Tìm bài viết

Vì Bài viết và hình ảnh quá nhiều,nên Quí Vị và Các Bạn có thể xem phần Lưu trử Blog bên tay phải, chữ màu xanh (giống như mục lục) để tỉm tiêu đề, xong bấm vào đó để xem. Muốn xem bài cũ hơn, xin bấm vào (tháng....) năm... (vì blog Free nên có thể nhiều hình ảnh bị mất, hoặc không load kịp, xin Quí Bạn thông cảm)
Nhìn lên trên, có chữ Suối Nguồn Tươi Trẻ là phần dành cho Thơ, bấm vào đó để sang trang Thơ. Khi mở Youtube nhớ bấm vào ô vuông góc dưới bên phải để mở rộng màn hình xem cho đẹp.
Cám ơn Quí Vị

Nhìn Ra Bốn Phương

Thứ Bảy, 3 tháng 3, 2018

Bản điều trần của Giáo-sư TRẦN ĐẠI-SỸ (IFA) - Phần Thứ nhì

Hình ải Nam-quan 1558-1885
4. VỤ NHƯỢNG LÃNH THỔ MỚI ÐÂY.
  • Hiệp định về biên giới trên đất liền Việt-Nam, Trung-quốc ngày 30-12-1999, ký tại Hà-nội giữa bộ trưởng Ngoại-giao Việt-Nam là Nguyễn Mạnh-Cầm với bộ trưởng Ngoại-giao Trung-quốc là Đường Gia-Truyền.<!>
     
  • Hiệp định phân định vịnh Bắc-bộ giữa Việt-Nam, Trung-quốc ngày 25-12-2000, ký tại Bắc-kinh giữa bộ trưởng Ngoại-giao Việt-Nam là Nguyễn Dy Niên và bộ trưởng Ngoại-giao Trung-quốc là Đường Gia Truyền, dưới sự chứng kiến của Chủ-tịch Việt-Nam Trần Đức Lương và Chủ-tịch Trung-quốc Giang Trạch Dân.

4.1 - Ai chịu trách nhiệm về hai hiệp định.
Hai hiệp định này đều ký trong thời gian 1999-2000. Vào thời kỳ này tại Việt-Nam thì:
  • Ông Lê Khả-Phiêu làm Tổng Bí-thư đảng Cộng-sản ViệtNam,
  • Ông Trần Ðức-Lương làm Chủ-tịch nhà nước,
  • Ông Nông Ðức-Mạnh làm Chủ-tịch Quốc-hội,
  • Ông Phan Văn-Khải làm Thủ-tướng.
  • Ông Nguyễn Mạnh Cầm làm Bộ trương Ngoại-giao.
Ai chịu trách nhiệm khi ký hai hiệp định trên? Cá nhân thì tôi không biết, nhưng có một điều tập thể thì ai cũng khẳng định là Bộ Chính-trị của đảng Cộng-sản Việt-Nam.
Không cần biết người ký là Chủ-tịch Trần Đức-Lương, Thủ-tướng Phan Văn-Khải hay Bộ-trưởng Ngoại-giao Nguyễn Mạnh-Cầm, Nguyễn Dy Niên. Tôi xin khẳng định: Ai ký cũng chỉ là người tuân lệnh Bộ Chính-trị đảng Cộng-sản Việt-Nam.
Những người quyết định là ai?
Ông Phan Văn-Khải, Nguyễn Mạnh-Cầm ư? Hai ông này không có quyền, dù có quyền các ông ấy cũng không dám quyết định. Ông Lê Khả-Phiêu quá yếu, không thể quyết định một mình. Ông Trần Đức-Lương, Nông Đức-Mạnh càng không có quyền gì.
Vì vậy tôi mới quyết đoán rằng vụ này do Bộ Chính-tri đảng Cộng-sản chủ trương. Hiện tất cả các ông trong Bộ Chính-trị thời Lê Khả-Phiêu vẫn còn sống, rất khỏe mạnh. Khi quyết định nhượng đất, biển cho Trung-quốc các ông ấy đều biết rất rõ rằng:
  • Tinh thần dân chúng bây giờ không phải như dân chúng hồi 1540. Trình độ dân chủ, phương tiện thông tin của đảng viên, của dân chúng vượt xa hồi 1958. Uy tín của Tổng Bí-thư Lê Khả-Phiêu không thể so sánh với Chủ-tịch Hồ Chí-Minh năm 1958. Mỗi vị trong Bộ Chính-trị bây giờ là một mảng, chứ không thể là một khối như Bộ Chính-trị hồi 1958. Các vị trong Bộ Chính-trị thời Lê Khả-Phiêu điều biết trước rằng: Ký hiệp ước nhượng lãnh thổ trong lúc này không thể bịt miệng, dấu diếm đảng viên cũng như dân chúng. Thế nhưng các ông ấy vẫn làm! Vì vậy phải có nguyên do gì trọng đại lắm. Liệu các ông có thể công bố cho quốc dân biết không?
 
Đến đây một cử tọa nói bâng quơ, câu hỏi 14
- Không lẽ trong Bộ Chính-trị, mà tìm chẳng ra một người yêu nước ư?
Gs TĐS đáp:
- Tôi tin rằng có rất nhiều người đầy tâm huyết. Song họ không thể bơi ngược dòng thác đổ. Nếu như ở Tây-phương, người nào không đồng ý, có thể từ chức. Nhưng ở các nước Cộng-sản thái độ này bị coi là phản động, tính mệnh khó toàn. Chính những vị này đã tiết lộ tin tức vụ nhượng đất ra ngoài.
Kể từ khi ký, dân chúng, đảng viên không được biết nội dung Hiệp-ước nói gì.
Mãi tới  tháng 2-2001, Thứ-trưởng Ngoại-giao Lê Công-Phụng, người trực tiếp vụ này mới công bố trên Tạp chí Cộng-sản, Quý-vị có thể tìm thấy bài này trên Internet.
Ghi chú (5) của IFA, dành cho bản Việt-Ngữ
Sau khi bài điều trần  của chúng tôi bị tiết lộ, báo chí, Internet bình luận sôi sục, thì hai bài này bị xóa bỏ).
 
  • Thời gian ấy (1999-2000) đảng Cộng-sản lấn át Chủ-tịch Nhà-nước, cũng như Thủ-tướng nhất. Đến nỗi Chánh-văn phòng Thủ-tướng chỉ vì nói một câu không mấy lịch sự với người đàn bà có thế lực trong đảng, mà bị bắt giam không lý do, Thủ-tướng không thể can thiệp cho ông ta tại ngoại.
     
  • Quyền gần như nằm trong tay ba ông Cố-vấn là cựu Tổng Bí-thư Đỗ Mười, cựu Chủ-tịch nhà nước Lê Đức-Anh và cựu Thủ-tướng Võ Văn-Kiệt. Ba ông này như ba Thái-thượng hoàng thời phong kiến. Tuy mang danh Cố-vấn, nhưng ba ông vẫn còn uy quyền tuyệt đối. Chắc Quý-vị còn nhớ bản điều trần của tôi vào tháng 9-1997, về vụ Tổng-bí thư Đỗ Mười và Thủ-tướng Võ Văn Kiệt mật đàm với Chủ-tịch Giang Trạch Dân. (Xin xem phụ bản 3).
     
  • Cũng trong thời gian ấy, cả thế giới (trừ Trung-quốc) đều có chính sách ngoại giao rất đẹp với Việt-Nam: Hoa-kỳ (Tổng-thống Bill Clinton), Liên-Âu, các nước ASEAN đang theo đuổi chính sách ngoại giao rất mềm dẻo với Việt-Nam. Nhất là Tổng-thống Clinton ký sắc lệnh bỏ cấm vận Việt-Nam, mở cửa cho sinh viên Việt-Nam sang du học Hoa-kỳ, mở cửa cho hàng Việt-Nam được nhập vào Hoa-kỳ. Nói tóm lại thời gian từ nửa năm 1999 cho đến cuối năm 2000, Việt-Nam không bị một áp lực quốc tế nguy hiểm nào, đến độ phải nhượng đất, nhượng biển cho Trung-quốc để được viện trợ vũ khí, để được che chở.
     
  • Cũng thời gian trên, Trung-quốc, Việt-Nam không có tranh chấp lãnh thổ, không có đụng chạm biên giới, không có căng thẳng chính trị, không có chiến tranh.
Vậy vì lý do nào mà các ông ấy cắt đất, cắt biển cho Trung-quốc?

4.2 - Chi tiết vụ cắt đất.
Vụ cắt đất ký ngày 30-12-1999, thì tôi được biết tin chi tiết, do hai ký giả Trung-quốc là bạn với tôi thông báo vào ngày 9-1-2000. Nghĩa là 10 ngày sau. Nhưng mãi đến ngày 14-2-2000, tôi mới có bản hiệp ước bằng cả hai thứ tiếng Việt, Hoa. Theo tinh thần bản hiệp định thì:
  • Việt-Nam nhường cho Trung-quốc dọc theo biên giới, 789 cây số vuông (chứ không phải 720  như tin lộ ra trong nươc), quan trọng nhất là vùng thuộc hai tỉnh Cao-bằng, Lạng-sơn.

  • Có mấy hiệp định thư (Photocol) đính kèm về việc thi hành. Quan trọng nhất là:
     
    • Nhượng vùng Cao-bằng, sát tới hang Pak-bó, nơi Chủ-tịch Hồ Chí Minh ẩn thân lãnh đạo cuộc kháng chiến. Hang này trở thánh địa của đảng Cộng-sản Việt-Nam. Trước kia nằm rất xa biên giới (khoảng 50 km), nay nằm sát biên giới.
       
    • Nhượng vùng đất bằng phẳng thuộc tỉnh Lạng-sơn nơi có cửa ải Nam-quan. (6)
       
Ghi chú, (6) của IFA.
IFA chúng tôi có nguyên văn hai bản Hiệp-định này bằng Hoa-văn, Việt-văn. Hiện đảng Cộng-sản cũng như nhà nước VN, giữ kín 2 bản văn này, đến nỗi cấp Bộ-trưởng, Đại-sứ, Ủy-viên Trung-ương đảng bộ cũng không có, nhiều vị không biết gì cả. Nhiều người Hoa-Việt gửi thư xin hai bản Hiệp-định này, chúng tôi cũng như Gs. Trần không thể thỏa mãn, vì cho thì vi phạm tác quyền. Chúng tôi không muốn gây hấn với đảng Cộng-sản của Trung-quốc và Việt-Nam. Vậy Quý-vị muốn có, xin hỏi tác giả là bộ Chính-trị đảng CS, bộ Ngoại-giao Trung-quốc cũng như bộ Chính-trị và bộ Ngoại-giao Việt-Nam. 
Đây là cuộc điều trần rất vô tư, Gs Trần giữ đúng ngôn từ ngoại giao, không hề có lời lẽ công kích, hay nhục mạ đối với đảng Cộng-sản và nhà nước Trung-quốc cũng như Việt-Nam. Mục đích của cuộc điều trần chỉ để thính chúng hiểu uyên nguyên sự thực mà thôi. Đường lối ngoại giao của Liên-Âu và của chính phủ Pháp đối, Việt-Nam rất mềm dẻo, chưa từng có hành động hay ý tưởng gây khó khăn cho nước Pháp thoại này. Chúng tôi (IFA), và Gs. Trần cũng phải tuân hành nghiêm chỉnh.
 
Về con số lãnh thổ
Ngày 1-2-2002,  Ngài Lê Công Phụng, Thứ trưởng Ngoại-giao VN, đặc trách vụ việc đàm phán với Trung-quốc có lên tiếng với báo chí qua cuộc phỏng vấn của nữ ký giả xinh đẹp Thu-Uyên (trên Web. Vasc Orient, http://www.Vnn.Vn ) rằng giữa Hoa-Việt có 227 km2 cần giải quyết tranh chấp. Chúng tôi hiểu là Ngài Lê Công-Phụng muốn nói 227 km2 hiện phải thảo luận. Còn những vùng mà Trung-quốc đóng quân, được nhượng dần dần từ 1947 đến giờ thì không tính. Nay hiệp định ký chỉ để hợp thức hóa truyện đã xẩy ra mà thôi. Có lẽ cách tính này của Ngàii Lê Công-Phụng cao minh hơn, giản dị hơn chúng tôi. Vì chúng tôi tính theo hiệp ước Pháp-Thanh 1887 và 1895, cho nên con số của chúng tôi là 789 km2. Sai biệt tới 562  km2. Khi công bố con số này, sở Kỹ-thuật của chúng tôi đã phải tính toán chi li, kiểm đi kiểm lại. Cách tính căn cứ vào ba bản đồ:
  • Ngay khi có bản hiệp định 30-12-1999 Hoa-Việt, sở Kỹ-thuật của chúng tôi đã căn cứ vào bản đồ mới nhất của Trung-quốc đính kèm Hiệp-định. Xin nói thêm là bản đồ của Trung-quốc, Việt-Nam(cs), và các nước Cộng-sản theo hệ thống khác. Chúng tôi phải đổi, thành hệ thống UTMû lệ xích 1/25000 .
     
  • Lại so sánh với bản đồ của Sở địa chánh thời Pháp (1900-1955) (service géographique de l'Indohine) đã đổi ra tỷ lệ xích 1/25000 hệ UTM. Tức là bản đồ theo hiệp ước Pháp-Thanh 1887 và 1895, sau đó được thi hành nghiêm túc suốt thời gian 1987-1955. Bản đồ này rất đúng, bằng cớ là trong chiến tranh Đông-dương, quân đội Pháp và Quốc-gia Việt-Nam đã dùng cho Pháo-binh, Không-quân tác xạ, rất chính xác.
     
  • Trong chiến tranh 1960-1970, VNCH có hẳn một Nha Địa-dư Quốc-gia tại Đà-lạt. Cơ quan này căn cứ vào đường phân ranh của Pháp, rồi  sửa đổi những biến đổi do thời gian, do khí hậu, được vệ tinh Hoa-kỳ chụp không ảnh trao cho để vẽ lại. Hồi trước 1975 quân đội VNCH, Hoa-kỳ, Đại-hàn, Thái-lan, Úc-đại-lợi, Tân-tây-lan; đã dùng cho Pháo-binh tác xạ, Không-quân oanh tạc rất chính xác.
Sau khi đo, chúng tôi tìm thấy có  789 Km2 trước kia thuộc lãnh thổ Việt, nay theo hiệp ước 30-12-1999 thuộc Trung-quốc. Trong khi những bài công kích của đối lập  ở trong nội địa VN gửi ra là 720 km2, sai biệt với con số của chúng tôi là  69 km2. Còn theo Đại-tá Quân-đội CHXHCNVN Bùi Tín thì con số là 900 km2. Phải hiểu rằng Đại-tá Bùi Tín là người từng qua lại biên giới Hoa-Việt nhiều lần, ông lại lớn tuổi, không thể đưa ra con số hàm hồ. Nhưng tại sao lại có sự sai biệt:
  • Con số của Ngài Lê Công-Phụng và Đại-tá Bùi Tín 673 km2 (227-900).
  • Con số của Ngài Lê Công-Phụng và đối lập trong nước 493 km2 (227-720).
  • Của chúng Ngài Lê Công Phụng với chúng tôi (IFA) 562 km2 (227-789).
     
Chúng tôi xin giải đoán:
  • Về con số của đối lập trong nước, hẳn họ căn cứ vào bản đồ hiệp định trên bộ như chúng tôi, rồi so sánh với bản đồ thời Pháp dùng cho học sinh, nhưng họ đo bằng lối ước tính trên giấy, kém chính xác một chút,  bản đồ ấy theo hệ thống UTM, trong khi bản đồ của hiệp định theo hệ thống CS.
     
  • Về con số của Đại-tá Bùi Tín chúng tôi giải đoán: giữa biên giới Hoa-Việt có 5 khu đất 29,300km2, 26,750 km2, 17,400km2, 21,003 km2, 16.547km2, vào thời Nguyễn; Nguyễn-Thanh coi như của chung, để cho hai bên dân chúng trao đổi hàng hóa (như vùng Andora của Pháp-Tây Ban Nha, không thuộc nước nào). Sau hiệp ước 1887 và 1895 tình trạng vẫn không thay đổi. Nhưng trên thực tế, Hoa coi là của Hoa, Việt bảo rằng của Việt. Trong chiến tranh 1945-1954 cac khu này thuộc Trung-quốc, nhưng trên pháp lý vẫn là của chung. Nay đảng Cộng-sản VN nhượng cho  Trung-quốc, nên Đai-tá Bùi coi như VN mất đứt khu này.
     
Về hang Pakbo
Hình chụp cửa hang Pak-bo. Hồi chiến tranh Hoa-Việt (1979)
Hồng-quân Trung-quốc đã phá hủy tất cả di vật,
cũng như cửa hang này.
Về hang Pak-bó, sở Kỹ-thuật của chúng tôi đo, kể từ biên giới cũ, đến cửa hang là: 50.035 m. Nay biên giới mới chỉ còn cách cửa hang có 1.511 m. Bản tin của Câu-lạc-bộ sinh viên (http://dungday.tripod.com) công bố ngày 5-2-2002 thì khoảng cách: Cũ là 48.900 m nay là 1.500 m. Hai con số gần với nhau.
Vậy chúng tôi ghi ra đây. Dù sao thì vấn đề này quan trọng đối với người Việt, người Hoa. Còn đối với IFA chúng tôi thì sự việc đã xong. Sổ sách đã khép lại. Chúng tôi (IFA) và Gs Trần Đại-Sỹ không dám có ý tưởng tranh cãi với Ngài Thứ-trưởng Lê Công Phụng. Hơn nữa chúng tôi không cần, không có thời giờ tranh cãi một vụ việc đã qua với bất cứ ai. IFA chúng tôi rất thông cảm nỗi khổ tâm của Ngài Lê Công Phụng, vì ngài tuân lệnh trên mà làm, nếu chống thì e tính mạng khó toàn. Sau khi hai hiệp định ký, Ngài Lê Công-Phụng được trao cho chức vụ đầy uy quyền là Trưởng-ban Biên-giới. Độc giả đừng coi thường từ Trưởng-ban. Chức vụ này rất lớn. Bởi với chức vụ này Ngài Lê ngồi cao hơn các Vụ-trưởng trong bộ Ngoại-giao. Trước kia ban này thuộc phủ Thủ-tướng, mới đây đưa xuống bộ Ngoại-giao. Từ nay Ngài Lê là người phác họa, quyết định đường lối về biên giới Việt-Nam, mà không phải trình lại thượng cấp (Bộ-trưởng) như đã trả lời cuộc phỏng vấn của nữ ký giả Thu-Uyên.
Khi vụ việc nhượng đất-biển bùng nổ, Ngài Lê Công- Phụng còn trẻ, tuổi đảng thấp, cũng chẳng là Ủy-viên Trung-ương; chỉ có công lao, thành tích là đảm trách đàm phán với Trung-quốc, nhượng lãnh hải, lãnh thổ cho Trung-quốc, mà được trao cho chức Trưởng-ban Biên-giới. Không chừng tương lai được lên làm Bộ-trưởng Ngoại-giao nữa.
 
Về thác Bản-giốc
Thác Bản-giốc thuộc tỉnh Cao-bằng. Suốt năm nghìn năm lịch sử,
thuộc lãnh thổ Việt. Nay cưa đôi, Trung-quốc,
Việt-Nam mỗi nước một nửa.
Thác Bản-giốc, theo Ngài Thứ-trưởng Lê Công Phụng thì trước hiệp định 30-12-1999, địa danh này chỉ nằm về ranh giới VN có 1/3, còn 2/3 thuộc Trung-quốc. Nay thì Trung-quốc, Việt-Nam cưa đôi. Điều này làm chúng tôi hơi ngạc nhiên. Vì suốt thời gian 1887-1955 trong thời Pháp thuộc, thác này nằm khá xa biên giới Hoa-Việt. Năm 1993, 1995, 1997 chúng tôi  có giúp đỡ cho ba công ty nước khoáng châu Âu thăm dò lưu lượng nước, thăm dò thành phần nước để khai thác thương mại. Các chuyên viên xin visa vào Việt-Nam:
  • 1993 Kỹ-sư J.P. Renault,
  • 1995, Bác-sĩ Trần Đại-Sỹ, kỹ sư F. Puririer,
  • 1997 Dược-sĩ Marie Christine Le.
Dưới  hình thức du lịch, rồi tới Bản-giốc. Như vậy rõ ràng  trước 1997 thác này còn nằm trên lãnh thổ Việt-Nam. Chứ nếu nằm trên lãnh thổ Trung-quốc thì phải xin visa vào Quảng-Tây, rồi tới Bản-giốc! Vả địa danh Bản-giốc đã in sâu vào tiềm thức giới trẻ VN vì họ từng đi cắm trại, sinh hoạt tại đây. Một số sách Việt-ngữ dành cho tuổi trẻ đã nói nhiều về thác này. Nay Ngài Thứ-trưởng bảo thác đó nằm trên lãnh thổ Trung-quốc từ thời Pháp-Thanh, chúng tôi e tuổi trẻ nay thành tuổi nhỡ, tuổi già VN, cũng không ai chịu. Chúng tôi theo dõi rất kỹ, từ lâu cuộc đàm phán Hoa-Việt về biên giới, nên rất thông cảm với Ngài Thứ-trưởng.
Chúng tôi cũng xin thưa rằng: sau khi vụ việc ký hai hiệp định nhượng đất, dư luận người Việt trong và ngoài nước sôi sục căm hờn, thì Bộ Chính Trị cũng như Chính-phủ Việt-Nam tuyên dương bộ Ngoại-giao là bộ "Năng động, hữu hiệu toàn diện nhất năm 2001". Như vậy đủ tỏ rằng bộ Chính-trị hiện thời với bộ Chính-trị thời Lê Khả Phiêu nhất trí với nhau trong vấn đề nhượng đất, biển.
 
Thưa Quý-vị,
4.3 - Ảnh hương vụ cắt đất.
4.3.1 - Mất biểu tượng năm nghìn năm của tộc Việt.
Khu Ải Nam-quan này là vùng đất thiêng, là Thánh-địa trong mấy nghìn năm của người Việt. Bất cứ người Việt nào từ 6 tuổi trở lên đều biết rằng phía Nam Ải Nam-quan là vùng đất tượng trưng biên giới phía Bắc, tượng trưng cho lãnh thổ, cho tinh thần tự chủ, cho niềm niềm tự hào của họ. Đây là vùng đất đi sâu vào  lịch-sử, văn-học và tâm tư toàn thể người Việt.
Trở về quá khứ, trong lần mạn đàm giữa Chủ-tịch Mao Trạch-Đông và Chủ-tịch Hồ Chí Minh. Chủ-tịch Mao Trạch-Đông đã nói:
"Cái tên Ải Nam-quan, nhắc nhở đến cuộc chiến do bọn phong kiến Hoa, Việt làm xấu tình hữu nghị nhân dân. Tôi xin đổi thành Mục Nam-quan. Mục là mắt, coi như nhân dân Trung-quốc luôn hướng mắt nhìn về nhân dân Việt ở phương Nam. Ngược lại coi như mắt của nhân dân Việt luôn nhìn về Bắc với tình hữu nghị".
Chủ-tịch Hồ Chí-Minh vui vẻ chấp thuận. Nhưng trên thực tế, chỉ có phía Trung-quốc in trên bản đồ địa danh Mục Nam-quan mà thôi. Còn phía Việt-Nam trên bản đồ hành chính, trên báo chí, văn học, vẫn dùng từ cửa Hữu-nghị.
Ghi chú đặc biệt của Trần Đại-Sỹ
Sau khi bài lày lộ ra, có 71 bài nghiên cứu cãi nhau về cái tên Nam-quan, xếp bắt tôi phải im lặng, mặc cho họ cãi nhau, kệ họ là thầy bói xem voi. Người thì bảo Nam-quan của Trung-quốc, kẻ thì bảo của Việt-Nam. Rồi họ cãi nhau lung tung về vị trí đích thực của Nam-quan.
Tháng 8-2002 nhân tôi sang Hoa-kỳ (California) thăm thân hữu, bị mấy nữ ký giả truyền hình quay như chong chóng, tôi đã buột miệng nói ra, thôi thì sự đã rồi, bây giờ tôi xin trình bầy ở đây (tôi vốn yếu bóng vía trước các người đẹp).
Có tất cả  có 5 "Nam-quan".
 
NAM QUAN THỨ NHẤT, của Trung-quốc (1558-1885)
Hình ải Nam-quan 1558-1885.
Vua Gia-Tĩnh, triều Minh ban chỉ kiến tạo năm 1558, mang tên Trấn Nam-quan, nhưng thường gọi bằng danh tự Nam-quan. Trấn Này nằm giữa hai ngọn núi nhỏ, chặn ngang đường từ Lạng-sơn đi Ung-châu (Nam-ninh). Nằm về phía Nam trấn này 2 dặm là ải Phả-lũy của Việt-Nam. Biên giới Hoa-Việt được kể từ chân ải Nam-quan. Tháng 6 năm Đinh Hợi 1406, tại phía Nam ải này có cuộc tiễn đưa lịch sử giữa Nguyễn Phi Khanh và Nguyễn Trãi, rồi có suối Phi-Khanh.
Năm 1884, triều đình Nguyễn ký hiệp ước chịu sự bảo hộ của Pháp. Thiếu-tướng Francois Oscar De Négrier được cử làm tư  lệnh vùng biên giới phía Đông của Hoa-Việt. Trong lúc giao thời Pháp-Việt, ải Phả-lũy bỏ không. Quân Thanh tràn sang phá ải, rồi cướp phá vùng Đồng-đăng. Ngày 24 tháng 3 năm 1884, Thiếu-tướng De Négrier tổ chức cuộc hành quân đánh đuổi quân Thanh.  Quân Thanh đại bại, Tổng-binh Sầm Quang Anh bị giết. Ngày đầu năm 1985, Tổng-binh Nùng Mặc Sơn, đem một trung đoàn Thanh tấn công, chiếm đồn Phả-lũy rồi tràn vào Lạng-sơn cướp phá. Tướng De Négrier đem 3 tiểu đoàn (2 tiểu đoàn Pháo-thủ, một Tiểu-đoàn bộ binh thuộc địa), đánh đuổi quân Thanh, giết Nùng Mặc Sơn. Ngày 5-1-1885, chiếm ải Nam-quan, đặt chất nổ san bằng.
 
NAM QUAN THỨ NHÌ, của Trung-quốc, Việt-Nam (1886-1952)
Sau khi thỏa ước Pháp-Thanh ký, Nam-quan được xây lại bằng ngân sách của chính phủ Đông-dương và  Thanh-triều. Ải xây bằng đá mài, mái cong rất đẹp. Trong ải một nửa thuộc Pháp, một nửa thuộc Thanh. Mỗi bên đều có cơ quan Cảnh-sát, lính biên phòng, quan thuế. Tiền tu bổ hằng năm, do ngân sách tỉnh Quảng-Tây và Lạng-sơn đài thọ.  
Biên giới Hoa-Việt được kể từ giữa ải: Nam của Việt, Bắc của Hoa. Thời gian này VN soạn thảo sách giáo khoa Việt-ngữ, bởi vậy mới có câu:
"Nước Việt-Nam dình chữ S chạy từ ải Nam-quan đến mũi Cà-mâu"
Trong chiến tranh Quốc-Cộng 1949, ải này bị phá hủy.
 
NAM QUAN THỨ BA, (Mục Nam-quan) của Trung-quốc (1952-2001)
Hồi chiến tranh Việt-Pháp (1946-2001), sau chiến dịch Cao-Bắc-Lạng, Chủ-tịch đảng Cộng-sản Việt-Nam là Hồ Chí Minh sang Trung-quốc cầu viện với Chủ-tịch đảng Cộng-sản Trung-quốc. Hai bên thỏa thuận bằng những hiệp ước mật. Trung-quốc cho xây Mục Nam-quan, lùi vào lãnh địa Việt-Nam. Hình trên, không thấy hai ngọn núi và suối Phi-Khanh đâu. Mục đích việc lùi biên giới này như sau: Vùng phía Bắc Mục Nam-quan tuy là lãnh thổ Việt-Nam, nhưng bây giờ là của Trung-quốc. Như vậy Pháp không dám dùng không quân oanh tạc. Đó là vùng an ninh để Hồng-quân lập các trung tâm huấn luyện quân Việt-Minh. Sau chiến tranh (1954) Trung-quốc giữ luôn. Trong chiến tranh 1960-1975, không quân Hoa-kỳ cũng ê càng không dám oanh tạc khu này.
 
NAM-QUAN THỨ TƯ, (1952-1979)
Phía Nam Mục Nam-quan mấy trăm thước, chính phủ Việt-Nam Dân-chủ Cộng-hòa cũng cho xây một cửa ải nữa, mang tên cửa Hữu-nghị. Tại đây có đầy đủ các cơ quan như: Công-an biên phòng, Hải-quan, Bưu-điện v.v. Trong chiến tranh 1979, Trung-quốc san bằng cái cửa Hữu-nghị này. Chúng tôi không còn lưu trữ được hình ảnh.
Sau chiến tranh, VN cho xây lại một cữa Hữu-nghị khác. Nhưng từ khi ký hiệp định 1999, thì cái Hữu-nghị này phá bỏ. ViệtNam xây cửa Hữu-nghị mới lùi lại sau mấy trăm thước nữa.
 
NAM-QUAN THỨ NĂM (2001- ?).
Cửa Hữu-nghị mới xây lại năm 2001.
Ảnh chụp tháng 8-2001, cửa Nam-quan cũ lùi lại sau,
Cửa Hữu-nghị mới!!!
 
4.3.2 - Mất cửa ngõ giao thông lịch sử giữa tộc Hoa, tộc Việt.
Tôi đã nhiều lần từ Việt-Nam sang Trung-quốc bằng cửa ải này và ngược lại. Lãnh thổ  Hoa-Việt được phân chia bởi một con sông nhỏ. Đây là cửa họng giao thông của Trung-quốc, Việt-Nam bằng đường bộ. Suốt hơn mấy nghìn năm qua, dân Hoa-Việt giao thương đều qua đây. Chính vì vậy mà con đường quốc lộ xuyên Việt mang tên Quốc-lộ 1, được đánh số cây số Zéro từ đầu cây cầu Nam-quan. Tất cả thư tịch Việt-Nam đều chép rằng:
"Con đường Bắc-Nam khởi từ ải Nam-quan".
Hoặc:
"Lãnh thổ Việt-Nam Bắc giáp Trung-hoa, khởi từ ải Nam-quan đến mũi Cà-mâu, theo hình chữ S".
Bây giờ nếu Quý-vị vào Website của Bộ Ngoại-giao Việt-Nam, Quý-vị sẽ không thấy hàng chữ trên, mà chỉ thấy câu:
"Lãnh thổ Việt-Nam khởi từ cây số không ở phía Bắc".
Thưa Quý-vị,
Cái cây số không đó là cây số 1,5 cũ đấy. Cột cây số Zéro bây giờ ở nằm giửa Mục Nam-quan và cửa Hữu-nghị mới. Từ cây số Zéro đến cây số 1,  nay thuộc Trung-quốc.
Sát Mục Nam-quan, phía bên Trung-quốc cũng như Việt-Nam, đều có nhiều cơ sở:
  • Cơ sở Hải-quan,
  • Bãi đậu cho hằng trăm xe tải, để chờ kiểm soát, chờ làm thủ tục nộp thuế.
  • Cơ sở di trú của Công-an để kiểm soát Passeport,
  • Đồn của quân đội để tuần phòng, bảo vệ lãnh thổ,
  • Hằng chục cơ quan, khác như Bưu-điện, Ngân-hàng, công ty điện, nước.
  • Về phía dân chúng, hằng trăm cửa hàng ăn, nhà ngủ, khách sạn.
Các cơ sở phía Nam thuộc Việt-Nam, trong chiến tranh Hoa-Việt 1979, quân đội Trung-quốc đã san bằng hết. Kể cả cây cột biên giới.
Tuy vậy sau chiến tranh, đã xây dựng lại hoàn toàn. Từ khi có phong trào mở cửa, đổi mới chính trị, dân chúng cả hai bên đã xây dựng lại khang trang hơn cũ, rộng lớn hơn cũ, và hiện đại hơn  cũ. Nhưng từ khi hiệp định 30-12-1999 ký thì toàn bộ khu này thuộc Trung-quốc. Những cơ sở đó bây giờ được thay bằng một tòa nhà duy nhất. (Hình đính kèm)
Hình chụp từ phía lãnh thổ Trung-quốc mới (VN cũ) sang,
căn nhà này là Nam-quan thứ 5, trong nước gọi là
cửa khẩu Hữu-nghị của VN (mới)

4.3.3, Mất dân, mất di tích lịch sử.
Đi sâu vào khu vực phía Nam của Nam-quan ít cây số nữa là quận lỵ Đồng-đăng, rồi tớiø tỉnh lỵ Lạng-sơn. Đây cũng là đất thiêng, khu có di tích văn hóa lịch sử của tộc Việt: Động Tam-thanh, tượng núi Tô-thị, thành của bọn giặc Mạc trên núi. Vùng Lạng-sơn xưa là Thủ-đô của con cháu giặc Mạc Đăng-Dung, mà năm 1540 đã dâng đất cho Trung-quốc, để được bao che cát cứ quân phiệt một thời gian. Trong chiến tranh Hoa-Việt 1979, hầu như  toàn bộ các cơ sở kỹ nghệ, cầu cống, dinh thự, di tích tôn giáo, lịch sử, cơ sở hành chính, thương mại, kể cả nhà cửa của dân chúng bị san bằng. Chắc Quý-vị cho rằng tôi dùng từ Coventry có đôi chút quá đáng. Thưa Quý-vị từCoventry cũng chưa đủ để chỉ việc quân đội Trung-quốc đã làm ở Lạng-sơn. Kinh khiếp nhất là động Nhất-thanh, Nhị-thanh, Tam-thanh, họ cũng dùng đại bác bắn vào làm hư hại rất nhiều.
Đi sâu về phía Nam ít cây số nữa là Ải Chi-lăng, nơi mà quân Trung-quốc vượt qua không biết bao nhiêu lần để tiến về thủ đô Thăng-long của Việt-Nam xưa. Tại đây đã diễn ra những trận chiến ác liệt, khiến ít nhất 73 vạn quân của các triều đại Tống, Mông-cổ, Minh, Thanh bị giết. Và cũng tại đây, có không biết bao nhiều tướng của các triều đại trên bị tử trận. Khi quân Việt giết những tướng, dù vào thời kỳ nào chăng nữa thì đầu vẫn bêu tại một mỏm núi, gọi là núi Đầu-quỷ.
Tại ải Chi-lăng, núi Đầu-quỷ đều khắc bia đá ghi lại di tích lịch sử.
Hồi chiến tranh Hoa-Việt 1979, khi các tướng Hồng-quân cho quân tiến đến đây, nghe nhắc chuyện cũ thì họ toát mồ hôi lạnh, phải ngừng lại. May mắn thay khu này vẫn còn thuộc lãnh thổ Việt. (2 hình đính kèm)
Bia lưu niệm Ải Chi-lăng
 
Cửa Ải Chi-lăng, yết hầu biên giới vào đồng bằng Bắc-bộ
Trở lại vùng đất mà đảng Cộng-sản Việt-Nam đã nhượng cho Trung-quốc, dĩ nhiên họ nhượng cả dân chúng nữa. Trong năm nghìn năm lịch sử chiến tranh Hoa-Việt, dân chúng, chiến sĩ tại vùng này là lực lượng đầu tiên chống quân Trung-quốc. Họ phải hy sinh tính mạng, tài sản đầu tiên, khi quân Trung-quốc đánh sang. Có không biết bao nhiêu di tích, huyền sử về núi non, về sông ngòi, về cuộc chiến, về gương anh hùng. Chính quyền các triều đại đều tuyên dương công lao của họ, họ từng hãnh diện đời nọ sang đời kia. Bây giờ vùng này trao cho Trung-quốc, kẻ thù năm nghìn năm của họ. Họ bị mất mát quá nhiều về tinh thần. Họ phải cúi mặt chịu sự cai trị của kẻ thù. Bao nhiêu di tích lịch sử, huyền sử phải phá bỏ, không được nhắc tới. Thương tổn tinh thần quá lớn.
Gần đây nhất, trong chiến tranh 1979, phía Việt cũng như Trung-quốc, chôn trên lãnh thổ mình, dọc theo biên giới mấy chục vạn quả mìn. Sau chiến tranh mới đào lên. Phía Việt lập rất nhiều đồn, hầm, công-sự chiến đấu dọc biên giới thành 4 vòng đai. Mấy chục nghìn chiến sĩ Việt tử trận tại đây. Hiện những cơ sở đó vẫn còn. Trong khu vực này dân chúng, gia đình liệt sĩ đã ghi dấu tưởng niệm thân hân họ. Nay trao cho Trung-quốc, dĩ nhiên các di tích này bị phá hủy. Dân chúng đang là lực lượng chong mặt với kẻ thù, bảo vệ lãnh thổ, nay họ bỗng trở thành những người Trung-quốc bất đắc dĩ. Các vòng đai phòng thủ bị mất. Dân tộc Việt-Nam mất mát về an ninh quá nhiều.
 
Ghi chú của IFA
Chúng tôi xin sao nguyên văn bản hiệp ước Pháp-Thanh ngày 26-6-1887 tại văn khố Pháp.
Les Commissaires nommés par:
- Le Président de la République Française,
- et par S.M l'Empereur de Chine,
en exécution de l'article 3 du Traité du 9 Juin 1885 pour reconnaỵtre la frontière entre la Chine et le Tonkin ayant terminé leur travaux,
Monsieur. Ernest Constans, député, ancien Ministre de l'intérieur et des cultes, commissaire du Gouvernement, envoyé extraordinaire de la République Française,
d'une part, Et S.A.le Prince K'ing, prince du second rang, président du Tsoung-li-Yamen, assisté de S.Exc. Souen-Yu Quen, membre du Tsoung-li-Yamen, premier vice-président du ministère des travaux publics;
Agissant au nom de leurs gouvernement respectifs;
Ont décidé de consigner dans le présent Acte les dispositions suivantes destinées a régler définitivement la délimitation de ladite frontière:
- 1° Les procès-verbaux et les cartes y annexées qui ont été dressées et signés par les Commissaires Français et Chinois sont et demeurent approuvés;
- 2° les points sur lesquels l'accord n'avait pu se faire entre les deux commissions, et les rectifications visées par le deuxième paragraphe de l'article 3 du Traité du 9 Juin 1885 sont réglés ainsi qui suit:
Au Kouang-tong, il est entendu que les points contestés qui sont situes a l'est et au nord-est de Monkạ, au-delà de la frontière telle qu 'elle a été fixée par la Commission de délimitation, sont attribués à la Chine.
Les ỵles qui sont à l'est du méridien de Paris 105° 43' de longitude est, c'est à dire la ligne nord-sud passant par la pointe orientale de l'ỵle de Tch’a Kou ou Ouanchan (Tra-co) et formant la frontière ,sont également attribuées a la Chine. Les ỵles Go-tho et les autres ỵles qui sont à l'ouest de ce méridien appartiennent à l'Annam. Les Chinois coupables ou inculpés de crimes ou de délits qui chercheraient refuge dans ces ỵles , seront, conformément au stipulations de l'article 27 du Traité du 25 Avril 1886, recherchés , arrêtés et extradiés par les Autorités Françaises.
Sur la frontière du Yun-Nan, il est entendu que la démarcation suivra le tracé suivant: De Keou-teou-tchai (Cao-dao-trai) sur la rive gauche du Siao-tou-tcheou-ho (Tien-do-chu-ha), point M de la carte de la deuxième section , elle se dirige pendant 50 lis (20 km) directement de l'ouest vers l'est en laissant à la Chine les endroits de Tsui-kiang-cho ou Tsui-y-cho (Tu-nghia-xa), Tsui-mei-cho (Tu-mi-xa) Kiang-fei-cho ou Y-fei-cho (Nghia-fi-xa), qui sont au nord de cette ligne, à l'Annam celui de Yeou-p'ong-cho (Hu-bang-xa) qui en est au sud, jusqu'aux points marqués Pet Q sur la carte annexe ou elle coupe les deux branches du second affluent de droite de Hoi-ho (Hac-ha) ou Tou-cheou-ho (Do chu-ha).A partir du point Q, elle s'infléchit vers le sud-est d'environ 15 lis(6 km),jusqu'au point R, laissant à la Chine le territoire de Nan-ian (Nam-don) au nord de ce point R; puis à partir de ce dit point remonte vers le nord-est jusqu'au point S,en suivant la direction traçée sur la carte par la ligne R-S,le cours de Nan-teng-ho (Nam-dang-ha) et les territoires de Manmẹ (Man-mi),de Mong-tong-chang-s'oun (Muang-dong-troung-then), de Mong-tuong-chan (Muong-dong-son), de Mong-tuong-tchoung-ts’uon (Muong-dong-truong-thon) et de Meng-tuong-chia-ts'ou (Muong-dong-ha-thon) restant a l'Annam. A partir du point S (Meng-tuong-chia-ts’ou ou Muong-dong-ha-thon), le milieu du Ts'ing-chouei ho (Than thuy ha ) indique jusqu'à son confluent , en T, avec la rivière Claire , la frontière adoptée. Du point T,  son tracé est marqué par le milieu de la rivière Claire jusqu'au point X, à hauteur de Tch'ouan-teou (Thuyen-dan. Du point X, elle remonte jusqu'au point Y, en passant par Paiche-yai (Bach-thach-giai) et Lao-ai-k'an (Lao-hai-kan), la moitié de chacun de ces deux endroits appartenant a la Chine et à l'Annam;ce qui est à l'est appartient à l'Annam, ce qui est a l'ouest à la Chine. A partir du point Y ,elle longe, dans la direction du nord, la rive droite du petit affluent de gauche de la rivière Claire, qui la reçoit entre Pien-pao-kia (Bien-bao-kha) et Pei-pao (Bac-bao) et gagne ensuite Kao-ma-pai (Cao-mabach),point Z ou elle se raccorde avec le tracé de la troisième section.A partir de Long-po-tchai (cinquième section), la frontière commun du Yun Nan et de l'Annam remonte le cours du Long-po-ho jusqu'à son influent avec le Ts'ing-chouei-ho ,marqué A sur la carte; du point A , elle suit la direction générale du nord-est au sud-ouest jusqu'au point B indiqué sur la carte ,endroit ou le Sai-kiang-po reçoit le Mien-chouei-ouan; dans ce parcours ,la frontière laisse à la Chine le cours du Ts'ing-chouei-ho. Du point B, la frontière, la direction est-ouest jusqu'au point C ó elle rencontre le point Teng-tiao-tchiang au dessous de Ta-chou-tchio ; Ce qui est sud de cette ligne appartient à l'Annam, ce qui est au nord ,à la Chine. Du point C, elle descend vers le sud en suivant le milieu de la rivière Teng-tiao-Tchiang jusqu'à son confluent au point D avec le Tsin-tse-ho. Elle suit ensuite le Tsin-tse-ho pendant environ 30 lis et continue dans la direction est-ouest jusqu'au point D ou elle rencontre le petit ruisseau qui se jette dans la rivière Noire (Hei-tciang ou Hac-giang) à l'est du bac de Meng-pang.Le milieu de ce ruisseau sert de frontière du point E au point F.A partir du point F, le milieu de la rivière Noire sert de frontière à l'ouest.
Les Autorités locales Chinoises et les Agents désignés par le Résident générale de la République Française en Annam et au Tonkin seront chargés de procéder a l'abornement, conformément aux cartes dressées et signées par la Commission de délimitation et au tracé ci-dessus. Aux présent actes sont annexées trois cartes en deux exemplaires, signées et scellées par les deux parties. Sur ces cartes, la nouvelle frontière est tracé par un trait rouge et indiquez sur la carte de Yun Nan par les lettres de l'alphabet française et les caractères cycliques Chinois.
Fait a Pékin, en double expédition, le 26 Juin 1887. ( Signature et cachet du Plénipotentiaire Chinois)
Signé:Constans
(Cachet de la légation de France à Pékin)
 
Phụ đính 1
Bản đồ biên giới vùng Nam-quan theo
hiệp ước Pháp-Thanh 26 tháng 6 năm 1887
 

4.4 - Vụ cắt lãnh hải.
Hiệp định phân định lãnh hải Việt-Nam, Trung-quốc ngày 25-12-2000.
Từ giữa thế kỷ thứ 19 về trước, chưa từng có việc ấn định rõ lãnh hải Việt-Hoa. Tuy nhiên vào thế kỷ thứ 15, Việt-Nam đã định lãnh hải qua vụ nhà vua sai vẽ Hồng-đức bản đồ. Theo bản đồ này thì các quần đảo Hoàng-sa (Tây-sa) và Trường-sa (Nam-sa) thuộc Đại-Việt. Và hai quần đảo đó đều thuộc Việt-Nam cho đến khi Bộ Chính-trị thời 1958 trao cho Trung-quốc (trên lý thuyết).
Vào những thời kỳ ấy (1500-1887) , Thủy-quân cũng như thương thuyền, tầu đánh cá của cả Hoa lẫn Việt chỉ là những thuyền nhỏ, không ra xa bờ biển làm bao, nên chưa có những đụng chạm.
Sau khi triều Nguyễn của Việt-Nam ký hòa ước năm 1884, công nhận quyền bảo hộ của Pháp; thì người Pháp mới định rõ lãnh hải. Nước Pháp với tư cách bảo hộ Việt-Nam, đã ký với Thanh-triều hòa ước 1887, định rõ lãnh hải trong vùng vịnh Bắc-Việt. Đối với hòa ước này, Việt-Nam đã chịu khá nhiều thiệt hại, vì mất một số đảo, mà dân chúng là người Việt, nói tiếng Việt, mặc y phục Việt, sống trong văn hóa Việt. Cho đến nay (2001), dân trên các đảo này vẫn còn nói tiếng Việt, ẩm thực theo Việt, và dùng y phục Việt. (Chúng tôi đã từng thăm vùng này hồi 1983).
Tuy nhiên với hòa ước 1887, lãnh hải vịnh Bắc-Việt được phân chia như sau:
  • Trung-quốc 38 %
  • Việt-Nam   62%
Đối với người Pháp, thời đó họ chưa hiểu rõ tình trạng giữa Trung-hoa và Việt-Nam, họ thấy Thanh-triều chấp nhận 38%, thì cho rằng mình thắng thế. Còn Thanh-triều khi đạt được 38%, họ coi như một món quà trên trời rơi xuống. Vì trong quá trình lịch sử, Trung-quốc vẫn coi vịnh Bắc-Việt là của Việt-Nam.
Chứng cớ:
  • Vùng đất Hợp-phố là đất cực Nam của Trung-quốc, thế nhưng lại có hải cảng Bắc-hải. Bắc đây chỉ có thể là Bắc đối với Việt-Nam. Nếu là đất của Trung-quốc họ phải gọi là thị xã Nam-hải chứ? Rõ ràng vùng này là đất cũ của Việt-Nam.
     
  • Vùng vịnh nằm ở phía Nam Trung-quốc, phía Tây đảo Hải-Nam, phía Đông Bắc Việt-Nam mà Pháp-Hoa ký hòa ước 1887 đó, Việt-Nam gọi là vịnh Bắc-Việt. Trung-quốc cũng gọi là vịnh Bắc-bộ. Cho đến nay (2001), họ cũng vẫn dùng tên đó. Vậy thì rõ ràng vịnh này của Việt-Nam. Nếu của Trung-quốc thì họ phải gọi là vịnh Nam-bộ chứ?
 
Cử tọa hỏi, câu hỏi thứ 15,
Có sách Tây-phương nào viết về vấn đề này không?
Gs TĐS,
Nhiều lắm, tôi xin cử ra vài tài liệu mới đây:
  • Edward H.H, Schafer trong Shore of Pears (châu Nhai) (Berkley-London 1970),

    Tác giả căn cứ vào khai quật, cũng như khảo cổ đã kết luận rằng:

    Vào thời Hán, đảo Hải-Nam không có đường thông thương với Trung-quốc. Đảo này thuộc Giao-chỉ. Tất cả thương thuyền đều từ Giao-chỉ tới. (TĐS ghi chú dành riêng cho người Việt: Tôi đã tới Hải-Nam nghiên cứu 2 lần. Tại đây tôi tìm ra nhiều di tích thời vua Trưng, nên trong bộ "Cẩm-khê di hận" tôi đã thuật lại trận chiến giữa Hán-Việt. Nhiều "học giả" ngu dốt, công kích tôi, thấy họ ngu quá tôi không trả lời.)
 
Cử tọa hỏi câu hỏi thứ 16,
- Xin cho biết việc phân chia lãnh hải Hoa-Việt theo hiệp ước 1887?
Gs TĐS,
Tôi xin chiếu lên để Ngài thấy.
Đảo Hải-Nam, lãnh thổ thời Lĩnh-Nam (vua Trưng) 
về trước. Hình vẽ trong sách của E.H. Schefer.

Bản đồ Hiệp-ước Pháp-Hoa 1887
 
Cử tọa hỏi, câu hỏi thứ 17,
Tôi thấy bản đồ đính kèm bản tuyên bố 1958 của Trung-quốc, chỉ  ấn định vùng biển Nam-hải, mà không đề cập đến vịnh Bắc-bộ. Như vậy có nghĩa rằng họ công nhận lãnh hải trong vịnh theo Hiệp-ước Pháp-Thanh 1887?
Gs TĐS,
Quả đúng như Ngài  suy đoán. Nhưng chỉ vì gần đây Trung-quốc biết được trong vịnh có trữ lượng dầu lửa lớn, nên mới đòi VN, cắt vùng này cho họ.
 
Cử tọa hỏi, câu hỏi thứ 18,
- Cho chúng tôi chứng cớ.
Gs TĐS,
- Thưa có rất nhiều.
Trước hết là những hoạt động của Trung-quốc trong vùng vịnh này.
  • Ngày 19 rồi 30-8-1992, Trung-quốc đưa hai tầu tìm dầu lửa trong vịnh Bắc-bộ.
     
  • Ngày 30-9-1992 tầu Nam-hải 6 của Trung-quốc xâm nhập vùng cách Đông-Nam cửa biển Ba-lạt của VN 112km.
     
  • Tầu Phấn-đấu 5  nghiên cứu tại cửa biển Hải-phòng, cách bờ biển Thái-bình 70 dậm.
Phía VN phản đối, nhưng Trung-quốc chối rằng họ đâu có nhập hải phận VN.
  • Trung-quốc tự định lãnh hải trong vịnh Bắc-bộ, vượt ranh giới lãnh hải ấn định bởi Hiệp-ước Pháp-Thanh, họ tự đặt tên là Tây-thủ (Main de l'Est, Hands off area), rồi cấm ngư phủ, Thủy-quân Việt đi vào.
     
  • Về phía chúng ta, từ năm 1970, người Hoa-kỳ đã thăm dò tìm dầu lửa trong biển Nam-hải, và vịnh Bắc-bộ. Tài liệu của  báo  Petroleum News (USA, Feb. 1984), đăng bản đồ của Selig S. Harrison chỉ rõ khu có dầu lửa. 
Khu vực Trung-quốc tự ấn định mới đây (1983) rồi cấm 
Hải-quân, Thương-thuyền, thuyền đánh cá Việt-Nam 
đi vào mang tên Tây-thủ (Hands off area)
 
Kính thưa Quý-vị,
Chúng tôi xin chiếu bản đồ phân chia lãnh hải, cũng như khu vực đánh cá mới theo Hiệp-định 25-12-2000.
Bản đồ hiệp định mới về khu vực đánh cá
dành cho Trung-quốc (25-12-2000)
 
Bản đồ lãnh hải theo hiệp định 25 tháng 12 năm 2000
 
Như vậy theo hiệp định Việt-Hoa 25-12-2000 thì vùng vịnh Bắc-bộ được chia ra như sau:
  • Việt-Nam   53%
  • Trunguốc   47%.
So với trước 1887 thì Việt-Nam chỉ mất có 38%, nay mất thêm 9% nữa, cộng chung là 47%!

4.5 - Ảnh hương vụ cắt lãnh hải.
4.5.1 - Mất lãnh hải, quốc sản.
Theo hiệp định này thì rõ ràng đảng Cộng-sản Việt-Nam đã nhường cho Trung-quốc tới 9% lãnh hải vùng vịnh Bắc-Việt. Cái đau đớn là vùng nhượng là vùng:
  • Có nhiều hải sản về cá thu, cá song, cá hồng, mực là những loại hải sản quý.
  • Dưới đáy biển có mỏ hơi đốt, và dầu lửa.
  • Một số đảo trong vùng nhượng, thuộc Trung-quốc.

4.5.2 - An ninh quốc gia bị đe dọa.
Nếu vụ nhượng đất nguy hại về phương diện tinh thần, kinh tế, thì vụ nhượng lãnh hải lại nguy hại về an ninh. Vì Trung-quốc có thể dùng các đảo này làm phi trường quân sự, căn cứ Hải-quân để uy hiếp Thủ-đô Hà-nội và các tỉnh trung châu Bắc-Việt và miền Trung, miền Nam Việt-Nam. Nhất là hai qyan đảo Hoàng-sa, Trường-sa.
Tin của ECL ghi lại, trong những cuộc hội đàm Hoa-Việt về lãnh hải, Trung-quốc đòi cho được mấy đảo nhỏ trong vùng, nhất là đảo Bạch-long vĩ. Hiện thì đảo này vẫn thuộc Việt-Nam. Nhưng trong các cuộc đàm phán hiện còn đang tiếp diễn thì Trung-quốc cố đòi, phía Việt-Nam, trong nội bộ cũng đã đồng ý. Cũng những tin của ECL về các cuộc hội của Bộ Chính-trị đảng Cộng-sản Việt-Nam thì việc chủ trương nhượng các đảo do quyết định của toàn thể, không do ba ông Cố-vấn Đỗ Mười, Lê Đức-Anh  hay Võ Văn-Kiệt. Để tỏ ý hoàn toàn quy phục Trung-quốc. Chính ông Lê Khả Phiêu,  đã trao cho Trung-quốc toàn bộ kế hoạch phòng thủ phía Bắc Việt-Nam. Theo ý kiến chúng tôi, thì trong Bộ Chính-trị bấy giờ, nhóm quân đội rất mạnh, chủ chốt có ba vị tướng là Lê Khả-Phiêu, Phạm Văn-Trà, Phạm Thanh-Nhàn. Trong tài liệu này, có phần ước tính tình hình Trung-quốc, Việt-Nam, đại lược như sau:
  • "Trung-quốc không có khả năng dùng Không-quân tấn công vào Thủ-đô Hà-nội và các tỉnh đồng bằng Bắc-bộ. Vì khoảng cách từ các phi trường Quảng-đông, Quảng-tây, Vân-nam, Hải-Nam  quá xa. Phi cơ chỉ có thể tới oanh tạc, nhưng trở về thì không đủ nhiên liệu.
     
  • Nếu Trung-quốc tiến công bằng đường bộ, thì ít nhất phải có một triệu quân. Với một triệu quân mỗi ngày cần 10.000 lượt ô-tô tiếp tế. Mà đường bộ thì các ngả Lai-châu, Lào-cai, Hà-giang không dùng được. Chỉ có ba ngả chính tạm dùng. Một là Lạng-sơn, hai là Hạ-long (Quảng-yên cũ) ba là Cao-bằng. Ba ngả đó  đường xá gồ ghề, núi non hiểm trở. Với 10.000 lượt xe, thì chỉ ba ngày là đường nát hết.
     
  • Địa thế hiểm trở, khúc khuỷu của ba con đường này, chỉ cần ba người đóng một chốt, cũng đủ cản trở một ngày tiếp tế.
     
  • Trong bối cảnh chiến tranh Hoa-Việt xẩy ra, thì Thủ-đô cũng như Bộ Chính-trị, Bộ Tổng Tư-lệnh có thể chuyển vào Thành-phố Hồ Chí-Minh.
     
  • Trường hợp đó bắt buộc Trung-quốc phải dùng đường biển tiếp tế, chuyển quân. Hai quân cảng lớn sử dụng sẽ là Bắc-hải, Quảng-châu, Hải-Nam. Cả ba cùng xa, rất khó khăn".
Nếu bây giờ Trung-quốc được mấy đảo trong vịnh Bắc-Việt, nhất là đảo chiến lược Bạch-long-vĩ,rất gần với thềm lục địa của trung châu Bắc-bộ , miền Trung và miền Nam. Nếu như Trung-quốc được đảo này, rồi thiết lập căn cứ Không-quân, Hải-quân, trạm tiếp vận tại đây, thì toàn bộ lãnh thổ Việt-Nam bị uy hiếp nặng nề. Ông Lê Khả-Phiêu, Phạm Văn-Trà, Phạm Thanh-Nhàn đều  là tướng lãnh, từng cầm quân trên 40 năm, thì các ông phải biết rõ điều đó. Biết, nhưng các ông vẫn làm, thì có nghĩa là các ông muốn: "Việt-Nam vĩnh viễn nằm trong vòng kiềm tỏa của Trung-quốc". Còn như các ông ấy làm việc đó để
Được gì, cho ai, vì ai?
thì tôi chịu.
 
4.6.  Về bộ Chính-trị
Bộ Chính-tri hiện giờ  (2001) gồm có  15 vị, xếp theo thứ tự quyền hành là:
  1. Nông Đức Mạnh, Tổng-bí thư.
  2. Trần Đức Lương, Chủ-tịch nhà nước.
  3. Phan Văn Khải, Thủ-tướng,
  4. Nguyễn Minh Triết, Bí thư thành ủy thành phố Hồ Chí Minh.
  5. Nguyễn Tấn Dũng, Phó Thủ tướng, Thường-trực chính phủ.
  6. Lê Minh Hương, Thượng-tướng, Bộ trưởng bộ Công-an.
  7. Nguyễn Phú Trọng,  Bí thư thành ủy Hà-nội.
  8. Phan Diễn, Bí thư Thành-ủy Đà-nẵng.
  9. Lê Hồng Anh, Phó Chủ-nhiệm ủy ban kiểm tra trung ương.
  10. Trương Tấn Sang, Trưởng ban Kinh-tế trung ương.
  11. Phạm Văn Trà, Thượng-tướng, Bộ-trưởng bộ Quốc-phòng.
  12. Nguyễn Văn An, Trưởng ban Tổ-chức trung ương.
  13. Trương Quang Được, Trưởng ban Dân-vận trung ương.
  14. Trần Đình Hoan, Chánh văn phòng Trung-ương đảng.
  15. Nguyễn Khoa Điềm,  Bộ trưởng bộ Văn-hóa Thông-tin.
Không như bộ Chính-trị thời 1954-1960, bộ Chính-trị hiện thời, mỗi vị là một mảng. Nếu Hoa-kỳ có đảng Dân-chủ, Cộng-hòa thì bộ Chính-trị hiện giờ có 15 ông, như 15 đảng khác nhau.

5. KẾT LUẬN.
Kính thưa Quý-vị,
Cảm ơn Quý-vị đã kiên nhẫn ngồi nghe chúng tôi điều trần. Trước khi chấm dứt, chúng tôi xin có đôi giòng kết luận:

5.1 - Phần thứ nhất.
Theo những huyền thoại cổ thì vị hoàng đế lập quốc Việt-Nam và Trung-quốc là anh em cùng cha khác mẹ, lãnh thổ Việt-Nam Bắc tới hồ Ðộng-đình, tức bao gồm phần Hoa-Nam, kể từ sông Trường-giang đến vịnh Thái-lan. Thế nhưng trải gần 5 nghìn năm, bị Trung-quốc chiếm dần, cuối cùng chỉ còn lại phần lãnh thổ hiện naỵ Trong thời gian ấy, bất cứ triều đại nào, vị vua nào của Trung-quốc cũng muốn chiếm Việt-Nam đặt làm quận huyện. Tính chung, Việt-Nam bị Trung-quốc đô hộ gần nghìn năm. Cho nên bất cứ người Việt-Nam sinh ra cũng đều biết rằng họ luôn luôn phải cảnh giác với cái họa Trung-quốc đe dọa. Hóa cho nên trong giáo dục, trong văn học, trong tín ngưỡng, người Việt luôn đề cao các anh hùng chống xâm lăng Trung-quốc. Thời nào cũng thế, người Việt có thể chia rẽ, chém giết nhau, nhưng khi có họa xâm lăng của Trung-quốc, thì tất cả quên hết, để cùng nhau giữ nước.
Nhưng không ngờ!
Chúng tôi không bao giờ tương tượng nổi!
Toàn thể người Việt trong nước cũng như ở ngoại quốc cũng không thể tin được rằng:
Đảng Cộng-sản từ năm 1930 đến nay (2001), lúc nào cũng nêu cao ngọn cờ yêu nước, mà họ lại cắt đất, cắt biển cho Trung-quốc. Họ vỗ ngực tự tôn rằng họ với Trung-quốc bang giao trên thế bình đẳng. Việt-Nam với Trung-quốc luôn luôn thân với nhau như môi với răng. Bây giờ họ lại chịu nhục như thế. Chưa bao giờ trong lịch sử Việt-Nam lại chịu lụy Trung-quốc như vậy!
 
Chủ tọa đoàn đặt câu hỏi, câu hỏi thứ 19,
Chúng tôi có một thắc mắc hết sức quan trọng là đối với Hoa-kỳ, Canada, Úc-đai-lợi, Liên-Âu thì VN dè đặt, nghi ngờ trong vụ việc đầu tư. Sau khi đầu tư rồi, họ tìm đủ cách để làm cho tê liệt các hoạt động.  Đối với Hoa-kỳ, Pháp, đều có thời là kẻ thù của họ, thì hiểu nổi. Còn Canada, Úc, Liên-Âu, họ cũng đối xử cùng một thái độ.Trong khi đối với Trung-quốc thì họ hết sức dễ dàng, sau khi đầu tư, họ dành cho mọi ưu đãi?
Gs TĐS,
- Thưa Ngài Chủ-tịch. Vấn đề này rất dài. Xin ngài cho tôi 2 giờ trong cuộc điều trần định kỳ vào tháng 3-2002 mới có thể nói hết được.Tuy nhiên tôi xin tóm lược một câu: sách lược chung của chủ nghĩa Cộng-sản Léninisme, Maoisme là coi tất cả các quốc gia không Cộng-sản là kẻ thù. 
Chủ tọa đoàn đặt câu hỏi, câu hỏi thứ 20,
- Đối với Tây-phương, chính sách của VN  nghi ngờ có thể hiểu được. Ban điểm báo cũng như sưu tầm không ngớt trình cho chúng tôi những tin tức, những lời kêu gọi Việt-kiều về nước đầu tư. Chúng tôi điểm lại, không thấy Việt-kiều nào về nước đầu tư mà thành công. Hầu hết họ bị cướp đoạt, thậm chí bị tù, mà không có tội gì cả. Không lẽ chính quyền Việt-Nam lại lỡ làm những việc đạo tặc như vậy sao? Xin Giáo-sư vắn tắt cho các vị hiện diện hôm nay biết vụ việc đó.
Gs TĐS,
- Người Việt ở ngoại quốc, đối với đảng Cộng-sản, đều là Ngụy, là Việt-gian, là Phản-động. Đảng Cộng-sản Việt-Nam có chính sách kỳ thị chủng tộc nhất thế giới, ngay cả vấn đề hôn nhân. Nếu về phương diện y khoa, chúng ta khuyến khích các tộc, dòng nên kết hôn với những tộc, dòng khác, để tạo cho lớp trẻ sau thông minh, xinh đẹp, thì hiện nay tại VN vẫn coi một người Việt kết hôn với người ngoại quốc là một tội. Trong cuộc điều trần trước Quốc-hội năm ngoái, Thứ trưởng Ngoại-giao Nguyễn Đình Bin, chỉ vì có con gái kết hôn với một ngườii Đan-mạch mà bị chụp mũ, bị làm nhục đến không thể tưởng tượng nổi. Do tinh thần đó, nên bất cứ người Việt nào mang tiền về đầu tư, thì họ muốn lấy, muốn bỏ tù, tùy thích. Tôi xin tường thuật một vụ tiêu biểu nhất là vụ Trịnh Vĩnh-Bình ở Hòa-lan. (Tóm lược vụ việc trong 15 phút).
 
Chủ tọa đoàn đặt câu hỏi, câu hỏi thứ 21,
- Có bao nhiêu vụ như vụ Trịnh Vĩnh-Bình?
Gs TĐS,
- Nhiều, rất nhiều, cực nhiều. Tổng kết chúng tôi  sưu tầm trong 10 năm từ 1990-2000  được 204 hồ sơ, mà số vốn đem về từ 1,5  triệu USD trở lên rồi bị mất trắng. Hầu hết họ đem tiền về đầu tư không qua chính quyền nơi họ cư ngụ, mà đem thẳng về. Nên các quốc gia nơi họ cư ngụ không nắm được chi tiết.
 
Chủ tọa đoàn đặt câu hỏi, câu hỏi thứ 22,
- Xin cho biết một vụ tại Pháp, dễ kiểm chứng nhất.
Gs. TĐS,
- Đó là một người trẻ 45 tuổi (sinh 1949), tên là Hoareau Jules. Quốc tịch Pháp đã 2 đời. Bố, mẹ gốc là người Việt, nhập tịch Pháp vào năm 1943. Bố nguyên là sĩ quan,  trong quân đội Pháp. Mẹ là thương gia. Anh em đều thành đạt, có người là dược sĩ, có người là thương gia, có người là kỹ sư. Jules cũng có học, từng kinh doanh tại Pháp, thành công về tài chánh. Trong một chuyến du lịch VN năm 1993, Jules được chào mời về đầu tư. Trở lại Paris, Jules quyết định mang một số tiền lớn về đầu tư vào dịch vụ Hotel-Restaurant. Năm 1994, Jules thành lập Hotel-Restaurant mang tên Quick tại đường Nguyễn Đình-Chiểu, thuộc quận 3, TP Hồ Chí-Minh. Địa điểm này gần với tòa Lãnh-sư Pháp. Vì rất kinh nghiệm trong nghề, nên chỉ một thời gian ngắn, cuối năm  1994, cơ sở của Jules đã nổi tiếng, lợi nhuận lên cao. Nhưng tiền vào bao nhiêu lại ra đi bấy nhiêu, vì:
  • Phải nộp thuế chính thức rất cao.
  • Công an di trú tới, trung bình mỗi tháng một lần, điều tra, hỏi han lôi thôi. Mỗi lần như vậy phải lót tay 3 tờ (300 USD).
  • Công an khu vực nói thẳng, mỗi tháng phải nộp 5 tờ (500 USD).
  • Nhân viên kiểm soát khách sạn, nhà hàng đòi lót tay mỗi tháng 5 tờ (500 USD).
  • Bọn xã hội đen (du đãng) thu tiền hàng ngày, mỗi ngày 50 USD.
  • Mỗi ngày ít nhất hai, hoặc ba chức sắc dẫn người tới ăn, mà không được phép thu tiền. Khi ăn những khách đặc biệt này toàn uống Cognac Pháp, chứ không uống rượu thường.
Tuy vậy, sau hơn một năm cơ sở càng phát đạt hơn. Rồi bọn xã hội đen đòi một số tiền 10.000 USD, và hăm dọa: "Nếu không trao, sẽ bị Công-an tới bắt giam, Hotel-Restaurant sẽ bị đóng cửa". Biết rằng không trao số tiền này sẽ gặp nguy hiểm. Nhưng bất thình lình thì không thể kiếm đâu ra số tiền đó. Jules khất, để xin gia đình gửi từ Pháp sang. Khổ một điều, khi  Jules về VN đầu tư, gia đình phản đối. Nay Jules xin tiền, gia đình không trả lời. Thế là hai tháng sau thình lình Công-an đến khách sạn, tông cửa vào một phòng cho khách thuê. Trong phòng có một thiếu nữ. Công-an lập biên bản là khách sạn chứa gái mại dâm. Jules cãi rằng cô gái đó là do khách dẫn vào, thì không phải lỗi ở Jules. Thế nhưng Jules cứ bị bắt giam ở khám Chí-hòa. Khi gia đình biết tin, thì cha, mẹ vội bay sang thăm con. Người ta đòi: Phải nộp 10.000 USD thì Jules sẽ được tha. Bố mẹ đành nộp tiền. Jules được thả ra. Nghĩa là Jules bị bắt không do Tòa-án, lúc thả cũng không, và tiền phạt cũng không do tòa. Khu Jules trở lại cơ sở Quick thì hỡi ôi, chỉ còn cái nhà trống, máy lạnh, dường, bàn, ghế đều biến mất.
Bà mẹ Jules có quen thân với một số giới chức cao cấp VN. Khi sang VN, thấy con mình bị tống tiền, bà làm lớn truyện. Thình lình bà lâm bệnh, phải trở về Paris điều trị. Nhà thương  khám phá ra bà bị đầu độc, cùng một loại thuốc với những loại mà tôi đã trình bày trên. Hiện (10-2001) bà vẫn nói năng được, nhưng mắt bị mù, chân tay bất toại.
Quý vị có thể tham khảo hồ sơ này tại tòa Lãnh-sự Pháp ở TP Hồ Chí Minh, và tại IFA/Direction du Sud-Est.
5.1.1
Họ kết tội Pháp là Thực-dân, những người thân Pháp là Việt-gian. Họ nhục mạ triều Nguyễn (1802-1945) vì triều đình này từng ký hòa ước vào năm 1862 và 1884, nhượng 6 tỉnh miền Nam cho Pháp. Trong những phần trên, tôi không kể việc triều Nguyễn ký hiệp ước nhường đất cho Pháp. Bấy giờ nước Pháp trên đường đi tìm thuộc địa, đã khai chiến với triều Nguyễn. Vì gươm đao, ghe thuyền không thể chống lại với liên thanh, đại bác, chiến hạm. Triều Nguyễn bị bại trận mà phải nhường đất, chứ không vị vua nào muốn như thế. Năm 1955, Pháp trả lại tất cả đất cho Việt-Nam. Hiện người Pháp không làm chủ một thước đất nào trên lãnh thổ Việt-Nam, mà chỉ có mấy chục vạn người Việt đang làm chủ nhiều khu đất trên nước Pháp.

5.1.2
Họ kết tội Hoa-kỳ là đế quốc, tất cả những người Việt thân Hoa-kỳ là Ngụy. Trong khi Hoa-kỳ không hề ép bất cứ chính quyền Việt nào, người Việt nào nhượng cho Hoa-kỳ một thước đất. Hiện không có một người Hoa-kỳ nào được làm chủ một thước đất trên lãnh thổ Việt-Nam, mà chỉ có gần hai triệu người Việt-Nam làm chủ không biết bao nhiêu đất trên  khắp các tiểu bang Hoa-kỳ.

5.2 - Phần thứ nhì.
5.2.1
Năm 1540, họ Mạc dâng đất cho Minh-triều, vì bị triều Lê trung hưng ép phía Nam, bị 22 vạn quân Minh ép phía Bắc. Năm 1862,1884 tiều Nguyễn nhường 6 tỉnh miền Nam cho Pháp vì bại trận. Tại sao:
  • Năm 1958, vào thịnh thời của Chủ-tịch Hồ Chí-Minh, của Bộ Chính-trị đảng Cộng-sản. Miền Bắc không bị miền Nam ép, không có chiến tranh với Trung-quốc, mà Chủ-tích Hồ Chí-Minh và Bộ Chính-trị lại chấp nhận nhượng vùng biển rộng lớn, trong đó có hai quần đảo Hoàng-sa (Tây-sa) và Trường-sa (Nam-sa) cho Trung-quốc?
     
  • Năm 1999, 2000, trong nội địa Việt-Nam không có chiến tranh, cũng chẳng có đối lập. Hoa-kỳ, Liên-Âu đang theo đuổi chính sách ngoại giao mềm dẻo với Việt-Nam. Việt-Hoa không có chiến tranh. Thế mà Bộ Chính-trị lại cắt đất , cắt biển dâng cho Trung-quốc? Dâng vì lý do gì? Để được gì? Họ có thể nhượng bất cứ phần đất nào! Cớ sao họ lại nhượng vùng Nam Nam-quan, là vùng đất thiêng, mang tự hào của người Việt?

5.2.2
Theo Hiến-pháp của Việt-Nam Dân-chủ Cộng-hòa, của Cộng-hòa Chủ-nghĩa Việt-Nam, bên cạnh Chính-phủ lúc nào cũng có Quốc-hội. Thỏa ước ký với Hoa-kỳ họ đưa ra Quốc-hội phê chuẩn. Thế nhưng ba lần cắt đất, Quốc-hội không được quyết định, không được bàn, và cũng không được biết. Liệu bây giờ, vụ việc nổ tung, họ có đem hai hiệp định 1999-2000 ra cho Quốc-hội phê chuẩn không?  (Giáo-sư Tiến-sĩ Nguyễn Văn Canh công bố hiệp ước lãnh thổ ký 31-12-1999,  Quốc-hội VN đã thông qua vào tháng 6-2000. Chúng tôi đã hỏi 14 dân biểu, họ đều nói không biết gì, có lẽ nhà nước  đã loan báo không thực trên báo chí để lừa thế giới chăng?). Nếu như nay họ đem ra cho Quốc-hội biểu quyết hai hiệp định trên, thì tôi tin rằng không có vị đại biểu nào dám bỏ phiếu thuận. Giả như Quốc-hội bác bỏ, thì liệu Trung-quốc có chịu trả đất ở biên giới phía Bắc không? Họ có chịu rút người, rút bộ máy hành chánh, quân sự đã đặt gần sáu chục năm qua về không? Nếu như họ không rút, thì Quốc-hội Việt-Nam sẽ làm gì? Liệu VN có dám đem quân chiếm lại không? Tôi tin là không, vì mấy ông tướng trong quân đội đã chịu lụy Trung-quốc thì liệu các ông có dám đem quân tái chiếm chăng?

5.2.3
Trong mấy năm qua, chúng tôi không đồng ý với Quý-vị, vì trong việc bang giao tại Á-châu, Quý-vị có khuynh hướng coi Việt-Nam như một thuộc quốc, đôi khi tệ hơn, coi như một tỉnh của Trung-quốc. Tôi từng phản đối.
Hôm nay đây tôi xin lỗi Qúy-vị! Quý-vị đã có cái nhìn đúng. Chúng tôi nhìn sai! Sai hoàn toàn, vì hiện chính phủ CHXHCNVN, dường như chấp nhận để Trung-quốc đô hộ không chính thức.
Khi Việt-Nam sắp ký thương ước với Hoa-kỳ, thì Trung-quốc bắt phải ngừng, chờ Trung-quốc ký trước. Hơn năm sau VN mới lạch ạch ký, mà cho đến lúc này Quốc-hội  VN vẫn chưa biểu quyết thông qua. Quý vị đều biết, trừ gạo và cá, còn những sản phẩm xuất cảng khác của VN, Trung-quốc đều giống nhau. Trung-quốc bắt VN ký sau một năm, chậm thông qua một năm nữa. Với 2 năm, Trung-quốc đã chiếm lĩnh xong thị trường. Rồi không chừng Trung-quốc tìm cách để làm chậm trễ thi hành ít năm nữa.

5.2.4
Suốt 5 năm qua, Việt-Nam  trở thành thuộc địa Trung-quốc về phương diện văn hóa. Nhất là từ khi Trung-quốc tiếp thu Hương-cảng.
  • Phim ảnh, âm nhạc Trung-quốc chiếm lĩnh hoàn toàn trên hệ thống truyền thanh, truyền hình và báo chí. Phim ảnh, âm nhạc Việt-Nam gần như bị đào thải. Mở bất cứ tờ báo chuyên về kịch ảnh, truyền hình, cũng chỉ thấy giới thiệâu phim Hương-cảng, Trung-quốc. Đi đâu cũng thấy giới trẻ luận bàn về những phim Trung-quốc, những diễn viên, ca sĩ, người mẫu Hương-cảng, Trung-quốc, mà không biết gì về những diễn viên, ca sĩ , người mẫu Việt. Diễn viên, ca sĩ , người mẫu Việt đói khổ quá, đến độ phải đi làm gái điếm. Báo chí Việt-Nam trong thời gian từ 30 tháng 10  đến nay  9 tháng 11 năm 2001, không ngớt tường thuật một dây gái điếm  trên 200 người tại thành phố Hồ Chí-Minh, toàn diễn viên, ca sĩ, người mẫu danh tiếng; do tú bà Huỳnh-thị Ngọc-Quỳnh làm chủ. Mỗi lần đi khách như vậy, họ chỉ được 50 USD đến 150 USD, mà lại phải chia cho Tú-bà 30%. Rút cuộc họ chỉ được hưởng rất ít. (7) 
Ghi chú dành cho người Việt (7)
Phát hiện đường dây gái gọi cao cấp Bắc - Nam
Rạng sáng 31/10, 6 người mẫu tên tuổi trong làng người mẫu Việt Nam, đều đến từ Hà Nội, đã bị Công an TP. Hồ Chí Minh bắt quả tang bán dâm cho khách tại 3 khách sạn TP. Hồ Chí Minh và một khách sạn Vũng Tàu.

Theo lời khai của nhóm gái bán dâm hạng sang này, các cô vào TP. Hồ Chí Minh kiếm tiền nhờ ''mối'' của ''tú bà'' Huỳnh Thị Ngọc Quỳnh. Sau mỗi lần ''đi khách'' với giá từ 400.000 đến 15 triệu đồng (tùy ''tên tuổi'', đẳng cấp của người mẫu), bên bán chia cho Quỳnh 30% lợi nhuận để trả công dẫn dắt.
Khám nhà Huỳnh Thị Ngọc Quỳnh, cơ quan chức năng thu được một số tài liệu quan trọng chứng minh vai trò điều khiển đường dây ''gái gọi'' cao cấp này. Trong đó, có name card của nhiều nhân vật ''tiếng tăm'' trong một số lĩnh vực, 100 số điện thoại của các cô gái (đa phần hoạt động trong lĩnh vực điện ảnh và trình diễn thời trang) trong bộ nhớ của điện thoại di động. Đặc biệt, e-mail của nhiều khách, được Quỳnh chào ''hàng'' bằng chiếc vi tính nối mạng Internet tại nhà.
Theo tài liệu trinh sát của Đội phòng chống tệ nạn xã hội, Phòng cảnh sát Hình sự, Quỳnh có khả năng cùng lúc đáp ứng 40 ''yêu cầu'', bởi trong tay ả có khoảng bằng ấy cô gái sẵn sàng ''đi khách'' tại bất cứ đâu, chỉ cần hẹn trước qua điện thoại. Khi cần, giới ăn chơi hàng ''đại gia'' chỉ mất công nhấc điện thoại, hô tên người đẹp. Việc đặt trước chỉ được áp dụng trong trường hợp những nhân vật này đòi ''hàng độc''. Việc mua - bán lâu, mau tùy thích, bởi người mẫu đến ở khách sạn thường không phải trình giấy tờ và vào sổ như người thường.
6 người mẫu vừa bị bắt chỉ là một mảng nhỏ trong đường dây gái gọi do Ngọc Quỳnh điều khiển bị phát hiện. Là một thư ký văn phòng gốc Huế giỏi tiếng Anh, vi tính và có những mối quan hệ rộng rãi với giới kinh doanh và trí thức sang trọng trong và ngoài nước, Huỳnh Thị Ngọc Quỳnh rất có thể là một bà trùm trí thức chuyên ‘‘chăn dắt’’, điều phối đường dây gái gọi lớn xuyên Việt.
(Theo Tuổi Trẻ, Thanh Niên, Tiền Phong)
============================== =====================
TP HCM: Phá một đường dây mại dâm lớn
Tối qua (30/10), 6 gái bán dâm "cao cấp" đã bị cơ quan công an bắt quả tang khi đang cùng khách mua dâm. Trong số này có vài cô từng là người mẫu thời trang, chỉ phục vụ giới thượng lưu.
Theo đánh giá ban đầu, đường dây do tú bà Huỳnh Thị Ngọc Quỳnh (35 tuổi, trú tại phường 15, quận Phú Nhuận) điều hành, đã hoạt động từ lâu.
Tại cơ quan điều tra, bà Quỳnh khai, giá cho mỗi lần "đi khách" với loại gái cao cấp này là 100 USD/người, còn bao trọn gói đi chơi xa là 500 USD/chuyến. Khi có nhu cầu, khách chỉ cần gọi vào máy điện thoại di động của tú bà Quỳnh. Vụ án đang được tiếp tục mở rộng.
Nhiều người mẫu, diễn viên có tên trong danh sách gái “cao cấp”
Đường dây gái gọi cao cấp do Huỳnh Thị Ngọc Quỳnh tổ chức, bị phát hiện hôm 30/10, gồm hơn 100 cô, đa số là người mẫu, diễn viên điện ảnh, có thể tiếp nhận cùng lúc 40 đơn đặt hàng. Cơ quan công an đã phát hiện cuốn sổ ghi danh hàng trăm khách hàng là quan chức, doanh nhân, Việt kiều...
Ba người mẫu ngồi trong phòng hỏi cung với con mắt thất thần. Cứng tuổi hơn cả là (AAA), sinh 1970, được giới trình diễn thời trang biết đến dưới cái tên VA. Vẫn gương mặt khả ái với bộ váy áo kiêu kỳ, cô trả lời câu hỏi của cán bộ điều tra bằng giọng nói nhỏ như hơi thở, nước mắt rưng rưng. Hai người khác là (BBB). (1980), và (CCC). (1972). Họ cùng VA, bị Đội Phòng chống tệ nạn xã hội, Công an TP HCM bắt quả tang bán dâm tại 3 khách sạn lớn trong thành phố, ngày 30/10.
Đến 19h30' cùng ngày, ba gái cao cấp khác, bị bắt quả tang đang “hoạt động” tại một khách sạn ở Vũng Tàu, cũng được di lý về Công an thành phố. Một trinh sát, người còn lấm bụi đường chỉ cô gái trẻ, trông dáng rụt rè, nói: “Đó là người mẫu (DDD), sinh 1981, từng đóng quảng cáo cho một mặt hàng khá phổ biến trên tivi”. Hai cô còn lại là (EEEE) (1983), (FFF) (1977).
Chân dung mụ tú bà
“Huỳnh Thị Ngọc Quỳnh là một trí thức và tất cả 6 cô gái bị bắt quả tang trong đường dây này đều là người mẫu ở Hà Nội”, thiếu tá Trần Văn Ngọc, Đội phó Đội 8, Phòng Cảnh sát hình sự TP HCM khẳng định.
Quỳnh, sinh 1966, cử nhân Anh văn, giáo viên tin học, độc thân, quê ở Huế, vào TP HCM khi còn nhỏ. Quỳnh khai, các cô đào phục vụ ở nhà hàng, khách sạn thường than thở là thu nhập chỉ được... 200.000 đồng/ngày, lại còn bị khách hành hạ đủ kiểu, nên nhờ thị tìm người sang trọng, trí thức để “lao động nhẹ nhàng hơn”. Vậy là Quỳnh môi giới cho họ gặp những cán bộ nhà nước, “đại gia” mà mình biết, và đứng giữa ăn hoa hồng.
Công việc tiến triển, tú bà chuyển sang quan hệ với giới người mẫu, diễn viên điện ảnh. Trong bộ nhớ máy điện thoại di động của Ngọc Quỳnh, có hơn 100 số điện thoại của rất nhiều cô gái có tên tuổi. Quỳnh thú nhận, nếu cùng lúc có 40 yêu cầu thì cũng có thể điều phối, bố trí được. Riêng hàng độc thì phải đặt trước để xếp lịch. Quỳnh có nhiều kênh để tiếp thị hàng, trong đó có cả Internet để quảng cáo tới khách ngoại quốc.
Khám xét nơi ở của Quỳnh, công an thu được nhiều giấy tờ quan trọng và một “ổ” namecard, cùng cuốn sổ ghi danh hàng loạt nhân vật quan trọng, từ cán bộ, đến doanh nhân và giới Việt kiều... Để được đáp ứng yêu cầu, những người này phải bỏ ra ít nhất 400.000 đồng/lần, phổ biến là 100 USD/lần. Những bông hoa có tiếng giá lên tới 500-1.000 USD/đêm. Tỷ lệ ăn chia giữa gái và tú bà là 7-3.
Con đường biến người mẫu thành “gái gọi”
Theo lời khai của 6 cô gái, họ hầu hết có văn hóa 12/12, có người đang theo học đại học... Một điểm chung nữa là họ mới "đi khách” được hơn một tháng, và đều “vô tình” qua sự giới thiệu lẫn nhau.
Kể về con đường dẫn mình tới hoạt động phi pháp này, (DDD), 20 tuổi, khai: “Năm 1997, tôi tham gia lớp người mẫu tại báo T.T.T., được nửa năm thì đi diễn thời trang. Tôi không làm chính thức cho công ty nào, thường biểu diễn ở Cung Văn hóa Hà Nội... Trong thời gian vào TP HCM học tiếp viên hàng không, tôi gặp cô V.A., và vì muốn có tiền để học, tôi đã nhờ V.A. giúp. Cô này quen và cho bà Quỳnh số điện thoại của tôi. Bà Quỳnh hẹn gặp mặt, cho biết khi có khách sẽ gọi. Tôi vào đường dây này được tháng rưỡi nay, bán dâm được 8 lần, giá mỗi lần 100-150 USD”.
Còn V.A., 31 tuổi, khai: “Cách nay 2 tháng, tôi vào Sài Gòn chơi và đến khách sạn Mặt Trời, trên đường Nguyễn Hữu Cầu, quận 1, hát karaoke. Trong số bạn bè của tôi có người quen biết chị Quỳnh, nên chị ấy đã đến làm quen, và xin số điện thoại của tôi để môi giới bán dâm. Tôi gia nhập đường dây này được tháng nay...”.
(FFF), 24 tuổi, tốt nghiệp Đại học Mở Hà Nội (khoa Ngoại ngữ), thì khai chi tiết hơn: “Tôi đi khách được tháng nay, do bà Quỳnh làm chủ. Giá 100-500 USD. Nếu đi một giờ thì 100 USD, nếu qua đêm với khách tại TP HCM thì 200 USD. Còn đi Vũng Tàu một ngày là 500 USD. Tỷ lệ ăn chia: tôi 70%, bà Quỳnh 30%. Tôi làm gái là do cô L. giới thiệu, bởi bạn trai của L. là bạn thân với bạn trai tôi. Từ khi làm với bà Quỳnh, tôi được kêu đi khách 4 lần. Ngoài ra, tôi còn đi với khách quen 2 lần... Tôi từng làm người mẫu để quảng cáo cho mỹ phẩm của công ty mỹ phẩm K.M. của nước ngoài. Ngoài ra, tôi còn cùng L. làm người mẫu ở Hà Nội, thuộc nhóm Ngôi Sao Xanh”.
Ai đứng sau thị Quỳnh?
Tú bà Huỳnh Thị Ngọc Quỳnh khai, còn một người tên H. cũng làm môi giới, và thị phải chia cho nhân vật này 50% lợi nhuận thu được từ những phi vụ “hoạt động” của gái.
Lời khai của các cô gái bị bắt đề cập khách sạn H.N. trên đường Nguyễn Văn Thủ, Đ.H.H. đường Nguyễn Thị Minh Khai, L.B. đường Bùi Thị Xuân..., và cả một nhà nghỉ của cơ quan nhà nước. Đây được coi là “bãi đáp” an toàn, bởi gái của Quỳnh chỉ cần nói số phòng mình cần lên, là được vào thẳng, không cần gửi lại giấy chứng minh nhân dân, và sự hiện diện của họ cũng không được thể hiện trên sổ sách. Điều này dẫn tới nghi vấn về sự mẫn cán của các lực lượng chuyên làm công tác kiểm tra.
Đường dây Ngọc Quỳnh tồn tại nhờ khách nội
Khi bắt khẩn cấp tú bà Huỳnh Thị Ngọc Quỳnh ở đường Nguyễn Trọng Tuyển, phường 15, quận Phú Nhuận, TP HCM, lực lượng phòng chống tệ nạn Công an thành phố thu giữ được danh sách của hàng trăm khách mua dâm, ghi đầy đủ cả chức vụ, điện thoại. Ngọc Quỳnh khai, trong số đó, dân làng chơi nước ngoài chỉ chiếm 20%.
Cùng với danh sách này, cơ quan công an còn phát hiện những cuốn album dán ảnh cả trăm người mẫu với trang phục áo tắm hai mảnh để quảng cáo, chào hàng và thỏa thuận giá cả với khách. Để quảng cáo cho gái, Quỳnh đặt ở nhà hai dàn máy tính nối Internet, mà theo lời giải thích của một người mẫu bán dâm, là để chào khách du lịch nước ngoài.
Tuy nhiên một số cô gái bị bắt cho biết, họ không thích “đi” với khách ngoại quốc, vì họ quá sòng phẳng. Đã ngã giá bao nhiêu thì chi bấy nhiêu. Còn khách “nội”, nhiều khi còn được “boa” gấp 2-3 lần giá thỏa thuận ban đầu, nếu biết làm vừa lòng “các sếp”. Đó là chưa kể được dẫn đi mua sắm đồ hiệu, nữ trang cao cấp... Bên cạnh đó, nếu gặp được các ông chủ doanh nghiệp có máu mặt, sau lần gặp gỡ còn hé mở nhiều cơ hội để các cô "tiến bước". Họ có thể được tham gia các hợp đồng làm người mẫu quảng cáo, chụp hình làm catalogue giới thiệu sản phẩm... hoặc những “sô” diễn nhẹ nhàng trong các dịp khai trương, động thổ, vừa thu nhập cao vừa có điều kiện mở rộng mối quan hệ.
Trong 6 người bị bắt quả tang đang mua dâm với người mẫu thì có tới 3 khách làng chơi ở tỉnh. Họ là chủ các doanh nghiệp, nhà hàng, người buôn bán giàu có... Số còn lại là người ở TP HCM. Họ bị phạt hành chính 500.000 đến 1 triệu đồng, và được cho về. Cơ quan công an sẽ có một thông báo tới đơn vị, địa phương, gia đình những người này theo đúng quy định hiện hành.
Một sĩ quan công an công tác nhiều năm ở Đội Phòng chống tệ nạn xã hội lo ngại: “Xem ra hình phạt như vậy chưa đủ ép phê để răn đe những đấng mày râu ham của lạ”. Chính những kẻ ăn chơi sa đọa này đã sản sinh ra những nhóm thanh nữ không chịu học hành, rèn luyện mà chỉ muốn thành đạt nhanh nhờ “vốn tự có”.
(Theo NLĐ)
 
  • Các sách Trung-quốc được dịch, bán tự do: Từ tiểu thuyết tới sách tham khảo, dĩ chí cả bói toán, phong thủy. Nhà xuất bản Văn-học vừa cho dịch, xuất bản hai bộ tiểu thuyết của Kim-Dung, mà từ trước đến nay bị coi là quốc cấm. Trong khi nhà nước Việt-Nam hô hào giao lưu văn hóa với người Việt ở nước ngoài, nhưng họ chỉ muốn đem sách trong nước ra ngoài bán, mà họ không cho đem sách của người Việt ở ngoại quốc vào trong nước, dù là sách khoa học, kỹ thuật, y học, tin học. Trước sau họ cho xuất bản không quá 10 quyển sách của người Việt hải ngoại, mà đa số sách đó nói xấu về VNCH, hoặc bôi nhọ xã hội người Việt ở ngoại quốc. Đi đâu cũng thấy người lớn, trẻ con luận bàn những nhân vật trong các bộ sách:
1/ Mười đại hoàng đế Trung-quốc.
2/ Mười đại thừa tướng Trung-quốc.
...
3/ Mười đại gian thần Trung-quốc.
Không ai nói tới những anh hùng Trưng Trắc, Lê Hoàn, Lý Thường Kiệt, Trần Quốc Tuấn, Lê Lợi, Nguyễn Huệ từng thắng Trung-quốc bảo vệ đất nước quốc. 
Ghi chú của IFA (bổ túc ngày 13-2-2002):
Trước khi vụ nhượng đất cho Trung-quốc bị lộ (2001), Liên-Âu, nhất là Pháp, rất cảm tình với Việt-Nam. Trong nghi lễ, đối với các cơ sở Ngoại-giao VN, Liên-Âu thường không dấu diếm tình cảm đặc biệt này. Tỷ như một cơ quan vận tải, mỗi tháng dành cho tòa Đại-sứ VN tại Pháp một container, muốn gửi gì về VN thì gửi, miễn phí. Gia đình nhân viên sứ quán được nhập cảnh vào Pháp học thoải  mái, miễn phí. Nay thì Liên-Âu coi VN như một thuộc địa của Trung-quốc. Bằng chứng, hồi Tết Nhâm-ngọ vừa qua, Liên-Âu quay một vòng 180 độ, trong nghi lễ Ngoại-giaop đối với VN. Ngày 13 tháng 2 năm 2002 tức mùng hai Tết, Tổng-thống Jacques Chirac đã mời ông Đại-sứ Trung-quốc,  nhân viên sứ quán, phái đoàn Hoa-kiều đến điện Élysée ăn Tết, và chúc Tết. Tổng-thống cũng mời một phái đoàn Việt-kiều  cùng vào điện Élysée ăn Tết. Tổng-thống chúc Tết, nhận lời chúc Tết của các đại diện Việt-Nam, nhưng không mời Đại-sứ VN. Hầu hết các Quốc-trưởng những nước Liên-Âu đều gửi thư, chúc tết Đại-sứ các nước Á-châu. Duy Đại-sứ VN thì không, vì họ coi VN là một thuộc quốc của Trung-quốc, thì…chúc Tết Trung-quốc cũng đủ rồi, không cần chúc tết một tỉnh (VN)  của Trung-quốc nữa.
Sau lần viếng thăm mới đây của Chủ-tịch Trung-quốc Giang Trạch Dân (17-2-2002), bộ Giáo-dục và Đào-tạo của CHXH CH Việt-Nam đang bắt tay vào việc sửa đổi sách giáo khoa. Cũng nên nhắc lại, sách giáo khoa Việt-Nam (CS) từ 1947, luôn đề cao "Trung-quốc hôm này là Việt-Nam ngày mai", bóp méo những lần Trung-hoa xâm lăng VN. Đến năm 1979, khi Đặng Tiểu Bình xua quân tràn qua biên giới, tàn phá 6 tỉnh Bắc-biên, thì tất cả những cái xấu xa của nghìn năm đô hộ lại được đem vào sách giáo khoa, kể cả những xấu xa mới từ 1947 đến 1979. Trong dịp này Giang Chủ-tịch cũng nhắc nhở Tổng-bí thư đảng Cộng-sản Việt-Nam là Nông Đức Mạnh rằng:
"Trong lần Nông thăm Trung-quốc, Giang đề nghị Nông có 16 chữ vàng, làm mẫu mực cho việc bang giao Hoa-Việt
Láng giềng hữu nghị,
Hợp tác toàn diện.
Ổn định lâu dài,
Hướng tới tương lai"
Nay nên thêm vào 4 chữ nữa là 20: Hoàn toàn tin cậy".
Cho đến hôm nay, chúng tôi cũng chưa biết ông Nông Đức Mạnh có nghe theo không?

5.2.5
Chúng tôi muốn biết các vị có nhận thấy sự bất thường trong thông tin tại Việt-Nam hiện giờ không? Hiệp định ký nhượng đất ký ngày 30-12-1999, sau đó diễn ra:
  • Cuộc trao đất,

  • Cuộc trao dân,

  • Các cơ sở hành chính, quân sự Việt-Nam phải rút khỏi khu nhượng địa, rất ồn ào.

  • Các chính quyền vùng bị nhượng từ cấp xã, huyện, tỉnh được thông báo, được chỉ thị rộng rãi.

  • Suốt gần 2 năm qua, có hàng triệu người Việt băng qua các cửa khẩu đã nhượng cho Trung-quốc, thì họ phải biết rất rõ khu đất thiêng bị mất.
Như vậy thì cuộc nhượng đất này đâu có thể bưng bít? Báo chí trong nước cấm không được đăng tải là lẽ thường. Thế sao không ai thông báo cho người Việt hải ngoại? Mãi tới những ngày gần đây (tháng 9 năm 2001) mới thấy trên Internet từ trong nước gửi ra ba bài của Đỗ Việt Sơn, Lê Chí Quang và Quang-Chính, nói lờ mờ về vụ này. Chúng tôi biết cái bí ẩn đó là lớp người mới bất mãn với lớp người cũ trong Bộ Chính-trị. Họ  muốn quy trách cho cá nhân, trong khi bộ Chính-trị đảng Cộng-sản mới là những người chủ động.
 
Ghi chú của IFA,
Chúng tôi nhận được lệnh phải điều trần về vấn đề này do văn thư số 3778-7 ngày 11-2-2001. Chúng tôi ủy cho Bác-sĩ Trần Đại-Sỹ, vì thuộc phần hành cua ông. Mãi tới ngày 10-11-2001 ông mới hoàn tất và điều trần. Theo như chúng tôi biết thì cho đến ngày này, trong nước mới chỉ có vài bài gửi ra nói lơ mơ về vụ cắt đất. Cho nên ngươi ta gán cho chúng tôi (IFA) và Bác-sĩ Trần là người đầu tiên bắn phi đạn vào Bộ Chính-trị đảng Cộng-sản VN. Chúng tôi xin minh xác: Chúng tôi cũng như Bác-sĩ Trần chỉ làm nhiệm vụ của của người nghiên cứu. Suốt toàn bản điều trần, không hề có một câu ác ý hay thù nghịch với đảng Cộng-sản Trung-quốc cũng như VN.

Thưa Quý-vị,
Phần điều trần của tôi đến đây chấm dứt. Chúng tôi đợi những thắc mắc của Quý-vị.
 
Cử tọa đặt câu hỏi, câu hỏi thứ  thứ 23,
Một nguồn tin thân cận, ông Lê Kinh Tài là một Đại-sứ của Việt-Nam có nói rằng, sở dĩ ông Nông Đức Mạnh được đưa lên chức Tổng Bí-thư, vì nhờ uy tín của thân phụ là cố Chủ-tịch Hồ Chí Minh. Sự thực ra sao?
Một vị trong chủ-tọa đoàn (là Giáo sư y khoa) trả lời:
Câu hỏi của Ngài đặt Gs. Trần trước một khó khăn. Nếu ông không nói thực thì ông phạm tội đại hình là nói dối chúng ta. Còn như ông nói ra thì  ông sẽ bị kiện lôi thôi. Tài liệu nghiên cứu ADN (DNA) về ông Hồ Chí Minh, nhóm nghiên cứu của Gs. Trần đã bán cho công ty DNAW hồi tháng 3 vừa rồi. Nên không thể tiết lộ. Tôi chỉ có nói tổng quát, tài liệu đó dùng hệ thống ADN để làm sáng tỏ nguồn gốc mơ hồ của các danh nhân cận đại Việt-Nam, trong ấy có 2 vụ lớn nhất.
  • Cận sử, cũng như dư luận nói rằng Đại-Nam hoàng đế Bảo-Đại là con ông Hồng-Đề chứ không phải là con của Đại-Nam hoàng đế Khải-Định. Sự thực ra sao? Nhóm của Giáo-sư Trần đã tìm ra, được kiểm nhận là đúng với phương pháp ADN mới nhất (3-2001).
     
  • Đảng Cộng-sản VN công bố Chủ-tịch Hồ Chí Minh là con ông Phó-bảng Nguyễn Sinh Huy. Ông Nguyễn Sinh-Huy là con một nông dân tên Nguyễn Sinh-Nhậm. Nhưng sử gia Trần Quốc Vượng của viện Sử-học Hà-nội  lại công bố rằng ông Nguyễn Sinh Huy không phải là con ông Nguyễn Sinh-Nhậâm mà là con ông Hồ Sĩ Tạo. Rồi những nguồn tin trong nước nói ông Nông Đức Mạnh và mấy người nữa là con của Chủ-tịch Hồ Chí Minh. Sự thực ra sao? Nhóm của Giáo-sư Trần cũng nghiên cứu, được kiểm nhận  là đúng với phương pháp ADN mới nhất (3-2001)
Vẫn vị cử tọa trên,
Làm thế nào mà Gs Trần có thể lấy được ADN của những người trong cuộc?
Vẫn vị trong chủ tọa đoàn,
- Thưa Ngài không khó vì…(chúng tôi bị cấm không phổ biến). Ngay những xương của người quá cố lâu rồi, ADN vẫn có khả năng xác định.
(Tài liệu này được đánh số IFA-532-101001)
PHỤ BẢN
Về cuộc mật đàm giữa Tổng Bí-thư  Đỗ Mười,
Thủ-tướng Võ Văn Kiệt và Chủ-tịch nhà nước Trung-quốc 
Giang Trạch Dân năm 1997. 
Lời giới thiệu của IFA,
Tháng bẩy năm 1977, Bác-sĩ Trần Đại-Sỹ được cử làm trưởng đoàn Pháp, của Ủy-ban trao đổi y học Pháp-hoa (Comité médical Franco-Chinois=CMFC) dẫn phái đoàn Pháp sang Trung-quốc làm việc trong hai tháng ở Bắc-kinh.
Đang lúc ông ở Bắc-kinh, thì Tổng-bí thư đảng Cộng-sản VN. Đỗ Mười và Thủ-tướng CS. Võ Văn-Kiệt cũng sang đây, hội với Chủ-tịch Trung-quốc Giang Trạch-Dân. Nhờ quen thân với một vài ký giả ban Việt-Ngữ của đài tiếng nói Bắc-kinh, ông biết khá nhiều về cuộc mật nghị này. Trở về, ông viết thư cho một người bạn là ký giả Hồ Anh, chủ nhiệm bán nguyệt san Văn-nghệ Tiền-phong ở Virginia, Hoa-kỳ. Tuy là thư riêng, nhưng đây là một tài liệu lịch sử bang giao Hoa-Việt, nó có thể giúp độc giả một cái nhìn rõ ràng hơn về bang giao giữa hai đảng Cộng-sản Trung-quốc, Việt-Nam, nên chúng tôi xin đăng nguyên văn, để một biến cố lịch sử này không bị chôn vùi. Cứ như nội dung bài này, thì năm 1997, đảng Cộng-sản VN còn kênh với đảng CS Trung-quốc, thế mà sau đó sang thời kỳ Lê Khả Phiêu, thì Trung-quốc dùng phép tắc nào mà biến VN thành một thuộc địa? Điều này xin để các vị cao minh giải đoán. 
Paris ngày 20 tháng 9 năm 1997.
Kính thăm anh, và cháu Thủy-Tiên của chú.
Tôi vừa đi Trung-quốc về anh ạ. Sau hai tháng ăn cơm Tầu, tôi lên ba ký. Cái bụng trông giống bụng Đổng Trác quá. Nhờ vậy sức khỏe tương đối dồi dào, ngày nào cũng nộp thuế cho cô bạn gái, vì vậy cổ cũng xí xái cho cái tội, bỏ cổ một thân một mình ở giữa cái xứ Paris ồn ào này, ngày ngày ngồi vọng phu. Đi xa về kể chuyện cho anh và cháu đọc, gọi là chút quà của xứ sở của Khổng-tử, và xứ sở của Khuất-Nguyên, của Văn Thiên-Tường.
Bắt đầu từ tháng sáu, chúng tôi đã chuẩn bị. Sau cả tháng hội họp, phân chia nhiệm vụ, chúng tôi lên đường Hoa du. Đoàn của tôi gồm 9 đứa, thuộc Ủy-ban trao đổi y học Pháp-Hoa (CFMC). Lần này chúng tôi làm nhiệm vụ trao, tức đem chuông đi đánh xứ người, mà chủ đề là giải phẫu chỉnh hình.
Tất cả 9 đứa đều là giáo sư y khoa. Lớn nhất 64 tuổi, nhỏ nhất 45 tuổi, chia ra sáu đực, ba cái. Tám đứa đều là con cháu tộc Gaullois, còn tôi là con Rồng cháu Tiên. Kể về khả năng y khoa thì tôi đứng hạng bét. Nhưng sở dĩ tôi được làm trưởng đoàn, vì sống lâu lên lão làng. Cả 8 đứa đều mới được nghị định bổ nhiệm đâu năm, sáu năm. Riêng tôi, tôi đã ở trong CMFC đúng 20 năm. Vả lại, tôi được các bằng hữu Trung-quốc tín nhiệm, lại là thổ công trên đất Hoa-hạ, nên tôi nghiễm nhiên làm trưởng đoàn. Oai hơn tổng Cóc! Cả tám đứa đều có vợ hay chồng tháp tùng, bởi mấy khi được Hoa du. Có đứa còn mang cả con đi. Thành ra trên danh nghĩa có 9 đứa, mà phái đoàn lên tới 21  người. Được cái túi tiền của CMFC khá lớn, do các viện bào chế UPSA, UP John, Rhône Poulenc, Roche,  MSD, Roussel...  đài thọ, nên tôi chi cho phái đoàn thoải mái.
Chúng tôi tới Bắc-kinh ngày 2 tháng 7 năm 1997 bằng phi cơ Air France. Khi phi cơ vừa chạm đất, tôi ra oai:
Tất cả tụi bay ngồi tại chỗ, nhường cho hành khách xuống trước.
Chúng tôi thuộc loại VIP, được đón rước, tặng hoa, chào mừng nên không phải xếp hàng, mọi thủ tục quan thuế, đóng dấu trên thông hành đã có người lo.
Sắp xếp, ấn định chương trình xong, nhiệm vụ của tôi coi như không còn gì đáng quan tâm. Anh biết không? Ở xứ Pháp mà một người đàn ông có chút máu văn nghệ như tôi  đi ra ngoài cu ky một mình thì bị coi là ích kỷ, là bệnh hoạn, nên tôi đã hẹn danh ca Diệu-Nghi của đoàn văn công Hàng-châu gặp nhau ở Bắc-kinh. Nàng tới Bắc-kinh trước, khi tôi tới phi trường, thì nàng mặc bộ  xiêm y khi đóng vai Dương Quý-phi, đón tôi, làm cả đoàn CMFC lé mắt phục tôi. Sau khi mọi việc chạy tốt, tôi xé lẻ, tiếu ngạo Bắc-kinh với Dương Quý-phi!
 Anh biết không, sang Bắc-kinh, ngoài nhân viên phái đoàn, tôi không có ai là bạn cả để bàn chuyện văn chương, ngoài Diệu-Nghi. Diệu-Nghi tuy đẹp, nhưng văn chương thì nàng ẹ quá (Không lẽ suốt ngày lên giường?). Buồn nẫu ruột ra được. May ơi là may, tôi gặp một anh bạn cũ, hiện làm việc trong ban Việt-Ngữ đài Bắc-kinh. Thế là hữu bằng tự viễn phương lai, (1) tôi có bạn mà bạn có thể nói tiếng Hoa, tiếng Việt. Hơn nữa chúng tôi có nhiều hiểu biết về vấn đề VN. Anh bạn cũng có vợ là danh ca người Tô-châu. Thế là 4 chúng tôi cùng tiếu ngạo khắp kinh đô cổ kính này. Anh ta giới thiệu cho tôi mấy người bạn mới. Mấy anh ấy đều là Tầu lai, trước đây sống ở Chợ-lớn, Hà-nội cả. Nghĩa là Tầu thì bảo họ là Ố-nàm nhần. (2) Còn Việt thì bảo họ là Chêệt. (3)
Tôi sang được bẩy ngày, thì anh bạn ký giả báo cho biết rằng:
“Quốc-vương Đỗ Mười và  Tể-tướng Võ Văn-Kiệt sắp sang chầu Thiên-tử Giang Trạch Dân“.
Anh ta nói:
« Nghe đâu phái đoàn không đông lắm, và cũng không đi tham quan chỗ này chỗ kia. Cuộc chầu thánh Thiên-tử này coi ra có vẻ căng căng, không khéo lại có bài học nữa,(4)  thì thanh niên Việt-Hoa tha hồ mà chết”.
Thế rồi, anh bạn mất tích. Bốn ngày sau, anh gặp tôi, luôn mồm xin lỗi, vì phải theo dõi cuộc hội đàm. Anh than:
« Tổ bà nó, bọn mình là người có học, có tư cách, thành ra không làm bí thư tỉnh, bí thư khu được. Diễn biến các cuộc họp mình biết hết. Thế mà lại phải trình bầy lại cho những thằng dốt hơn con bò. Nó nghe chán rồi nó phán: Điều này nên tiết lộ, điều này không. Sự thực thế này, nhưng phải viết quẹo như thế kia. Nghe chúng phán, tức muốn ứa gan. Cáu quá, tối về tao  banh cái miệng Mao Chủ-tịch của vợ (5)  rồi hét lên: Tôi là thằng hèn, không xứng đáng là con cháu ông Đổng, ông Giản.(6) Bây giờ tao tìm mày để thổ lộ cho bõ tức ».
 
Chú giải đoạn 1 của Văn-nghệ Tiền-phong:
(1) Câu này lấy trong sách Luận-ngữ, ý nói : Có người bạn từ xa đến, chẳng đáng vui sao.
(2) Ố nàm nhần. Tiếng Quảng-Đông, nghĩa là An-Nam nhân.
(3) Chêệt. Chỉ người Hoa.
(4) Bài học. Hồi 1978, Đặng Tiểu-Bình đem quân đánh VN, rồi nói rằng dạy cho một bài học.
(5) Miệng Mao Chủ-tịch. Tiếng lóng, mà dân chúng Trung-quốc dùng để chỉ cái ngàn vàng của phụ nữ.
(6) Đổng là Đổng Hồ, người nước Tấn. Giản là người nước Tề. Hai ông làm quan Thái-sử. Dù bị kề gươm vào cổ, bắt phải chép sai sự kiện lịch sử, vẫn chép đúng.
 
Anh kể: Giang Trạch-Dân là người có học, thâm trầm, mưu cơ, tính toán rất cẩn thận. Mỗi lời, mỗi ý đều nói rất văn hoa, lại ưa xen vào những câu trong kinh điển cổ, hoặc những câu thơ, câu từ. Thế nhưng trong buổi họp ông ta gặp gã Đỗ Mười dốt đặc cán mai. Y lại hay lẫn.(1) Một sự kiện đã nói rồi, bàn rồi, lát sau y quay trở lại. Đã thế, thông dịch viên của y thì nói giỏi, nhưng dốt văn chương cổ, không đủ kiến thức diễn giải hết ý của Giang. Tỷ như Giang nói móc Đỗ Mười trong bữa ăn rằng Mười xuất thân là tên hoạn lợn bằng câu:
«  Lợn Trung-quốc không to béo như lợn Việt-Nam, vì chúng ham nhảy cái quá. Còn lợn VN hầu hết là lợn thái giám, nên to lớn ».
 Thế nhưng anh thông dịch, dịch là:
« Lợn Trung-quốc không to béo như lợn VN, vì bọn nuôi lợn ham tán gái, thiếu chăm sóc. Còn lợn VN thì do cán bộ chăm nuôi cẩn thận ».(2)
Tôi hỏi:
- Thế khi bắt tay nhau, thì Giang nói trước hay Đỗ nói trước?
- Không ai nói trước cả. Sau khi bắt tay, thì Giang ứng khẩu đọc hai câu thơ như sau:
Độ tận kiếp ba huynh đệ tại,
Tương phùng nhất tiếu mẫn ân cừu.
Thông dịch, dịch như sau: Sau khi trải qua cơn sóng gió, tình anh em vẫn còn. Hôm nay, gặp lại nhau, cười một cái, mới hiểu rõ ai là bạn, ai là thù.
Theo mày, ý Giang muốn nói gì?
Tôi phát biểu ý kiến:
- Tao thử giải nghĩa theo kiểu Tây xem có đúng không nghe. Độ là bến đò. Tận là hết. Kiếp là tiếng nhà Phật để chỉ tai vạ. Ba là sóng gió. Câu này hiểu theo nghĩa đen  thì: Từ trước đến nay, Trung-quốc như răng,  VN như môi. Hồi 1979, Đặng Tiểu-Bình xua quân đánh VN, rồi nói rằng dạy Hà-nội bài học; thì không còn cái tình môi hở răng lạnh nữa, mà là răng cắn môi máu chảy ròng ròng. Anh em ta, những người Cộng-sản mí nhau trải qua một tai kiếp như đò vượt qua sông đầy sóng gió. Bây giờ các đồng chí sang đây, thì chúng ta lại cũng vẫn là anh em... Cộng-sản. Chúng ta phải xiết chặt tình huynh đệ, bằng không thằng cảnh sát quốc tế nó dùng đô la, nó nhét vào mồm chúng ta, rồi chúng ta lại đánh nhau thì chết.
Không ngờ tôi giảng nghĩa kiểu cà chớn như vậy, mà mấy anh bạn lại cười khúc khích:
- Cũng gần đúng ý Giang. Giang cũng muốn nói như vậy.
- Còn câu thứ nhì, thì ý nghĩa giản dị thôi. Tương phùng là gặp nhau. Nhất tiếu là cười một tiếng. Mẫn là hiểu rõ. Ân là ơn. Cừu là thù. Toàn câu này ý nghĩa như sau: Hôm nay anh em gặp nhau đây, cười một tiếng, hiểu rõ đâu là ân, đâu là cừu.
- Không hẳn như vậy, theo tao thì Giang muốn nói: Chúng ta gặp nhau đây hãy quên đi những gì là cừu thù, mà chỉ nên nhớ đến cái ân khi xưa Trung-quốc đã viện trợ cho VN suốt ba chục năm liền.
Thế nhưng ba hôm sau, một trong ba anh bạn đó nói riêng với tôi rằng:
« Cái câu thứ nhất, nó có ý nghĩa rất sâu sa, đại ý đe dọa Mười, Kiệt rằng: Bọn bay hãy coi gương thằng Lê Đức Anh . Nó bị méo miệng, một mắt nhắm không được. Bán thân bất toại».
Tôi kinh hãi hỏi:
- Ẩu ! Trong hai câu thơ trên chữ nào chỉ vào việc ấy ?
- Mày ăn phó mát Camember riết rồi quên mẹ nó cả chữ nghĩa. Tao hỏi mày, thế chữ Huynh tiếng Việt nghĩa là gì ?
- Là... Anh ! Ừ nhỉ. Chết cha thằng Lê Đức-Anh. Câu trên hiểu theo nghĩa khác là : Sau khi chúng mày với tao đấm đá nhau, thì thằng Lê Đức-Anh còn nằm chình ình ra kia. Bây giờ gặp nhau đây, tao cười một tiếng, để chúng mày biết cái tội lấy oán trả ân.
Tôi tò mò:
Thế bọn Giang đánh thuốc độc Lê Đức-Anh từ bao giờ? Đánh bằng cách nào?
- Cách đây mấy năm,  bộ ba Mười, Anh, Kiệt sang Quảng-Đông triều kiến. Trong dịp đó Anh được tặng một cái áo. Chính cái áo tẩm nước hoa có thuốc đó đã làm cho Anh bị xuất huyết não, thành bán thân bất toại.
- Xạo ! Tao đếch tin.
- Uổng cho mày là giáo sư y khoa, bị mấy con Đầm hớp hồn rồi thành lú lẫn.
- Tao chưa hề xài Đầm! Từ hồi 18 tuổi đến giờ tao toàn ăn cơm Việt hoặc cơm Xẩm. Mày thấy không? Sang đây tao đi với Diệu-Nghi, chứ có đầm đìa nào đâu?
- Im cái mồm đi! Cãi chầy. Tao hỏi mày hôm rồi ông thủ trưởng của tao than rằng, thỉnh thoảng trong đêm ông ấy bị lên cơn đau tim, mày cho ông í một hộp cao dán. Mày dặn rằng: Khi lên cơn thì dán vào ngực, rồi hôm sau đi tìm bác sĩ. Có đúng không?
- Đúng.
- Thuốc đó là thuốc gì?
- Cordipatch.
Tôi chợt hiểu: Thì ra Lê Đức Anh bị Trung-quốc dùng một thứ thuốc thấm qua da, rồi thình lình bị huyết áp cao, sinh tai biến mạch máu não mà thành bán thân bất toại. Biết thế, nhưng tôi giả bộ ngây người ra không hiểu, để anh bạn tôi phải nói ra.  Quả nhiên anh mắc bẫy. Anh hỏi tôi:
- Tao hỏi mày câu này: Mày có nhớ năm 1789, khi sai Thành Lâm sang phong vương cho vua Quang-Trung, vua Càn-Long gửi tặng cho vua Quang-Trung chiếc áo có thêu kim tuyến bẩy chữ :
Xa tâm chiết trục đa điền thử
Tất cả các quan Tây-sơn,  Đại-thanh đều không ai hiểu ý nghĩa bẩy chữ này. Hiểu theo nghĩa đen là: Giữa cái xe, trục bị gẫy, đa số là do con chuột đồng. Ngô nghê thậm ! Nhưng năm 1792, vua Quang-Trung bị não xuất huyết, nằm  bán thân bất toại mấy tháng rồi băng. Năm đó là Nhâm Tý, người ta mới hiểu rõ: Chữ Xa với chữ Tâm là chữ Huệ, tên vua Quang-Trung. Xa tâm là Huệ, chiết trục là gẫy trục, tức chết... Thử là con chuột, chỉ năm Tý, vua Quang-Trung sẽ băng. Trong áo đó tẩm thứ thuốc ngấm dần vào da. Mày hiểu chưa?
- Hiểu.
Tôi trở lại vấn đề:
Thế Mười, Kiệt có hiểu ý nghĩa hai câu thơ đó không ?
- Ngay tại đương trường thì chúng không hiểu. Nhưng tối về, bọn trí thức đi theo cố vấn cho chúng. Chúng hiểu. Vả cái vụ vua Quang-Trung, Lê Đức-Anh, Đào Duy-Tùng, Lê Mai bị đầu độc, Mười, Kiệt đều biết cả. Nên ngu gì thì ngu, chúng cũng hiểu.
 
Chú giải đoạn 2 của Văn-nghệ Tiền-phong:
1. Tin này khá chính xác. Vũ Thư-Hiên trong Đêm giữa ban ngày cũng thuật : Trước đây Đỗ Mười bị bệnh tâm thần, phải vào nhà thương điên hai lần. Theo tin trong nước thì gần đây Mười bị chứng lẫn, đú.
2. Hồi chưa theo Cộng-sản, Đỗ Mười làm nghề hoạn lợn (Thiến lợn). Thấy cái nghề này quá bẩn, Hồ Chí-Minh mới sai chép trong tiểu sử của Mười rằng y làm nghề thợ sơn.
 
- Thế giữa Đỗ với Giang có bàn về việc chủ quyền hai quần đảo Hoàng-sa, Trường-sa không ? (1)
- Có ! Đỗ than rằng trong khi các bên bàn luận chưa ngã ngũ ra sao, thì hải quân Trung-quốc cứ nhằm hải quân Việt-Nam mà tấn công. Như vậy thì sao có thể mẫn ân cừu được?
- Giang trả lời sao?
Giang cười xòa, rồi nói rằng:
- Quần đảo Tây-sa (Hoàng-sa) do Trung-quốc chiếm từ chính quyền miền Nam VN, không liên quan gì tới đảng Cộng-sản Việt-Nam cả. Còn những cuộc đụng độ mới đây tại quần đảo Nam-sa (Trường-sa) thì đó là những biến cố nhỏ. Chúng ta gặp nhau đây, hãy bàn đại cuộc thì hơn.
Đỗ Mười không chịu, y cãi:
- Đụng chạm nhỏ gì mà tới 9 lần. Thiệt hại nhân mạng lên tới mấy trăm. Nhất là cuộc tấn công của hải quân Trung-quốc ngày 14-3-1988, khiến ba chiến hạm Việt bị chìm (2), mấy trăm nhân mạng bị chết.
Giang bèn xuất ra một văn kiện, do Thủ-tướng Phạm Văn-Đồng ký trước đây. Giang nói:
- Ngày 4-9-1958, khi Trung-quốc ra bản tuyên cáo lãnh thổ 12 hải lý, với bản đồ đính kèm, thì ngày 14-9-1958, Thủ-tướng Phạm Văn Đồng của VN, ký văn  thư gửi cho Thủ-tướng Chu Ân Lai của Trung-quốc, công nhận bản tuyên bố lãnh hải. Từ ngày ấy cho đến nay, phía VN chưa bao giờ chống đối văn kiện này. Như vậy rõ ràng VN công nhận toàn bộ vùng biển Đông, trong đó có hai quần đảo Tây-sa (Hoàng-sa) và Nam-sa (Trường-sa) thuộc Trung-quốc. Quần đảo Tây-sa, Trung-quốc đã đánh chiếm từ chính quyền Sài-gòn ngày 19-1-1974. Còn quần đảo Nam-sa (Trường-sa), sau ngày 30-4-1975, VN đem quân tới chiếm đóng. Như vậy là VN xâm lăng, lấn chiếm lãnh thổ Trung-quốc, nên hải quân Trung-quốc phải nổ súng đuổi quân xâm lược là lẽ thường tình. Mười cãi: Tại Trường-sa còn có quân đội của Phi-luật-tân, Đài-loan, Mã-lai. Tại sao thủy quân Trung-quốc không tấn công vào quân hai nước đó, mà chỉ tấn công vào thủy quân Việt-Nam? Giang cười rằng: Quần đảo này hiện đang trong vòng tranh chấp giữa Trung-quốc với Phi-luật-tân, Mã-lai, nên Trung-quốc không thể tấn công họ, như vậy là bá quyền. Còn quân của Đài-loan ư? Quân Đài-loan cũng là quân Trung-quốc đóng trên lãnh thổ Trung-quốc, nên hải quân Trung-quốc không thể nổ súng, vì như vậy là huynh đệ tương tàn. Mươì cãi rằng: Nhưng tại Trường-sa từ trước đến giờ không hề có quân Trung-quốc đóng. Nay Trung-quốc dùng sức mạnh, chiếm mất mấy đảo của VN, như thế là phi lý. Giang bèn trả lời  rằng : Đảng Cộng-sản VN hiện nêu cao việc dùng tư tưởng của Chủ-tịch Hồ Chí Minh, thì đồng chí hãy tuân thủ tư tưởng của Hồ Chủ-tịch, vì chính Hồ chủ-tịch ra lệnh cho đồng chí Phạm Văn Đồng ký văn thư công nhận các quần đảo Nam-hải  là của Trung-quốc.
 
 
 
Tôi hỏi:
- Cuộc mà cả cuối cùng ra sao ?
- Cả hai bên đều cù nhầy. Giang thì nhất định không chịu nhượng bộ, vì căn cứ vào văn thư do Phạm Văn Đồng ký năm 1958. Không còn gì để  bàn nữa.
Tôi hỏi:
- Thế họ có cãi nhau gì liên quan đến vấn đề Cao-man không ?
- Hỏi thế mà cũng hỏi. Quốc-vương Đỗ triều kiến Thiên-tử Giang mục đích về vấn đề này mà thôi.
- Họ bàn gì ?
- Có bàn cái  đếch gì đâu ? Giang chửi Đỗ sai con nuôi là thằng Hun-Sen bóp cổ thằng con lai ngoại hôn Ranariddh của Giang. Như vậy là không tôn trọng những gì cam kết trước đây. (3)
- Tại sao Ranariddh lại là con lai ngoại hôn?
- À xin lỗi, đây là câu nói lóng của bọn tao. Vì khi xưa bọn Lê Duẫn đem quân sang đánh thằng Pol Pot, thì anh chàng Ranariddh đang sống tại Pháp. Anh ta được Pháp giúp đỡ, lập mặt trận, la làng rằng bọn VC nó cướp nước tôi. Vậy có phải mẫu quốc Pháp đẻ ra anh ta không ? Sau khi về nước chấp chính, anh ta đếch có thực lực, anh ta phải ngước đầu nhìn về Thiên-quốc, xin ông bố Đặng Tiểu-Bình giúp đỡ. Thế thì anh ta là đứa con lai, nửa chêệt nửa Tây. Khi Trung-quốc thấy cái thằng Pol Pot bị thế giới kinh tởm quá, thì cho nó bệnh, (4) rồi đem tất cả lực lượng trao cho Ranariddh, để hợp pháp hóa đám thợ giết người này, hầu giữ chân ở Cao-man. Tưởng như vậy là không ai nói gì được. Nào ngờ thằng cảnh sát quốc tế nó sai Quốc-vương Đỗ Mười đá thằng Ranariddh. Đỗ bèn sai thằng Hun-Sen làm. Đúng ra việc làm của Hun-Sen phải kết tội, mà các cơ quan truyền thông của Mỹ gọi nó là anh hùng. Mẹ kiếp, anh hùng cái mả mẹ nó í. Vì vậy Giang thiên tử mới triệu hồi Quốc-vương, Tể-tướng Ố-nàm sang để tính tội.(5)
Tôi cố khai thác:
- Thế Thiên-tử Giang tính tội Đỗ quốc vương ra sao ?
- Người nổi giận, chỉ vào mặt Đỗ quốc vương mắng rằng: « Đế quốc Mỹ kéo thằng Cao-man, Miến-điện vào ASEAN với mục đích gì ? Các người nhập ASEAN có phải  phải các người định dùng quần lang chiến hổ phải không ? Có phải các người dựa vào thằng đế quốc để chống Trung-quốc không ? ».
- Thế bọn Đỗ Mười trả lời sao ?
- Tên Võ Văn-Kiệt trả lời rằng: Khi nhà bị cháy, thì dù nước sông, nước biển, nước cống, nước rãnh gì cũng phải múc mà dập tắt lửa.
- Cuối cùng hai bên thỏa thuận ra sao ?
- Thỏa thuận cái con khỉ tườu. Bọn mặt dầy Mười, Kiệt khi đã bám đít được cái tên cảnh sát quốc tế rồi, thì nó có coi bọn Giang ra cái đếch gì. Mày ở Pháp, thì mày phải biết chứ ? Thằng Mỹ đã huấn luyện mấy trăm sĩ quan của Hà-nội về phối hợp liên quân Đồng-minh (6). Đồng-minh đây là ai ? Nếu không phải bọn ASEAN, bọn Nam-hàn, bọn Nhật-bản, bọn Đài-loan, Thái-lan, Phi-luật-tân ? Phối hợp để đánh ai ? Chống ai ? Nếu không phải là bọn bá quyền Giang ? Hơn hai mươi năm trước, bọn mày bị bọn Mỹ bỏ rơi, bọn Hà-nội được Nga-sô, Trung-quốc giúp, đánh cho thua bét tỹ ra, phải chạy đi khắp nơi. Bây giờ bọn mày là Liên-Âu, là Mỹ rồi, bọn Mười, Kiệt phải quỳ gối trước Liên-Âu, trước Mỹ hát bản nhạc có hai nốt (7).  Nay mai, mày về VN, làm cố vấn Mỹø, tha hồ mà hét tụi nó.
- Tao ở Tây, tao có đánh nhau với ai đâu mà thua với được. Tây đếch cố vấn cho ai hết. Vả Tây có cố vấn cho Mười Anh Nông Dân, cũng không bao giờ dùng đến tao (8). Lý do tao là nhà văn, là có nhiều bạn làm ký giả... hơi tý là đem lên báo.
Trong dịp này mấy anh bạn cho tôi xem cuốn vidéo quay quang cảnh buổi họp. Khi tới chỗ Mười bắt tay Giang, thì anh ta bấm nút cho máy dừng lại rồi chỉ vào đôi câu đối treo trên tường :
- Đôi câu đối này chính Giang đưa ra ý kiến, rồi bọn Hoa-kiều bị Lê Duẫn đuổi khỏi VN làm. Mày thử đọc xem, có gì lạ không ?
Tôi đọc:
Nam-thiên đại thiện, nhân nhân thức.
Bắc-quốc điền thăng xứ xứ tri.
 
- Mày hiểu không ?
- Có đếch gì mà không hiểu. Nam-thiên để chỉ VN, đại là lớn. Thiện là vua nhường ngôi cho người hiền. Nhân nhân thức là ai ai cũng biết. Toàn câu này, Giang có ý diễu Đỗ Mười có cai trị dân như bọn phong kiến. Nhưng nay Mười sắp sửa nhường ngôi cho người khác, chứ không có cái vụ bầu bán gì cả.
- Giỏi. Còn câu sau ?
- Bắc-quốc là Trung-quốc. Điền là ruộng. Thăng là lên. Xứ xứ tri, là khắp thế giới ai cũng biết. Toàn câu ngụ ý : Mấy năm nay, ruộng nương Trung-quốc tăng sản lượng cao, phải nhập cảng gạo VN rất ít. Nhưng cũng ngụ ý nói : Nước sông đưa lên ruộng, làm cho dân no đủ, đó là nhờ Giang Trạch Dân. Bởi giang là sông. Trạch là ruộng. Tóm lại hai câu này ngụ ý: Anh là tên phong kiến, đang chuẩn bị nhường chức tổng bí thư cho đàn em. Cả nước VN ai cũng biết. Còn bên Trung-quốc này, ta là Giang Trạch Dân, ta có kế hoạch làm cho nông sản dư thừa, cả thế giới đều biết.
Anh bạn tôi gật đầu:
Tao cũng nghĩ như thế. Câu đối đó gói ghém nhiều ý thực. Nhưng ở Bắc-kinh này thiếu gì người hay chữ, mà phải nhờ tụi Hoa-kiều ? Bọn tao nghĩ nát óc ra mà không giải thích được. Vậy mày về Pháp, mày thử mò xem, có còn ý khác không ? Nếu mày giải được, thì thư cho bọn tao. 
Chú giải đoạn 3 của Văn-nghệ Tiền-phong:
(1) Hai quần đảo mà Trung-quốc, Việt-Nam đang tranh chấp là Hoàng-sa và Trường-sa. Đảo Hoàng-sa người Hoa gọi là Tây-sa. Còn đảo Trường-sa họ gọi là Nam-sa.
(2)  Mẩu tin này tiết lộ: Hải-quân Trung-cộng đã tấn công hải quân Việt-cộng trước sau 9 lần, làm hư hại 6 chiến hạm, và 3 chiến hạm chìm, chết mấy trăm người.
(3) Qua tiết lộ này, ta biết trong cuộc họp hồi Mười, Anh, Kiệt sang Trung-cộng mấy năm trước có cam kết rằng VC phải để cho Ranariddh, thân Trung-cộng làm đệ nhất thủ tướng Cao-miên.
(4) Qua tiết lộ này, ta mới biết Trung-cộng đã đầu độc Pol Pot.
(5) Mẩu tin này tiết lộ : Trung-cộng kết tội VC bây giờ làm con hờ của Mỹ. Muốn đá tung cái vòi con bạch tuộc Trung-cộng khỏi Đông-Nam-Á, Mỹ sai VC làm. VC bèn sai đứa con ngoan ngoãn Hun-Sen ra tay. Hèn gì, Mỹ cũng như các nước tự do chỉ phản đối Hun-Sen lấy lệ.
(6) Độc giả ở Hoa-kỳ nào biết rõ ràng về tin này, xin cho chúng tôi biết chi tiết.
(7) Bản nhạc hai nốt: Tiếng lóng của giới bình dân Trung-quốc để chỉ tiền Hoa-kỳ dollar. Hai nốt là đô và la.
(8) Mười Anh Nông Dân để chỉ Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Nông Đức Mạnh. Dân để chỉ Võ Văn Kiệt, vì Kiệt có bí danh là Sáu Dân.
 
Anh Hoàng ơi!
Từ hôm về Pháp đến giờ, tôi cứ suy nghĩ mãi về ý nghĩa hai câu trên. Nào chiết tự ? Nào chia chữ. Nào hợp chữ, mà cũng không tìm ra ý nghĩa. Sau, tôi thấy cái vế dưới để nói  về Giang, thì tôi nghĩ cái vế trên phải có cái gì nói về Đỗ. Hai câu này do Hoa-kiều làm thì phải có ý nghĩa tiếng Việt ở trong. Mà tiếng Việt thì hay nói lái. Cuối cùng tôi đã tìm ra:
Nam-thiên đại thiện nhân nhân thức,
Bắc-quốc điền thăng xứ xứ tri.
 
Đại là lớn. Đại thiện là lớn thiện, nói lái của tiếng thiến lợn.
Còn vế dưới điền thăng là thằng điên.
Tóm lại đôi câu đối trên, Giang móc Đỗ Mười là thằng hoạn lợn, là thằng điên.
Vậy hai câu trên bao hàm ba nghĩa khác nhau:
 
Nghĩa thông thường:
Tại Việt-Nam, Đỗ Mười sẽ nhường ngôi cho đàn em. Ai cũng biết.
Bên Trung-quốc, ruộng nương xanh tốt, gạo dư thừa. Cả thế giới đều hay.
 
Nghĩa thâm trầm:
Tại Việt-Nam, Đỗ Mười là tên phong kiến, độc tài, đi chệch hướng của chủ nghĩa Cộng-sản, giữ ngôi bí thư như của riêng.
Bên Trung-quốc, Giang là người làm cho dân chúng có đủ lúa, gạo.
 
Nghĩa bí hiểm:
Tại Việt-Nam Đỗ Mười chỉ là thằng hoạn lợn. Ai cũng biết.
Bên Trung-quốc, người nào cũng biết y là một thằng điên.
 
Thôi đi xa về kể chuyện cho anh đọc như vậy đủ rồi. Nghe nói hồi này anh hay sang Pháp chơi. Dính Đầm rồi hả ? Báo cho anh biết, cái hũ phó mát Camembert của mấy cô Đầm mà tí toáy vào rồi, thì không bao giờ có thể dứt ra được đâu.
Viết đến đây, tôi cảm thấy ơn ớn lạnh. Chơi với anh gần ba mươi năm gì mà tôi không biết anh. Đe giết anh, anh không sợ. Nhưng không cho anh làm báo thì anh hóa điên. Khi làm báo, thì anh coi độc giả của anh như vua. Cho nên viết thư cho anh, tôi sợ anh đăng tên tôi lên, thì tôi sẽ mất job. Vậy tôi xin hăm trước : Anh mà đăng lên, thì đúng ngày mùng một tết tôi sẽ sang Arlington bẹo tai anh. Tôi nói được thì tôi làm được.
Kính chúc anh khỏe. Cho tôi hôn cháu Thủy-Tiên của chú. Nhớ nó gớm.
Yên-tử cư-sĩ Trần Đại-Sỹ.
 
Ghi chú của IFA:
Quả nhiên ký giả Hồ Anh cho đăng bức thư này vào Văn-Nghệ Tiền-Phong số xuân Mậu Dần, sau khi đã sửa chữa đi đôi chút, dưới hình thức một người bạn ở Costa Mesa, California, viết thư cho ông. Nhưng đảng Cộng-sản VN cũng đoán ra người viết là ai, nên Yên-tử cư-sĩ mới bị liệt vào một trong 80 tên phản động nhất.

Không có nhận xét nào: