, không đủ sữa cho con bú. Người lính tưởng
tượng ra cảnh vợ mình đang đói ăn, không có sữa cho con bú, nhưng nghe tin chồng
thắng trận thì vui mừng quá, máu bỗng chảy mạnh trong huyết quản, sữa bỗng căng
trên đầu vú và đứa con được bú một bữa no trong niềm vui lớn của cả dân tộc. Ta
hãy đọc những đoạn chính của Tâm Sự Đêm Giao Thừa:
Đêm
nay hết một năm
Phải
gác tới giao thừa
Quê
hương chừng rét lắm
Lất phất mấy hàng mưa
Tôi có người vợ nghèo
Đời vất vả gieo neo
Từ khi chồng đi lính
Nhà tranh bóng hắt hiu
Lần hồi rau cháo dăm phiên chợ
Tóc rối, thân gầy, quán vắng teo.
Đêm ba mươi gió thổi
Tôi lại nhớ con tôi
Vợ đói, con cùng đói
Khóc thét lặng từng hồi
Mẹ thì nước mắt nhiều hơn sữa
Ngực lép con nhai đã rã rời...
với bốn câu kết luận:
À ơi! Cha con ăn Tết lập công
Cho sữa mẹ chảy một giòng nghìn thu
Cha đem cái chết quân thù
Làm nên cuộc sống bây giờ của con
Trong
bài Bên Kia Sông Đuống Hoàng Cầm dùng lối kể chuyện để giải buồn
cho người yêu. Ông đã dùng tất cả những hình ảnh tươi đẹp, hiền lành
của quê hương thời thanh bình trước kia và mơ ước một ngày cùng người yêu trở về.
Em
ơi buồn làm chi
Anh
đưa em về sông Đuống
Ngày
xưa cát trắng phẳng lì
Sông
Đuống trôi đi
Một
dòng lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến
trường kỳ.
......
rồi Hoàng Cầm kể tiếp những hình ảnh hiền hòa dễ thương của
cuộc sống ở quê hương ông như lúa nếp thơm nồng, tranh Đông Hồ, áo the đen, cô
hàng xén răng đen, những cô nàng cắn chỉ môi trầu, những em bé xột xoạt quần nâu... mà chiến tranh đã làm tan
hoang phiêu bạt, để cùng người yêu mơ ước một ngày về:
Bao
giờ về bên kia Sông Đuống
Anh lại tìm em
Em mặc yếm thắm
Em thắt lụa hồng
Em đi trẩy hội non sông
Cười mê ánh sáng muôn lòng xuân xanh.
Thơ
của Quang Dũng khác hẳn. Quang Dũng không làm thơ hướng vào đám
đông, để tuyên truyền, để cổ võ cho kháng chiến, để thúc đẩy mọi người hy sinh
cho cuộc kháng chiến trường kỳ. Ông làm thơ cho ông hay chia sẻ với
bạn bè của riêng ông. Ông nhìn mọi chuyện qua con mắt riêng của ông,
trình bày những cảm nhận của riêng ông, của một con người vừa tài hoa, vừa
phóng khoáng, độc lập, không chịu sống gò bó, mà trước kia ông đã có dịp thể hiện
qua hành động không ở lại với nghề dạy học sau khi đã tốt nghiệp trường sư phạm
để đi theo một gánh hát kéo đàn nhị hay lên Yên Bái làm thư ký nhà
ga. Phong thái của ông đã hiện rõ nét trong thơ ông. Đi
kháng chiến, theo đơn vị vượt biên giới sang Lào, trải qua nhiều gian lao, vất
vả, hiểm nguy, bệnh tật, chết chóc... Nhưng qua thơ của ông tất cả đã trở thành
nhẹ nhàng, rất lãng mạn, rất đẹp và rất thơ, không vướng vào những hạt sạn của
tuyên truyền.
Ông
viết:
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Hiu hắt cồn mây súng ngửi trời.
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống....
hay
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm
đêm Mường Hịch cọp trêu người...
hay:
Tây
tiến đoàn quân không mọc tóc
Quân
xanh màu lá dữ oai hùm.
Những hình ảnh thật hào hùng khó kiếm được ở những nhà thơ
khác đương thời. Cần để ý đoàn quân không mọc tóc không phải là đoàn
quân trọc đầu vì theo kỷ luật của quân đội mà là bị sốt rét nặng mà những ai đã
từng sống ở miền Bắc trong thời gian tản cư về các miền quê hay miền núi đều có
kinh nghiệm.
Với
cái chết, Quang Dũng cũng nhìn với phong thái tương tự, một phong thái bình thản,
có thể nói là hồn nhiên của trẻ thơ bởi vì đi lính là đương nhiên người ta phải
chấp nhận tất cả dù là gian lao, nguy hiểm, chết chóc, dù là đi lính cho một mục
tiêu vô cùng đẹp đẽ, vô cùng lý tưởng như Hoàng Cầm và các nhà thơ khác diễn tả. Nhưng
Quang Dũng đã đạt tới một trình độ cao hơn. Ông cảm nhận được sự
mong manh của cuộc sống ngoài chiến trận. Một phút trước người
ta còn tồn tại, phút sau đã trở thành hư vô. Ông đã chấp nhận sự
mong manh đó như người ta chấp nhận trò chơi hồi còn nhỏ. Chán, mệt
thì không chơi nữa, không thèm chơi nữa, lúc khác sẽ chơi lại..
Anh
bạn dãi dầu không bước nữa
Gục
lên súng mũ bỏ quên đời!
hay
Rải
rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến
trường đi chẳng tiếc đời xanh.
hay:
Áo
bào thay chiếu anh về đất
Sông
Mã gầm lên khúc độc hành.
Thực sự thì ở đây chết là chết không có chiếu mà chôn.
Những
câu thơ kể trên được trích từ bài Tây Tiến của Quang Dũng.
Nhưng đó không phải là những câu hay nhất vì trong bài này câu nào cũng hay,
cũng xúc tích, cũng gợi nên những cảm xúc sâu xa ở người đọc. Xen
vào những câu này, là những câu đầy tình cảm, mang nặng bản chất hào hoa, tiểu tư sản thành thị. Đêm
trằn trọc không ngủ được trên đường hành quân, Quang Dũng viết:
Mắt
trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm
mơ Hà Nội dáng kiêu thơm.
hay ở một bài thơ khác, bài Đôi Bờ:
Khói
thuốc khơi dòng thương nhớ xưa
Đêm
đêm Sông Đáy lạnh đôi bờ.
Thoáng hiện em về trong đáy cốc
Nói cười như chuyện một đêm mơ..
hay trong Đôi mắt Người Sơn Tây:
Vầng
trán em mang trời quê hương
Mắt
em dìu dịu buồn Tây phương
Tôi
nhớ xứ Đoài mây trắng lắm
Em có bao giờ em nhớ thương.
Ngay
cả đối với những sinh hoạt mà các văn nghệ sĩ đương thời thường gặp hay tham
gia trong những năm này ở vùng kháng chiến như các đêm liên hoan chẳng hạn,
khác với Hoàng Cầm, Quang Dũng cũng tham dự nhưng tham dự như là một khách
phong lưu, tài tử. Ông không gọi là liên hoan, tiếng thời
thượng, ai cũng dùng. Ông dùng hai hai chữ đuốc
hoa và kèm theo hai chữ xiêm áo của văn
chương lãng mạn cổ điển:
Doanh
trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa
em xiêm áo tự bao giờ.
Khèn
lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ.
Tất
cả với Quang Dũng đã trở thành như một giấc mơ đối diện với thực
tế trước mắt khi những sĩ quan xuất thân là các sinh viên,
học sinh, những thành phần trí thức, quan lại, tư sản đã tham gia Vệ Quốc Đoàn từ những ngày đầu của
cuộc kháng chiến do Việt Minh lãnh đạo thuần túy, chỉ vì yêu nước, không còn được phục vụ như xưa nữa. Ngay
danh xưng Vệ Quốc Đoàn cũng bị Đảng Cộng Sản, do áp lực từ bên ngoài, cưỡng bức thay
thế để trở thành Quân Đội
Nhân Dân theo mô thức của Trung Cộng. Một giai đoạn trong
cuộc chiến tranh chống Pháp của Việt Minh đã đi qua, kèm theo với tất cả những
gì đẹp đẽ nhất và lãng mạn nhất của nó để trở thành hoài niệm. Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn274 Đặng Văn Việt,
Con Hùm Xám Của Đường Số 4, thay vì trở thành tướng vì đã đánh bại không phải một
mà hai đại tá của quân Pháp theo tiêu chuẩn của Hồ Chí Minh khi ông này phong cấp
đại tướng cho Võ Nguyên Giáp và
nhiều người khác, đã bị gửi sang Tàu làm tân khóa sinh của một trường sĩ quan của Tàu. Cũng
may là họ Đặng hãy còn tốt phước do cha mẹ ông bà để lại, được để cho sống sót.
Trong
sinh hoạt văn học nghệ thuật phải chăng vì danh xưng Vệ Quốc Đoàn không
còn được dùng nữa, những
bài hát tràn ngập lòng yêu nước đại loại như:
Đoàn
Vệ Quốc Quân một lần ra đi
Nào
có mong chi đâu ngày trở về.
Ra
đi, ta đi bảo tồn sông núi.
Ra
đi, ra đi thề chết chớ lui…
mà tác giả
bài này đã được nghe, được đọc, được hát và học thuộc lòng khi còn
là một chú bé 13, 14 tuổi tản cư về Thái Bình rồi Thanh Hóa hay những
bài thơ đẹp và vui tươi như:
Đoàn
Vệ Quốc áo đen
vượt
qua sườn Tam Đảo
Sau
những ngày dông bão.
Việt
Bắc giặc lui rồi
Lũ
tàn quân xơ xác
Chiến
sĩ ta reo cười
Chim
rừng vang tiếng hát.
Các
anh như bầy chim,
Nẻo
rừng sâu bay tới.
Huyện
Tam Dương im lìm
Bỗng
dưng vào đại hội.
sau những năm này không còn được ai sáng tác nữa hay có sáng
tác cũng chẳng bao giờ được phổ biến. Tất cả chỉ còn là một hoài vọng khi chủ trương
“Xóa
tan biên cương loài người sống thân yêu”
chưa bị lộ mặt
thật phũ phàng của nó, để cho những người Vệ Quốc giàlâu lâu ngồi nhớ lại
kể cho nhau nghe hay viết cho nhau đọc. Chỉ tiếc rằng cái đẹp vừa hào hùng vừa
lãng mạn của thời trai trẻ mà chính họ cũng như thời thế đã tạo được cho họ đã
không toàn vẹn như cái đẹp của người lính già thuở Bình Mông ngày trước qua hai câu thơ của Vua Trần Nhân
Tông mà tác giả đã trích dẫn trên đây, xin được nhắc lại:
Bạch
đầu quân sĩ tại
Vãng
vãng thuyết Nguyên Phong
Kết
luận: Khi tham gia đoàn quân Tây Tiến vào năm 1947, một đoàn quân được
nói để bảo vệ miền Thượng Lào và biên giới Việt Lào nhưng rất có thể chỉ là để gián tiếp thanh toán những
thành phần tiểu tư sản trí thức còn lại của Trung Đoàn Thủ Đô và của Tự Vệ
Thành Hà Nội sau khi họ đã làm tròn nhiệm vụ để trở thành một thành phần nguy hiểm
cho chế độ, vì ai cũng biết chiến đấu ở các miền rừng núi
đoàn quân này không thể nào so sánh được quân đội chính qui của Võ Nguyên Giáp
mà để họ lại ở miền
đồngbằng thì nguy hiểm, Quang Dũng làm đại đội trưởng. Cuộc
đời binh nghiệp của ông đã không lên cao hơn được nữa, có thể là vì gốc gác của ông cũng như bản chất
con người nghệ sĩ phóng khoáng của ông. Sau này khi về Hà Nội, ông
đã được thấy những cảnh bi thảm của vợ con những tử sĩ của thời chiến và đã ghi
lại trong bài Đường Chiều Thứ Bảyvới những câu như sau:
Tôi
đã gặp
Nhiều người vợ trẻ
Đàn
ông đã ngã trên chiến trường
Vất
vả nuôi con những ngày kháng chiến
Xót
xa thương khóc bao ngày.
Chiều
thứ bảy hôm nay
Họ
đi bên người chồng mới lấy
Và
những đứa con
Bước
còn bỡ ngỡ
Bên
người cha mới hôm qua.
Ai
biết được bây giờ
Tâm
sự của những người
Ngậm ngùi cất kỹ ảnh chồng
Vào đáy hộp nữ trang
Bến nước đi thêm một bước nữa.
Bài
thơ tả chân nhưng cũng có thể mang nhiều tính
chất biểu tượng. Nó nói lên sự thê thảm, thật là thê thảm của
những người được gọi là thắng trận, thê thảm như chính cuộc đời của tác giả, của
Hữu Loan, của Nguyễn Hữu Đang và của nhiều người khác..., những người nửa đường
đứt gánh, những người sáng tạo nhưng không được sáng tạo hay sáng tạo nhưng không bao giờ được
phổ biến sản phẩm của mình.. Có điều vì những ngày theo
kháng chiến của họ đẹp quá, nên thơ quá nên họ luôn luôn tiếc nuối, bỏ không được,
giữ không xong. Họ không có được sự nhạy cảm, dứt khoát, nhanh và gọn
gàng của Phạm Duy sau khi người nhạc sĩ này được gọi về trung ương tham dự Đại
Hội Văn Nghệ Nhân Dân, người viết xin nhấn mạnh hai chữ nhân dân, lần thứ hai vào mùa hè
năm 1950 như Phạm Duy đã nhận định và đã làm, để sau này, sống trong vùng Quốc Gia hay ở Miền Nam ông đã sáng
tác thêm hàng trăm và có thể nhiều hơn nữa, bài hát đủ mọi khuynh
hướng, mọi thể loại, so với Văn Cao ở Miền Bắc. Âu
cũng là một sự bất hạnh, đại bất
hạnh,cho nền văn học Việt Nam hậu bán thế kỷ hai mươi. Dân tộc Việt Nam dù ở đâu và ở bất
cứ thời nào cũng không bao giờ thiếu người tài và người yêu nước.
Phạm
Cao Dương
Ghi chú: Đây là bài phát biểu
tác giả trình bày trong
buổi Nguyệt San Khởi Hành công bố trao giải Văn Chương của báo này cho nhà thơ Hữu Loan, tháng 10 năm 2007.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét