I (Thân hữu kể lại
cho biết đây là chuyện có thực nhưng người trong chuyện muốn ẩn danh nên phải
đổi tên.)
Chị
Buôn đứng ngồi không yên. Lòng chị bồn chồn như lửa đốt đến nỗi chị
không thiết ăn uống gì mà cũng chẳng muốn nấu cơm cho các con chị ăn. Sự sống
còn của gia đình chị bấp bênh quá vì mới thoáng nghĩ đến ngày mai, chị đã rùng
mình, người như muốn lên cơn sốt. Xung quanh chị, ngưòi ta cũng lo lắng như chị
và có mấy người như chị Thảo, chị Đàm, cô Bé, mấy tuần nay chẳng hiểu đi đâu mà
chị không gặp. Ghé nhà coi thì cửa đóng kín, hỏi người kế cận, họ cũng mù tịt,
chẳng biết các gia chủ và con cái đi đâu?
<!>
Trong
khi tin đồn mỗi ngày một nhiều và toàn là những tin hãi hùng thì tình trạng cấm
trại 100% vẫn duy trì cho những quân nhân có nhiệm vụ bảo vệ hậu cứ Sư đoàn 2
Bộ binh ở Chu Lai. Các Trung đoàn tác chiến đã bung ra khắp vùng lãnh thổ trách
nhiệm để ngày đêm quần thảo với địch mà quân số và vũ khí hơn ta 10 lần. Cuộc
chiến quả là cam go, khốc liệt. Kể từ ngày mất Ban mê Thuột, rồi di tản Pleiku,
Kontum, di tản Huế, Đà Nẵng...miền Trung lên cơn sốt chưa từng có trong lịch sử
miền Trung. Cơn sốt dữ dằn cái Tết năm Mậu Thân (1968) cũng là một cơn sốt nhớ
đời, nó lấy đi mạng sống hàng chục ngàn người, thiêu rụi tàn phá hàng ngàn nóc
gia và công thự, nó để lại một tấm khăn sô vĩ đại cho Huế và miền Trung mà mỗi
lần nhớ lại chị Buôn còn rùng mình vì cha và hai người anh chị đã chết trong biến
cố đó, chết chôn tập thể cùng với cả trăm người ở một cái hố lớn được đào sẵn,
nông cời, ở một vùng hẻo lánh ngoại vi Huế. Hai người anh của chị, một là quân
nhân, một là viên chức xã ấp VNCH nhưng còn cha chị chỉ là một ông thợ hồ mà
cũng tử thương vì một cán cuốc trước khi đẩy xuống hố ở Khe Đá mài.
Nhưng
so ra, cuộc tổng công kích Tết Mậu Thân quả chưa thấm tháp gì với kỳ này. Dù
trình độ học vấn chưa hết bậc tiểu học nhưng nghe mãi radio và thỉnh thoảng qua
lối xóm bàn tán, kháo chuyện thời sự, chị Buôn cũng biết Quân đội Mỹ đã rút đi
hết, chỉ còn để lại ít Cố vấn để làm việc với các cấp chỉ huy của Quân lực Việt
Nam Cộng hòa mà thôi. Súng đạn tiêu thụ, mất mát không thay thế, các cơ phận
rời không tiếp liệu; đại pháo, phi cơ không yểm trợ; trực thăng, xe tăng giới
hạn xăng, dù đầu óc kém cỏi, quê mùa như chị Buôn cũng thấy Cộng hòa miền Nam
Việt Nam khó sống nổi, đâu cứ phải thức giả mới biết!
Địch
chiếm Sa Huỳnh, điểm địa đầu tỉnh Quảng Ngãi với ý đồ chận đường quân dân ta
đào thoát vào miền Nam và cô lập hẳn từ Quảng Ngãi trở ra. Hồi đầu năm 1973,
địch đã chiếm thị trấn Sa Huỳnh. Theo tin tức thì từ 28-1-1973 cho đến
16-2-1973, Sư đoàn 2 Bộ binh đã tái chiếm Sa Huỳnh với sự yểm trợ mạnh mẽ của
hai tiểu đoàn Pháo binh với sáu Pháo đội tác xạ đồng thời gây cho địch những
tổn thất lớn về quân dụng và nhân mạng.
Ngày
15-2-1973, Quốc lộ 1 được khai thông. Một đoàn xe dân sự nối đuôi nhau cả mấy
cây số hân hoan lăn bánh trở vào Nam.
Nhưng
đó là năm xưa, chuyện cũ. Giờ đây, giữa tháng 3-1975, địch lại chiếm Sa Huỳnh
và cơ hội tái chiếm Sa Huỳnh mỏng manh như sợi tơ nhện giăng trước cửa nhà chị
Buôn. Người Mỹ đã định bỏ Miền Nam Việt Nam cho kẻ thù của họ, đã ngại phải đổ
thêm quân dụng, quân nhu vào một cuộc chiến dằng dai với số tử vong của binh sĩ
Mỹ đã lên tới con số 58,000 người, đã ngại khi phải đối đầu với xe tăng Nga,
đại pháo Trung cộng và tiểu liên Tiệp khắc!
Trưa
ngày 22-3-1975, đang lúc chị Buôn đứng ngồi không yên thì anh Buôn về, dáng
điệu hớt hải, mặt mày buồn so. Chị Buôn thấy chồng mừng quá muốn la lên, bốn
đứa con anh cũng bu lấy bố.
“Anh ơi!” chị Buôn rên rỉ, “anh cứ đi
biền biệt mà tình hình này nguy hiểm quá lắm rồi. Xóm láng giềng họ đi đâu hết
trơn. Anh tính sao đây?”
Ba
đứa nhỏ nhất, thằng Tung, thằng Chưởng và con Bi mới 6, 4 và 3 tuổi đeo cứng
lấy anh Buôn làm anh phải gỡ tay chúng ra. Đứa con gái lớn nhất của anh chị mới
10 tuổi, con Lệ, phải can thiệp. Nó là đứa con khôn và ngoan nhất của anh chị
Buôn. Nó kéo tay hai đứa em:
“Bi và Chưởng ra đây với chị. Để ba má
bàn chuyện.”
“Anh đã ăn cơm chưa?” Chị Buôn hỏi
chồng.
“Cơm nước gì đâu. Đến bữa không ăn thì
đói mà giá có dọn cơm ra đó cũng không nuốt vô. Tình hình bết bát quá. Miền
Trung không khéo mất thôi!”
“Thôi để em nấu mì gói cho cả nhà ăn. Em
và các con cũng chưa ăn uống gì.”
Nói rồi, chị Buôn đi lấy soong đun nước
sôi và mở từng gói mì khô bỏ vào soong, múc ra sáu, bảy tô cho mỗi người một
tô. Chị vừa ngồi nhìn chồng và các con ăn vừa đút cho con Bi.
“Má ăn đi! Má để con đút cho nó, má!”
Lệ buông đũa mặc dù nó vừa bỏ vào miệng
được một gắp mì.
“Con cứ ăn cho no đi. Để má ăn sau cũng
được.”
Anh Buôn ngồi nhìn vợ con muốn ứa nước
mắt. Gia đình anh đang yên vui mặc dù với lương Trung sĩ, anh chị vẫn phải hết
sức tiện tặn mới tạm đủ. Đồng bạc Việt Nam Cộng hoà kể từ sau vụ Tết Mậu Thân
cứ sụt giá đều đều. Trước kia hai đồng bạc mua được bó rau muống, bây giờ bó
rau muống cũng phải bốn, năm đồng. Trước kia hai chục một lít gạo vừa, bây giờ
giá gấp đôi. Vật giá tăng như thế nhưng lương lính không tăng hoặc chỉ tăng chút
đỉnh. May mà có hàng Quân tiếp vụ để lần hồi qua ngày chứ cứ trông vào đồng
lương còm cõi của anh thì tặn tiện lắm cũng chỉ đủ cho hai bữa cơm bình dân mỗi
ngày. Dù vậy, anh Buôn vẫn thấy cuộc sống có thoải mái. Khi Sư đoàn có lệnh đi
hành quân thì đi, sống chết phó thác mặc trời, còn không thì ở hậu cứ canh gác
doanh trại, mỗi ngày về ăn cơm cũng được gặp vợ con một lần.
Bữa
ăn quá buồn tẻ mặc dù mấy đứa nhò đều thích mì gói. Chỉ thiếu mấy lá rau cải
xanh tươi cho vào ăn đỡ ngán nhưng cả hai tuần nay, chị Buôn đâu có thiết đi
chợ đi búa gì. Ngôi chợ xép ở ngay cạnh trại gia binh, mấy hôm nay chẳng biết
có ai mang rau cải đến bán không?
Anh
Buôn ăn xong tô mì. Anh giở gói thuốc lá Quân tiếp vụ ra châm một điếu và đi
kiếm ly uống nước trà. Chị Buôn hỏi lại câu hỏi vừa nãy mặc dù chị có linh cảm
anh không tìm ra câu trả lời.
“Bây
giờ anh tính sao đây anh?”
Những
vết nhăn trên trán anh có vẻ nhiều hơn:
“Tui
rối ruột quá, má con Bi à! Việt cộng đánh khắp nơi loạn xà ngầu mà thiết giáp,
pháo binh và nhất là không quân không còn yểm trợ cho bộ binh như trước. Năm
mươi phần trăm cũng chả được. Nghe đồn là xăng máy bay, xe tăng và đạn pháo
binh đã cạn, người Mỹ chưa tiếp tế sang. Anh em trong tiểu đoàn xôn xao lắm mặc
dù cấp trên vẫn trấn an hằng giờ, hằng ngày. Có mấy thằng bạn tui đã đào ngũ.
Cấp chỉ huy cũng có nữa. Tui nghe người ta ùn ùn lên tầu ở Đà nẵng để kéo vào
Sàigòn, người chết cả mấy trăm vì rớt sông, rớt biển. Hãi hùng lắm, má con Bi
à!”
“Thôi,
em bàn với anh,” chị Buôn giọng xác quyết,”Chết một đống hơn sống một người.
Nếu ông Trời đến lúc đổn miền Trung này thì cứ cho vợ chồng con cái mình chết
chung một huyệt, chứ đừng để người còn kẻ mất đau lòng lắm. Mà em cũng không
ưng ở lại sống với họ. Mình là lính Cộng hoà từ bao nhiêu năm nay, kẻ thù không
đội trời chung với họ, làm sao họ để yên mình?”
Hai
vợ chồng anh Buôn vừa bàn tới đó thì nghe tiếng gõ cửa rồi một khuôn mặt nhô
vào:
“Buôn
đã về đấy hả, tình hình ra sao?”
Vợ
chồng anh Buôn nhìn ra. Đó là Thượng sĩ Sáu, hạ sĩ quan trông coi trại gia
binh, hai vợ chồng thường lui tới chuyện trò thân thiết với vợ chồng anh Buôn.
Buôn nhìn thấy Sáu liền chạy ra cửa đón vào trong. Tình thế tuyệt vọng này, bất
cứ người bạn thân nào cũng quí dù chỉ để nghe một lời an ủi bởi mọi sự nâng đỡ,
trông cậy, hi vọng dường như đã cạn kiệt.
“Vào
đây đã anh Sáu. Ủa có cả chị Sáu nữa. Mời anh chị vào đây một chút đã!”
Con
Lệ và hai ba đứa nhỏ vòng tay chào vợ chồng anh Sáu. Chị Sáu xoa đầu con Bi bảo
anh chị Buôn:
“Vợ
chồng anh coi bộ bình tĩnh quá trong khi mọi người quýnh quáng hết lên rồi.
Không định chạy vào Nam sao?”
“Chị
Sáu ơi,” chị Buôn ôm lấy vai người bạn gái la lên nho nhỏ,”tụi em có biết phải
chạy đi đâu đâu. Anh chị có đường, có nẻo nào làm phước chỉ cho tụi em với!”
Anh
Sáu trấn an:
“Nghe
các cấp nói tầu Hải quân đậu ở ngoài biển nhiều lắm. Ngày mai người ta bắt đầu
rước binh sĩ và gia đình lên tầu chạy vào Sàigòn.”
Buôn
nhìn Sáu:
“Sao
tôi không nghe gì hết. Mai vào giờ nào vậy anh Sáu?”
“Chắc
từ sáng sớm. Tin phổ biến hạn chế nên nhiều người không biết. Thôi, tụi tui
phải đi vài công chuyện nữa. Chào anh chị. Gặp sau nghe!”
Vợ
chồng anh Sáu ra khỏi, chị Buôn hỏi chồng:
“Tin
tức sốt dẻo vậy mà anh không nghe gì sao?”
“Không
ai nói tui hết. Có lẽ họ sợ người ra bãi biển đông quá rồi không đủ tầu mà lên
nên phải thân thiết họ mới nói. Tui bàn với má con Bi ở nhà cụ bị quần áo cho
lũ nhỏ, chỉ bỏ vào mấy cái túi vải vừa đeo. Chớ chồng chất nhiều, không đeo
nổi. Sáng mai tui ở Đại đội về là ra bãi biển Chu Lai. Người ta sống, mình
sống. Người ta chết, mình chết. Đã đến nước này thì sợ cũng không được nữa.”
Nói
xong, anh Buôn ôm hôn bốn đứa con rồi tất tả ra đi. Tiếng súng giao chiến giữa
hai bên ở xung quanh căn cứ Chu Lai vẫn nổ đều đều, lúc xa, lúc gần. Trại gia
binh mọi khi đông vui, mỗi buổi chiều các bà vợ quân nhân ra giếng múc nước,
gặp gỡ chuyện trò trước khi về nhà nấu bữa cơm tối cho chồng con. Tiếng hát tân
nhạc, cải lương, hò Huế, tiếng đọc tin đều đều từ các máy thu thanh khắp một
khu trại hoà lẫn với tiếng trẻ nhỏ nô đùa sau giờ học ban chiều làm trại gia
binh mang một bộ mặt tươi vui, đầm ấm. Nay trái lại, người lớn trẻ con đi đâu
cả, chỉ thỉnh thoảng mới thấy một người lướt đi như cái bóng. Không khí có vẻ
rờn rợn, ma quái, chết chóc thế nào ấy vì nó thiếu hẳn những ánh đèn ấm áp từ
trong các căn nhà lấp ló ra đường, ra sân; thiếu hẳn những làn khói trắng ấm áp
nhà nhà đun bếp lùa qua cửa sổ và nhất là nó thiếu hẳn một sự an bình trong tâm
hồn những trại viên còn đang ở tại trại nghe ngóng tin tức từng giờ từng phút.
Chị
Buôn kiếm được ba cái túi vải và một cái ba-lô nhà binh. Chị nhét vội mấy cái
quần áo của lũ nhỏ vào, không quên mấy tờ giấy khai sanh, căn cước. Vài cái
chăn mền to và lồng phồng, vài cái nồi niêu để nấu nướng và đồ lặt vặt, chị bỏ
lại hết. Duy có thùng mì gói chị cố mang đi để phòng khi đói có cái lót dạ. Chị
chia cho anh Buôn cái ba-lô đeo vai và bồng thằng Chưởng; chị đeo một túi xách
và bồng con Bi; con Lệ đeo một túi xách, còn thằng Tung không phải đeo gì. Mở
ngăn kéo bàn, chị quơ thêm được chai dầu gió xanh, chị nhét vào túi con Lệ để
đề phòng cảm mạo.
Tiếng
súng nổ rải rác suốt đêm, cả tiếng trọng pháo và tiểu liên. Mấy đứa nhỏ và chị
Buôn chúi vào một cái giường vì quá sợ không dám nằm riêng như mọi khi. Trẻ con
dễ ngủ. Nằm êm êm chúng đi vào giấc ngủ. Con Lệ lớn nhất nằm phía ngoài còn con
Bi rúc vào lòng mẹ ngủ say.
Chị
Buôn không ngủ nổi vì trăm mối vương vấn bên lòng. Ba má chị ở miền Nam, cả mấy
tháng nay không có thư từ. Ba má anh Buôn ở Nha Trang. Chị cầu mong vào được
Sàigòn để chị đi Trà Vinh gặp lại cha mẹ. Hoặc có tệ cũng ra tới Nha Trang, nơi
gia đình anh Buôn.
Chị
suy nghĩ vẩn vơ cho đến lúc thiếp đi được một lát rồi giật mình tỉnh dậy vì
tiếng nổ rất gần của mấy trái hoả tiễn của địch. Sở dĩ chị phân biệt được trái
đại bác của ta câu đi và trái hoả tiễn của địch phóng đến vì anh Buôn đã dạy
chị. Buôn bảo vợ tiếng nổ ở trong trại gia binh thì chỉ có địch phóng hoả tiễn,
B40 hoặc bích kích pháo vào. Tiếng nổ của đại bác ta câu đi nghe nhỏ, chỉ ục
một cái. Nghe riết quen, phân biệt được liền.
Mấy
đứa nhỏ cũng bị đánh thức. Đạn nổ gần quá rung chuyển cả cái nhà mỏng manh trại
gia binh. Mấy đứa trẻ ôm chặt lấy mẹ. Chúng quá sợ hãi. Chúng mất tinh thần. Mà
chẳng riêng chúng, chị Buôn cũng quá sợ. Chính từ những cánh tay và bàn tay gầy
guộc, nhỏ xíu đó mà chị còn cảm thấy vững dạ khi nằm đây. Chị cảm thấy cuộc đời
sao quá nhiều đau thương và gai góc. Chị thương những đứa con hơn chính thân
chị. Chính bởi thương chúng quá nên nghe hoả tiễn của Cộng sản từ xa phóng vào,
chị đã có ý nghĩ kỳ cục. Chị mong có một trái rớt trúng cái giường chị và lũ
nhỏ đang nằm. Vậy là xong hết. Khỏi buồn phiền, sợ hãi. Khỏi chạy đi đâu cả.
Quả đạn rớt lúc có anh Buôn thì càng tốt vì cả gia đình cùng đi một lượt. “Chết
một đống hơn sống một người”, ông bà mình đã nói như thế từ ngàn xưa!
Nhưng
trái hoả tiễn không rớt trúng ngay giường chị Buôn như chị ước muốn mà nó rớt ở
khu B, phía ngoài. Sau ba tiếng nổ trời long đất lở, có tiếng hét, tiếng khóc,
tiếng trẻ con la và tiếng chân chạy thình thịch từ khu A của chị Buôn sang khu
B. Chị đoán có người chết và người bị thương vì đạn phóng vào khu gia binh đông
đảo vợ con lính và Hạ sĩ quan như thế này, không thể không có chết, một nhiều
một ít thôi!
Trời
đã sáng rõ. Những trái đạn không còn rơi ở khu gia binh của chị Buôn nhưng
chúng đã xê dịch xa hơn về phía Bắc. Chị Buôn không dám bỏ con để sang khu B
xem nhà ai bị trúng đạn nhưng chị nghe tiếng vợ Hạ sĩ Chuyết nói với mấy người
ở ngoài đường:
“Chết
trọn hai gia đình vợ con ông Thượng sĩ Chí và Thượng sĩ Lạch, cả thảy mười hai,
mười ba người. Bị thương hai nhà hai bên cũng cả chục. Máu me, thịt xương, tay
chân vung vãi trông ghê lắm mà nhà cửa đồ đạc tan tành, nát nghếu hết.”
Tiếng
một người khác:
“Tình
hình này rồi ai chôn ai đây? Hai ông Thượng sĩ đi hành quân, lấy ai đi báo cho
các ông ấy về chôn vợ con?”
Chị
Buôn cảm thấy đau lòng cho những người xấu số. Như trước đây đã có xe nhà binh
chở hòm tới tẩn liệm rồi đưa đi chôn, dù có chết cũng có chỗ để an giấc ngàn
thu. Giờ này đám xương thịt bèo nhèo tan nát lẫn với máu me sẽ còn phải nằm ở
đó cho đến bao giờ? Ai là người có can đảm và hi sinh đứng ra chôn cất cho
những người xấu số đang lúc dầu sôi lửa bỏng này? Ai cũng phải lo vấn đề di tản
cho gia đình người ta trước nhất, sau đó mới đến những việc khác. Giả sử những
cái xác đó là bố mẹ, ông bà, anh em, con cháu họ chưa chắc họ đã dám hi sinh
thời giờ lo chôn cất. Tất cả chỉ vì họ không muốn bị kẹt lại sống với Cộng sản,
không muốn con cái họ sống với Cộng sản. Trong 30 năm với ít nhiều hiểu biết về
con người Cộng sản, họ đã quá ghê tởm cái chế độ phi nhân coi con người như
những dụng cụ không hơn không kém, trói buộc và đối xử với con người như đàn
nông súc chỉ biết có mỗi một điều: sản xuất để mang lại lợi nhuận cho bộ máy
cầm quyền và đảng viên Cộng sản. Chị Buôn không biết gì về lý thuyết Cộng sản
nhưng kinh nghiệm xương máu với Cộng sản thì chị có thừa: cha, hai người anh
ruột của chị đã bị Cộng sản giết Tết Mậu Thân 1968.
Về
hai gia đình mới chết, chị Buôn nghĩ dù có dã man đến mấy thì quân Cộng sản
cũng phải chừa trại gia binh ra vì toàn là đàn bà, con nít vô tội. Sao họ nỡ
bắn hoả tiễn vào trại gia binh như thế? Họ có còn là con người không hay đã mất
hết nhân tính xuống hàng thú vật?
Khoảng
9 giờ sáng, anh Buôn đẩy cửa bước vào nhà, chị Buôn và mấy đứa nhỏ chưa kịp
mừng thì anh đã hối, vừa nói vừa thở:
“Mấy
má con đeo đồ lên vai và theo tôi đi!”
Chị
Buôn nhìn chồng:
“Giờ
đi đâu, hả anh?”
Anh
Buôn gắt:
“Thì
nói đi là cứ đi. Đi theo tôi! Không còn giờ để cà rề cà rà!”
Chị
Buôn và mấy đứa con riu ríu đeo túi lên vai. Một cái ba-lô quan trọng thì chị
tròng vào vai cho anh mặc dầu ở vai kia, anh đang đeo khẩu M16 và mấy gắp đạn.
Cửa khép hờ, vả lại giờ này cũng chẳng biết sao hơn; vợ chồng anh Buôn và mấy
đứa con bương bả ra khỏi nhà.
Hôm
đó là sáng ngày 23-3-1975.
Anh
Buôn dẫn vợ con ra mé lộ, vợ chồng con cái xăm xăm đi ra phía bờ biển. Chợt anh
thấy một chiếc xe Lam ba bánh đang chạy ngược chiều về phía anh. Chiếc xe Lam
của người quen, anh Năm Quảng Ngãi đang bon bon trên đường. Anh Buôn giơ tay
chận xe lại, lúc đó Năm Quảng Ngãi cũng đã nhận ra bạn. Anh ta ép sát lề.
“Anh
chị và các cháu đi đâu đây?”
“Tụi
tui ra bãi biển Chu Lai. Anh Năm cho vợ chồng tui và các cháu ra đó được
không?”
“Anh
Buôn tính đón tầu Hải quân vào Sàigòn sao?”
Vốn
bạn thân thường nhậu nhẹt với nhau, Buôn phải nói thật, vả lại nhìn bầu đàn thê
tử của Buôn, người ta cũng đoán anh định đi đâu.
“Tui
không giấu gì anh, vợ chồng tui và các cháu tính ra bãi biển xem có tầu Hải
quân thì vào Nam với ông bà ngoại các cháu mà không được như vậy thì ra tới Nha
Trang có gia đình ông bà nội các cháu cũng được.”
Năm
sốt sắng:
“Lên
xe đi, tôi chở dùm anh chị và các cháu ra bãi biển. Nhưng ở ngoài đó giờ này
đông lắm rồi. Sáng đến giờ tôi đã chở cả chục chuyến, lại còn mấy xe khác nữa.
Có người ngủ đêm rồi ở bãi biển.”
Vợ
chồng anh Buôn và con cái leo lên, chẳng biết sẽ ra sao, thôi đành phó thác cho
định mệnh.
Khi
xe tới nơi, Buôn thấy một rừng người mà ngán ngẩm. Tầu nào chở cho hết đám
người này? Ở ngoài xa có mấy chiếc tầu Hải quân mầu xám đang đậu và mấy chiêc
ca-nô chạy qua chạy lại nhưng với số người đứng kín một bãi biển mà nếu đếm ra
có ít cũng hơn vài chục ngàn, tầu bè đâu mà chở cho hết? Dầu sao anh cũng vẫn
hi vọng. Nhất là chị Buôn, sống chết gì chồng, các con chị và chị cũng phải rời
nơi này.
Cuộc
sống êm đềm của miền Trung từ năm 1954, sau khi chia đôi đất nước đã làm cho
tâm tư chị chỉ nghĩ đến những người lính như chồng chị hằng ngày hằng đêm xả
thân để bảo vệ lá cờ vàng ba sọc đỏ tượng trưng cho Dân chủ,Tự Do, tượng trưng
cho An bình, No ấm.
Anh
Buôn bồng con Bi, đeo súng đạn và ba-lô. Chị Buôn dắt thằng Chưởng vì bồng nó
một lúc đã quá mỏi. Vai chị đeo cái túi xách trong có bi-đông nước và ít gói mì
để có cái mà ăn cầm hơi trên tầu. Con Lệ dắt tay thằng Tung, thằng Tung nắm lấy
tay ba má nó vì anh Buôn đã dặn cả nhà cẩn thận kẻo lạc, lúc được lên tầu mà
còn thiếu một đứa thì coi như phải ở lại hết.
Một
rừng người xơ xác, mặt mày thất thần như gà phải cáo đứng khít vào nhau nhìn ra
biển, chỗ mấy chiếc tầu Hải Quân Quân lực VNCH đang đậu. Không có một tiếng
cười dù là của trẻ nít mà chỉ nghe những tiếng bàn tán nhỏ nhỏ của người lớn và
thỉnh thoảng tiếng khóc của con nít. Trong cuộc đời của chúng, chúng chưa từng
thấy một lần như thế này. Xớn xác, lo âu, hỗn độn, đau khổ và mệt mỏi. Một rừng
người đông như thế nhưng không có người đứng ra chỉ huy.
Người
ta lội dần dần ra phía biển để hi vọng lên tầu trước. Ai cũng chỉ nghĩ đến gia
đình mình và tìm mọi cách bảo bọc cho chu toàn. Có mấy người đàn bà đứng khóc
rưng rức vì lạc chồng, lạc con. Không phải chỉ có gia đình quân nhân Sư đoàn 2
Bộ Binh mà còn đủ mọi thành phần xã hội
ở nhiều nơi tụ tập về đây vì nghe đồn tầu Hải Quân Việt Nam Cộng hoà sẽ
đón hết đưa vào Nam. Người ta bí mật truyền tai nhau ở Sàigòn sắp có Chánh phủ
Hoà hợp Hoà giải Dân tộc gồm ba thành phần: Việt Nam Cộng Hoà, Mặt trận giải
phóng miền Nam của Việt cộng và thành phần trung lập, không thuộc phe nào. Có
một số chính khách và nhà tu hi vọng mình sẽ đứng trong các thành phần đó để
tham gia Chánh phủ, để lại ăn trên ngồi trốc, danh tiếng vang lừng.
Người
ta cũng đồn từ Nha Trang đến Quảng Trị sẽ nhường cho Bắc Việt, sẽ theo chế độ
Cộng sản. Còn từ Nha Trang trở vào miền Nam sẽ thuộc Chánh phủ ba thành phần.
Vì vậy, cách gì cũng phải rời miền Trung cho sớm để bảo đảm một cuộc sống dễ
thở dù là bỏ lại hết mọi thứ. Cuộc di cư năm 1954 đã cho nhiều người cái kinh
nghiệm ấy. Mất hết cũng được nhưng còn Tự Do, Dân chủ là còn tất cả. Mất Tự Do,
Dân chủ là mất hết.
Người
dân Việt đã mất rất nhiều lần rồi lại bắt đầu làm lại nhưng họ nghĩ chẳng thà
như thế hơn là ở lại sống với bọn người phi nhân, tàn độc, mất gốc, tay sai
Cộng sản Quốc tế.
Hoà
Hợp hoà giải, họ nghĩ vậy - dù có Cộng sản trong đó - vẫn còn khả quan hơn toàn
Cộng sản. Kể từ tháng 7-1954, người dân từ vĩ tuyến 17, cầu Hiền Lương trở vào
đến mũi Cà Mau và ra tới tận các đảo Phú Quốc, Côn Sơn, Trường Sa, Hoàng Sa đã
quá sợ chủ nghĩa Mác Xít, chủ nghĩa sắt máu chỉ đem lại đau khổ, chết chóc, đói
rét, nô lệ, lầm than cho người dân.
Bỗng
đám đông ồn ào và náo loạn hẳn lên. Người ta đã nhìn thấy mấy chục người đàn
ông bơi ra xa và được ca-nô đón, đưa lên tầu lớn vì tầu lớn sợ mắc cạn không
dám vào sát bên trong. Người ta ùn ùn lội ra đồng thời giơ tay vẫy, miệng la
oai oái:”Vào thêm tí nữa, tí nữa. Sâu quá chúng tôi không lội ra được.” Hàng
trăm, hàng ngàn cái miệng cùng gào, hàng ngàn bàn tay cùng vẫy, hàng chục ngàn
đôi mắt cùng hướng ra những chiếc ca-nô đang đón khách. Bây giờ có phép gì phi
thân ra tầu lớn để được chở vào Nam thì có lẽ không điều gì trên cõi đời này
hạnh phúc hơn!
(còn tiếp)
Bút
Xuân Trần Đình Ngọc
(Truyện này trích từ Tuyển
tập Truyện Ngắn “Những con Dốc Đứng” Đông A xuất bản tại California, Hoa Kỳ
1999)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét