Tìm bài viết

Vì Bài viết và hình ảnh quá nhiều,nên Quí Vị và Các Bạn có thể xem phần Lưu trử Blog bên tay phải, chữ màu xanh (giống như mục lục) để tỉm tiêu đề, xong bấm vào đó để xem. Muốn xem bài cũ hơn, xin bấm vào (tháng....) năm... (vì blog Free nên có thể nhiều hình ảnh bị mất, hoặc không load kịp, xin Quí Bạn thông cảm)
Nhìn lên trên, có chữ Suối Nguồn Tươi Trẻ là phần dành cho Thơ, bấm vào đó để sang trang Thơ. Khi mở Youtube nhớ bấm vào ô vuông góc dưới bên phải để mở rộng màn hình xem cho đẹp.
Cám ơn Quí Vị

Nhìn Ra Bốn Phương

Thứ Bảy, 13 tháng 12, 2025

SUC MANH PHAO BINH - Vân Xuyên

 

(Xin ghi chú : ĐÀI QUAN SÁT PHÁO BINH của CỘNG QUÂN là những toán quân có nhiệm vụ quan sát, theo dỏi các mục tiêu, vị trí đóng quân của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa rồi báo cáo cho các đơn vị PHÁO BINH của Cộng Quân thực hiện các CUỘC PHÁO KÍCH, các TRẬN ĐỊA PHÁO vào các VỊ TRÍ QUÂN SỰ của QL/VNCH. Các toán quân nầy thường được ngụy trang, bố trí trên các ngọn cây, đồi núi ở quanh các Căn Cứ Quân Sự, các Vị Trí Đóng Quân của QL/VNCH, hoạt động ngày,đêm 24 giờ trên 24 giờ. 
<!>
Còn PHÁO BINH của Cộng Quân thì được bảo vệ bởi các LỰC LƯỢNG PHÒNG KHÔNG để chống lại các cuộc OANH KÍCH, NÉM BOM của KHÔNG LỰC VNCH. Cộng Quân luôn luôn áp dụng " TAM THỨC ĐỒNG HÀNH " tức là PHÁO BINH, ĐÀI QUAN SÁT PHÁO BINH và PHÒNG KHÔNG, hổ trợ cho chiến thuật " TIỀN PHÁO HẬU XUNG và CÔNG ĐỒN ĐẢ VIỆN ". ).

- Trong cuộc tấn công, cưỡng chiếm và xâm lăng miền Nam Việt Nam (VNCH), Cộng Sản Bắc Việt đã dùng mọi thủ đoạn gian xảo, dã man, tàn ác ... bất chấp và hoàn toàn không bao giờ tôn trọng các thỏa thuận, hiệp định và các quy định quốc tế đã ký kết.
- Cộng Sản Bắc Việt đã thành lập các tổ chức tay sai trá hình mang tên MẶT TRẬN DÂN TỘC GIẢI PHÓNG MIỀN NAM và CHÍNH PHỦ CÁCH MẠNG LÂM THỜI CỘNG HÒA MIỀN NAM VIỆT NAM, cùng các tổ chức tay sai NẰM VÙNG đội lớp Tôn Giáo, Ký Giả, Sinh Viên ... và những tên tay sai nằm vùng nầy đã LẶN SÂU, TRÈO CAO trong mọi lãnh vực, mọi cơ cấu của chính quyền và quân đội của VNCH.
- Quân Cộng Sản Bắc Việt đã công khai xâm nhập người và vũ khí từ miền Bắc qua ĐƯỜNG MÒN HỒ CHÍ MINH, dọc theo biên giới Việt, Miên, Lào vào miền Nam Việt Nam cho cuộc chiến xâm lăng ... quân Cộng Sản Bắc Việt đã trú đóng, ẩn náo với các đại đơn vị trên lãnh thổ hai quốc gia Lào và Cao Miên ... và còn đưa những vũ khí chiến cụ tối tân, hạng nặng (đặc biệt là Pháo Binh và Chiến Xa) do ĐẾ QUỐC LIÊN SÔ và TRUNG CỘNG ồ ạt viện trợ bằng KHÔNG VẬN và HẢI VẬN và lãnh thổ quốc gia Cao Miên. (Tổng Bí Thư Lê Duẩn của Cộng Sản Bắc Việt đã từng tuyên bố : TA ĐÁNH MỸ, ĐÁNH NGỤY LÀ ĐÁNH CHO LIÊN SÔ, CHO TRUNG QUỐC. Lời tuyên bố nầy đã nói lên BẢN CHẤT TAY SAI của CỘNG SẢN BẮC VIỆT đối với ĐẾ QUỐC LIÊN SÔ và TRUNG QUỐC).

- Miền Nam Việt Nam, chính quyền VNCH ... Quân, Dân, Cán Chính VNCH đã TỰ VỆ CHIẾN ĐẤU chống lại cuộc xâm lăng của Cộng Sản Bắc Việt và tay sai trong một cuộc chiến cực kỳ gian nan nguy khốn ... vừa chiến đấu trên chiến trường, vừa phải bảo vệ lãnh thổ, dân chúng, bảo vệ các công thự, cơ quan hành chánh của quốc gia, vừa phải xây dựng kinh tế, văn hóa, xã hội ... với muôn ngàn khó khăn chồng chất trong trách nhiệm BẢO QUỐC AN DÂN.
- Hậu phương thì hỗn loạn, xáo trộn bị phá hoại bởi bọn Cộng Sản tay sai nằm vùng, trong khi đó, trên kháp các chiến trường thì Cộng Quân gia tăng quân số tối đa (kể cả các LỰC LƯỢNG CHỦ LỰC MIỀN và DU KÍCH ĐỊA PHƯƠNG) với những vũ khí tối tân hiện đại, nhất là các lực lượng PHÁO BINH, PHÒNG KHÔNG và ĐÀI QUAN SÁT PHÁO BINH ... rồi tập trung các đơn vị thật đông, thật hùng hậu tấn công ngay vào các Cứ Điểm Quân Sự, các Đơn Vị Quân Sự lẻ tẻ, cố định, hạn chế ít quân của QL/VNCH (vì nhu cầu bảo vệ lãnh thổ và dân chúng). Cộng Quân áp dụng chiến thuật Tiền Pháo Hậu Xung và Công Đồn Đả Viện để tấn công và đè bẹp các đơn vị quân sự nhỏ bé của QL/VNCH ... xong mục tiêu nầy, Cộng Quân lại tập trung quân tiếp tục tấn công vào những đơn vị nhỏ bé kế tiếp của QL/VNCH như những vết dầu loang.
- Cuộc chiến tại miền Nam Việt Nam ngày càng trở nên khốc liệt với những trận đánh lớn trên khắp lãnh thổ ... Mùa Hè Đỏ Lửa năm 1972, rồi sau Hiệp Định Ba-Lê (27.01.1973) và đặc biệt vào thời điểm Cuối Năm 1974 và Đầu Năm 1975, Cộng Quân đã triệt để áp dụng chiến thuật " Tập trung quân số thật đông đảo, hùng hậu với những vũ khí tối tân hiện đại, nhất là PHÁO BINH HẠNG NẶNG cùng PHÒNG KHÔNG, ĐÀI QUAN SÁT PHÁO BINH rồi tấn công vào các đơn vị quân sự cố định, lẻ tẻ ít quân của QL/VNCH theo chiến thuật TIỀN PHÁO HẬU XUNG và CÔNG ĐỒN ĐẢ VIỆN ... Các đơn vị của QL/VNCH thì phải trải rộng trên toàn lãnh thổ quá rộng lớn của VNCH, nhất là Vùng 2 Chiến Thuật, Quân Đoàn 2, Quân Khu 2 ... đã anh dũng kiên cường chống lại NHỮNG TRẬN ĐỊA PHÁO và TẤN CÔNG BIỂN NGƯỜI NHIỀU ĐỢT với QUÂN SỐ ĐÔNG GẤP NHIỀU LẦN so với quân trú phòng ... Cuối cùng, một số đơn vị của QL/VNCH phải co cụm, rút lui và DI TẢN CHIẾN THUẬT trong hỗn loạn và bị thiệt hại nặng nề ".

- Những THẮNG hoặc BẠI của những TRẬN ĐÁNH TRÊN CHIẾN TRƯỜNG sẽ là NHỮNG QUYẾT ĐỊNH SAU CÙNG cho một CHIẾN THẮNG TOÀN DIỆN của đôi bên : " Ngày 30 tháng 4 năm 1975 là một minh chứng cho những cuộc lui binh, co cụm, thiệt hại và THẤT TRẬN TRONG OAN KHIÊN, NGHIỆT NGÃ của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa ... ".

Kính thưa quý vị và quý chiến hữu.
Chúng tôi là những người Lính ở các đơn vị chiến đấu, có mặt trực tiếp trên chiến trường, bài viết nầy chúng tôi hoàn toàn không đề cập đến khía cạnh CHÍNH TRỊ mà chúng tôi chỉ đề cập đến khía cạnh QUÂN SỰ mà thôi.
Và chúng tôi cũng xin được thưa trước và được nhấn mạnh : " Đây là những nhận định chủ quan, mang tính cách cá nhân của chúng tôi vì chúng tôi là 2 quân nhân của QL/VNCH với những cấp bậc và chức vụ thật nhỏ (Đại Úy, Trung Úy ... Trung Đội Trưởng, Đại Đội Phó, Đại Đội Trưởng, Sĩ Quan Trưởng Ban 3 cấp Tiểu Đoàn, Sĩ Quan Trưởng Ban Truyền Tin cấp Trung Đoàn).

Xin kính mời quý vị và quý chiến hữu cùng chúng tôi xem lại trận đánh ĐIỆN BIÊN PHỦ ( giữa Quân Đội Pháp và quân Cộng Sản Bắc Việt) và một số TRẬN ĐÁNH LỚN trên chiến trường miền Nam Việt Nam mà trong đó " Quân Cộng Sản Bắc Việt đã triệt để áp dụng chiến thuật TIỀN PHÁO HẬU XUNG và CÔNG ĐỒN ĐẢ VIỆN với các TRẬN ĐỊA PHÁO và TẤN CÔNG XUNG PHONG BIỂN NGƯỜI.

A. CHIẾN TRẬN ĐIỆN BIÊN PHỦ giữa QUÂN ĐỘI PHÁP và QUÂN CỘNG SẢN BẮC VIỆT :
****************************************************************************
- Điện Biên Phủ còn có tên là Mường Thanh, nằm về phía Tây của tỉnh Lai Châu, cạnh biên giới Lào - Việt khoảng 8 cây số. Đây là vựa lúa và thuốc phiện của miền Trung Du Bắc Việt và cũng là giao điểm của hệ thống đường mòn từ Hoa Nam xuống Trung Việt, từ Thượng Lào qua Lai Châu.
- Thung lũng Mường Thanh có chiều dài khoảng 20 cây số, chiều ngang khoảng từ 6 đến 8 cây số, vây quanh bởi núi rừng trùng điệp, vì vậy đôi khi người ta còn gọi là " Lòng Chảo Điện Biên Phủ ".
- Con sông Nậm Rốn (Nam - Yun) chia đôi thung lũng chạy theo chiều Nam - Bắc. Dọc theo sông Nậm Rốn là con đường Liên Tỉnh Lộ mang số 41.
- Đến cuối năm 1953, chiến tranh Đông Dương đã kéo dài 8 năm, Pháp đã mệt mỏi và muốn tìm một giải pháp có thể chấp nhận được để chấm dứt cuộc chiến, nhưng mặt khác, Pháp vẫn muốn duy trì quyền lợi tại Đông Dương. Pháp bổ nhiệm một vị Tướng 4 sao (Đại Tướng) làm Tổng Chỉ Huy Quân Sự tại Đông Dương mang tên Henri Navarre và ông sang Đông Dương với ước muốn tìm kiếm một CHIẾN THẮNG QUÂN SỰ QUYẾT ĐỊNH để làm cơ sở cho một CUỘC THẢO LUẬN HÒA BINH trên thế mạnh.

- Kế hoạch của Bộ Chỉ Huy Quân Sự Pháp tại Đông Dương là tập trung các lực lượng cơ động tinh nhuệ lại thành các Binh Đoàn Mạnh để đánh và tiêu diệt các đơn vị chính quy của quân Cộng Sản Bắc Việt (CSBV) mà Pháp còn gọi là quân Việt Minh để làm Thế Mạnh trong việc đàm phán. Vì vậy Căn Cứ Quân Sự Điện Biên Phủ được ra đời để án ngữ miền Tây Bắc của Bắc Việt, để kiểm soát con đường huyết mạch tới Thượng Lào để làm " BẪY NHỬ ", thách thức quân chủ lực CSBV tấn công vào, và theo kế hoạch dự trù của quân Pháp CÁC ĐẠI QUÂN CỦA CSBV sẽ BỊ NGHIỀN NÁT tại LÒNG CHẢO ĐIỆN BIÊN PHỦ.

- Về phía quân CSBV, kể từ sau năm 1950, được sự viện trợ to lớn của Trung Cộng và Liên Sô, quân CSBV đã được lớn mạnh lên rất nhiều với các sư đoàn (đại đoàn) bộ binh và các trung đoàn pháo binh, công binh đã có kinh nghiệm đánh trận cấp tiểu đoàn, trung đoàn với quân Pháp.
- Tướng Võ Nguyên Giáp được CSBV chỉ định là Tổng Chỉ Huy quân CSBV với sự hổ trợ của Trung Cộng, đặc biệt về PHÁO BINH để đánh vào Lòng Chảo Điện Biên Phủ. Tướng Giáp nhìn Điện Biên Phủ như một cơ hội đánh lớn tạo chiến thắng vang dội, chấp nhận mọi hy sinh, kể cả NHỮNG THƯƠNG VONG THẬT TO LỚN SẼ XẢY RA, chấp nhận mọi thách thức của quân Pháp và quyết tâm bằng mọi giá để dứt điểm Điện Biên Phủ và đạt được CHIẾN THẮNG CHO CỘNG SẢN BẮC VIỆT. Do đó, Trận Chiến Điện Biên Phủ trở thành MỘT ĐIỂM QUYẾT ĐẤU giũa Tân Tổng Tư Lệnh Quân Sự Pháp tại Đông Dương Henri Navarre và Tướng Việt Minh Võ Nguyên Giáp (có sự hổ trợ PHÁO BINH của quân Trung Cộng).

1). LỰC LƯỢNG của QUÂN CỘNG SẢN BẮC VIỆT :
* Khoảng 150.000 quân (gồm quân số hiện có và nhiều lần tuyển quân khi cuộc chiến xảy ra) với 14 Trung Đoàn Biệt Lập, phối hợp với các Sư Đoàn 304, 308, 312, 316, 320 và Sư Đoàn 351 Công Binh và Súng Hạng Nặng cùng 120.000 dân công phụ trách hậu cần và tiếp liệu.
* Có 3 Trung Đoàn Pháo Binh Cơ Hữu :
- Trung Đoàn 234 Súng Cối 120 ly.
- Trung Đoàn 45 loại súng 105 ly nòng ngắn.
- Trung Đoàn 367 Phòng Không loại Cao Xạ 37 ly. Sau đó, tăng thêm một Tiểu Đoàn Phòng Không (32 khẩu).
* 1 Tiểu Đoàn Hỏa Tiển Dã Chiến Katyusha (được quân Trung Cộng cung cấp và trang bị).
* Trung Cộng tăng viện cho quân CSBV lúc đầu là 12 Trung Đoàn Pháo Binh, sau đó tăng thêm 6 Trung Đoàn Pháo Binh cùng hơn 3000 quân phụ trách việc xử dụng Pháo Binh đặt dưới quyền chỉ huy của Đại Tướng Dương Đắc Chí và Thống Chế Diệp Kiếm Anh là Tổng Chỉ Huy quân Trung Cộng tại chiến trường Điện Biên Phủ bên cạnh quân CSBV.
* Tổng số khẩu pháo của quân Trung Cộng và quân CSBV tại chiến trường Điện Biên Phủ là 657 khẩu pháo đủ loại. (Trong cuộc Chiến Tranh Hoa - Nhật tại Trung Hoa trước đây, Hoa Kỳ đã viện trợ cho chính quyền Tưởng Giới Thạch hơn 2000 khẩu pháo binh đủ loại. Năm 1949, Tưởng Giới Thạch đào thoát ra Đài Loan và toàn bộ số khẩu pháo nầy đã để lại Lục Địa Trung Hoa và Trung Cộng đã chiếm giữ và nay viện trợ một số khẩu pháo cho quân CSBV và chỉ huy lực lượng Pháo Binh cho chiến trường Điện Biên Phủ).
* Các Tướng Lãnh của quân CSBV tại chiến trường Điện Biên Phủ : Ngoài Tướng Võ Nguyên Giáp là Tổng Chỉ Huy, còn có các Tướng : Nguyễn Chí Thanh, Hoàng Văn Thái, Chu Huy Mân, Lê Trọng Tấn, Chu Văn Tấn, Lê Quảng Ba, Vương Thừa Vũ, Song Hào ...
2). LỰC LƯỢNG của QUÂN ĐỘI PHÁP :
* Lúc đầu là 16.000 quân và sau nhiều lần tăng viện, quân số lên đến 20.705 người cùng 8 Pháo Đội Pháo Binh (56 khẩu pháo đủ loại). Chỉ Huy Trưởng Quân Sự của Quân Đội Pháp tại Căn Cứ Điện Biên Phủ là Thiếu Tướng De Castrie. (khi nhảy vào Điện Biên Phủ ông mang lon Đại Tá và sau đó ông được thăng cấp Thiếu Tướng), Đại Tá Pierre Piroth, Chỉ Huy Trưởng Pháo Binh của quân Pháp tại Căn Cứ Điện Biên Phủ ... cùng một số sĩ quan khác như Trung Tá Langlais (sau thăng Đại Tá), Trung Tá Lalande (sau thăng Đại Tá), Trung Tá Gaucher (sau bị tử trận), Thiếu Tá Bigeard (sau thăng Trung Tá) ... các Thiếu Tá Botella, Vadot, Martinelli ....
* Kể từ ngày 31.3.1954, Căn Cứ Điện Biên Phủ ngoài Pháo Binh còn có 1 Tiểu Đoàn Công Binh, 1 Đại Đội Xe Tăng loại 18 tấn (10 chiếc M.24 của Mỹ), 1 Đại Đội Xe Vận Tải gồm 200 chiếc, 1 Phi Đội Máy Bay gồm 14 chiếc (7 chiếc máy bay khu trục, 6 máy bay liên lạc trinh sát và 1 máy bay trực thăng).
* Ngoài 2 phi trường và Bộ Chỉ Huy Tối Cao của Căn Cứ, các đơn vị quân sự đóng quân trên 49 vị trí lớn, nhỏ khác nhau và bao quanh BCH Trung Ương Tối Cao và chia thành 3 Phân Khu Quân Sự phòng thủ riêng biệt BẮC, TRUNG TÂM và NAM. Mỗi Phân Khu có nhiều Trung Tâm Chỉ Huy và Phòng Thủ với hệ thống giao thông hào và hàng rào phòng thủ thật kiên cố. Tổng cộng có 8 Cứ Điểm Phòng Thủ chính mang các tên Pháp là : Béatrice, Gabrielle, Anne-Marie, Éliane, Dominique, Hugette, Claudine và Isabelle ... thuộc 3 Phân Khu Quân Sự như sau :
- Phân Khu Bắc : có 3 Cứ Điểm là Béatrice, Gabrielle và Anne-Marie.
- Phân Khu Trung Tâm : có 3 Cứ Điểm là Éliane, Dominique và Hugette.
- Phân Khu Nam : có 2 Cứ Điểm là Claudine và Isabelle.
* Nhìn tổng quát sẽ thấy : Vòng ngoài là Anne-Marie, Béatrice, Gabrielle và Isabelle và vòng trong là Hugette, Claudine, Éliane và Dominique.

* Ghi nhận tổng quát vị trí của các Cứ Điểm :
- Cứ Điểm Béatrie : nằm án ngữ phía Bắc trên con đường Liên Tỉnh Lộ số 41 từ Tuần Giáo đến Điện Biên Phủ.
- Cứ Điểm Gabrielle : nằm trên một ngọn đồi dài 700 mét, rộng 150 mét, ngăn chận hướng từ Lai Châu đến Điện Biên Phủ.
- Cứ Điểm Anne-Marie : nằm trên ngọn đồi phía Tây Bắc sân bay, cách BCH Tối Cao khoảng 2 cây số.
- Cứ Điểm Éliane : nằm về phía Đông-Nam.
- Cứ Điểm Dominique : nằm về phía chính Đông, có lực lượng Pháo Binh trấn đóng.
- Cứ Điểm Hugette : nằm về phía chính Tây, có lực lượng Pháo Binh trấn đóng.
- Cứ Điểm Claudine : nằm về phía chính Nam, có tăng cường Thiết Giáp và Pháo Binh.
- Cứ Điểm Isabelle : nằm về phía cực Nam, có tăng cường Thiết Giáp và các súng hạng Nặng như đại liên, súng phóng hỏa ...

3). CÁC DIỄN BIẾN QUAN TRỌNG và KẾT QUẢ của CHIẾN TRẬN ĐIỆN BIÊN PHỦ :

* Ngày 20.11.1953, toán quân Pháp đầu tiên đã đặt chân đến Lòng Chảo Điện Biên Phủ để thiết lập Căn Cứ Quân Sự Điện Biên Phủ. Và vài ngày sau đó thì quân CSBV cũng đã có mặt ở vùng Điện Biên Phủ và chuẩn bị cho Trận Đánh Điện Biên Phủ sẽ xảy ra.
* Trận Điện Biên Phủ kết thúc vào ngày 7.5.1954 với SỰ CHIẾN THẮNG của quân CSBV và SỰ THẤT TRẬN ĐẦU HÀNG của quân đội Pháp và HIỆP ĐỊNH GENÈVE ngày 20.7.1954 ra đời. (Việt Nam được chia thành 2 Quốc Gia với 2 thể chế chính trị khác nhau và lấy Vĩ Tuyến 17 làm ranh giới : miền Bắc VN theo Chế Độ CỘNG SẢN mang tên Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Miền Nam VN theo Chế Độ TỰ DO với danh xưng Quốc Gia Việt Nam rồi Việt Nam Cộng Hòa cho đến ngày 30.4.1975).
* Tính từ ngày 20.11.1953 đến ngày 7.5.1954, có được 180 ngày, nhưng Trận Chiến Điện Biên Phủ giữa quân Pháp và quân CSBV chính thức bùng nổ bắt đầu từ ngày 13.3.1954 cho đến ngày 7.5.1954 thì kết thúc tức kéo dài 56 ngày.
* Trước ngày 13.3.1954, quân đội Pháp thì lo thiết lập căn cứ với giao thông hào, hàng rào phòng thủ, hầm chỉ huy ... và với các địa điểm đóng quân kiên cố, vững chắc trong tư thế " CHỜ ĐỊCH TẤN CÔNG ĐỂ TIÊU DIỆT " trong một cuộc Chiến Thắng Lớn được gọi nôm na là " Nhử Địch Vào Tròng Để Phi Cơ và Pháo Binh Nghiền Nát ". Chính vị Tướng 4 sao Henri Navarre của Pháp đã chọn chiến trường nầy để so gươm với quân CSBV như ông đã dự trù trong đầu mình.

* Quân CSBV với sự hỗ trợ của quân Trung Cộng (đặc biệt về PHÁO BINH) thì điều động tối đa các đại đơn vị tinh nhuệ với những tướng lãnh chỉ huy đầy kinh nghiệm chiến trường cùng quân số và số dân công thật khổng lồ, ngày đêm băng rừng xẻ núi áp dụng chiến thuật " vây lấn " bằng các hệ thống chiến hào ... kéo pháo binh lên đồi và các giao thông hào dần dần bao quanh Căn Cứ Điện Biên Phủ và âm thầm lấn dần dần áp sát vào các Cứ Điểm quân Pháp, rồi làm vị trí bàn đạp với chiến thuật TIỀN PHÁO HẬU XUNG vào Căn Cứ Điện Biên Phủ.

* Bộ Chỉ Huy Quân Sự của Pháp tại Đông Dương cùng Tướng Henri Navarre cũng như BCH Quân Sự Pháp tại Căn Cứ Điện Biên Phủ đã chủ quan tin tưởng rằng : Với khả năng cực mạnh của Không Quân (từ Hàng Không Mẫu Hạm Arromanhes), cùng sự hỗ trợ của Không Lực Mỹ, Pháo Binh dồi dào của Căn Cứ Điện Biên Phủ, các công sự phòng thủ kiên cố vững chắc, quân trú phòng đông đảo, gan dạ, quân Pháp có thể đè bẹp và đập tan mọi cuộc tấn công của quân CSBV.

* Nhưng các BCH/Quân Sự của Pháp có một DỰ ĐOÁN SAI LẦM mà họ không thể ngờ là " CSBV đã huy động một lực lượng QUÂN, DÂN KHỔNG LỒ, chấp nhận chiến đấu lâu dài và chịu mọi hy sinh thương vong, cùng một Lực Lượng Pháo Binh và Phòng Không do Trung Cộng yễm trợ thật dồi dào to lớn mà ngày đêm quân, dân của CSBV đã kéo từ dưới thấp lên đến tận các đỉnh đồi, núi bao quanh Lòng Chảo Điện Biên Phủ ... và đã thực hiện CÁC TRẬN ĐỊA PHÁO vào Cân Cứ Điện Biên Phủ.

* Ngày 13.3.1954 : Ngày đầu tiên quân CSBV mở cuộc tấn công vào Căn Cứ Điện Biên Phủ. Vào lúc 16 giờ tức là lúc 4 giờ chiều, quân CSBV pháo khoảng 9000 quả đạn pháo binh vào các cứ điểm phía Bắc và phi trường ... liền ngay sau đó mở những đợt tấn công biển người vào khu vực nầy. Quân Pháp trú phòng đã anh dũng chống trả mãnh liệt và đẩy lui được cuộc tấn công nầy. Quân CSBV rút lui và để lại hàng trăm xác chết tại chỗ. Phía quân Pháp cũng bị thiệt hại nặng với số người chết và bị thương, nhưng đa số chết và bị thương vì TRẬN ĐỊA PHÁO của quân CSBV, trong đó có Trung Tá Gaucher, Chỉ Huy Trưởng Cứ Điểm Béatrice và một số sĩ quan thuộc bộ chỉ huy của Cứ Điểm Béatrice bị đạn pháo bắn sập hầm chỉ huy và bị tử thương.

* Và sau đó, với những ngày tiếp theo ... trong 56 ngày giao tranh cho đến ngày 7.5.1954, ngày chấm dứt của Chiến Trận Điện Biên Phủ, trung bình mỗi ngày, quân CSBV pháo vào Căn Cứ Điện Biên Phủ từ 2000 đến 5000 quả pháo đủ loại và sau đó mở những cuộc TẤN CÔNG BIỂN NGƯỜI vào Căn Cứ Điện Biên Phủ. Tổng cộng số quả pháo mà quân CSBV đã bắn vào Căn Cứ Điện Biên Phủ cho đến ngày chấm dứt cuộc chiến là khoảng 250.000 quả pháo đủ loại. (Dĩ nhiên là do quân Trung Cộng hỗ trợ và chỉ huy).


* Cuối cùng, quân Pháp trú phòng KHÔNG CHỊU ĐỰNG ĐƯỢC CÁC TRẬN ĐỊA PHÁO TÀN PHÁ KHỦNG KHIẾP của các đạn pháo và các Cứ Điểm Quân Sự ngày càng co cụm lại, số quân thương vong ngày càng tăng cao vì đạn pháo ... quân Pháp trú phòng ĐÃ ĐẦU HÀNG và CĂN CỨ ĐIỆN BIÊN PHỦ BỊ THẤT THỦ ... Tướng chỉ huy De Castrie bị bắt sống cùng bộ tham mưu vào lúc 17 giờ 20 phút ngày 7 tháng 5 năm 1954.

* Bộ Chỉ Huy của Quân Pháp tại Đông Dương và tại chiến trường Điện Biên Phủ phải công nhận rằng : " Chính NHỮNG TRẬN ĐỊA PHÁO của 657 khẩu pháo do quân Trung Cộng chỉ huy bắn vào Điện Biên Phủ đã đem lại CHIẾN THẮNG CHO QUÂN CỘNG SẢN BẮC VIỆT tại Chiến Trường Địện Biên Phủ. Nếu không có những TRẬN ĐỊA PHÁO nầy thì LÒNG CHẢO ĐIỆN BIÊN PHỦ ĐÃ LÀ MỒ CHÔN QUÂN CỘNG SẢN BẮC VIỆT VÀO NĂM 1954 ".

* Ngày 14.3.1954 : Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù Việt Nam được đổ quân tăng cường cho Căn Cứ Điện Biên Phủ. Trong đoàn quân nầy có Trung Úy Phạm Văn Phú, một Sĩ Quan Việt Nam làm Đại Đội Trưởng Đại Đội 1. Ông là Sĩ Quan Việt Nam duy nhất trong Tiểu Đoàn Nhảy Dù nầy và là người Sĩ Quan mang cấp bậc Trung Úy làm Đại Đội Trưởng, trong khi các Đại Đội Trưởng khác trong Tiểu Đoàn đều là người Pháp và mang cấp bậc Đại Úy ... và hơn thế nữa, Trung Úy Phú còn được xem là một Đại Đội Trưởng gan dạ và xuất sắc nhất trong các đại đội trưởng của Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù Việt Nam nầy.

* Ngày 16.3.1954 : Hơn 2/3 quân số người Tầy (dân tộc thiểu số miền Thượng Du Bắc Việt) tại Cứ Điểm Anne-Marie đào ngũ bỏ trốn khỏi Căn Cứ Điện Biên Phủ. Số quân còn lại, bỏ cứ điểm rút về Cứ Điểm Hugette. Liền ngay sau đó, quân Nhảy Dù Lê Dương được lệnh đến phòng thủ Anne-Marie và được tăng cường thêm Thiết Giáp.
- Cùng ngày nầy, Tiểu Đoàn 6 Nhảy Dù Thuộc Địa Pháp do Thiếu Tá Bigeard làm Tiểu Đoàn Trưởng và 2 khẩu pháo 105 ly được đổ xuống tăng viện cho Căn Cứ Điện Biên Phủ.
- Và đặc biệt cũng cùng ngày nầy, Đại Tá Charles Piroth, Chỉ Huy Trưởng Pháo Binh của Căn Cứ Điện Biên Phủ, là người mà trước đây vài ngày trong cuộc họp tham mưu với Bộ Chỉ Huy Cao Cấp với Đại Tá De Castrie, ông đã khẳng định một cách tự tin là khi quân CSBV có mặt quanh Lòng Chảo Điện Biên Phủ thì chỉ cần 1 giờ đồng hồ là các KHẨU PHÁO CỦA ÔNG SẼ NGHIỀN NÁT đám địch quân thiêu thân nầy. Nhưng ông đã tiên đoán SAI LẦM và chính TRẬN ĐỊA PHÁO của quân CSBV trong giờ phút đầu tiên trước khi XUNG PHONG BIỂN NGƯỜI đã làm cho toàn bộ những khẩu pháo của ông TRỞ THÀNH BẤT KHIỂN DỤNG ... sự sai lầm của ông đã khiến Ông thất vọng và tự sát bằng lựu đạn tại hầm chỉ huy.

* Ngày 20.3.1954 : Tướng Ély, Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Đội Pháp bay sang Hoa Kỳ cầu viện (theo sự thỏa thuận trước của 2 bên). Đô Đốc Rudfort của Mỹ có đề cập đến kế hoạch xử dụng Không Quân Mỹ can thiệp vào chiến trường Điện Biên Phủ : Xử dụng 98 oanh tạc cơ B.29 và 450 chiến đấu cơ của Mỹ tại Căn Cứ Clark (ở Phi Luật Tân) theo kế hoạch Vulture để hủy diệt tiềm năng quân sự của quân CSBV tại Chiến Trường Điện Biên Phủ.

* Ngày 4.4.1954 : Căn Cứ Điện Biên Phủ được tăng viện thêm 305 quân cho Tiểu Đoàn 1 Nhảy Dù Thuộc Địa Pháp (do Thiếu Tá Brechignac chỉ huy) và thành lập thêm 2 Cứ Điểm Phụ Éliane 10 và Dominique 3.
- Vào lúc 21 giờ đêm, quân Pháp khám phá một vị trí súng không giật của quân CSBV tại Núi Trọc. Phi cơ và pháo binh Pháp tiêu diệt vị trí nầy và hạ được hơn 200 địch quân ở cạnh Cứ Điểm Hugette 6.
- Cũng vào ngày nầy, Tổng Thống Hoa Kỳ Eisenhower chính thức tuyên bố MỸ KHÔNG CAN THIỆP VÀO ĐÔNG DƯƠNG.

* Ngày 10.4.1954 : Quân CSBV mở Trận Địa Pháo rồi tấn công biển người vào Cứ Điểm Éliane 1. Sau hơn 1 giờ giao tranh, Cứ Điểm Éliane 1 bị tràn ngập và bị thất thủ ... quân CSBV chiếm đóng vị trí quân sự nầy.
- Thiếu Tá Bigeard điều động Tiểu Đoàn 6 Nhảy Dù Thuộc Địa Pháp và tăng cường thêm Đại Đội 1 thuộc Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù Việt Nam do Trung Úy Phạm Văn Phú chỉ huy và làm nổ lực chính trong nhiệm vụ hành quân tái chiếm lại Cứ Điểm Éliane 1.
- Sau hơn 1 giờ giao tranh, đại đội tiền phong của Trung Úy Phú trong đoàn quân tái chiếm đã làm chủ tình hình tại cứ điểm Éliane 1 và đẩy quân CSBV ra ngoài vị trí phòng thủ để cho Tiểu Đoàn 6 Nhảy Dù Thuộc Địa Pháp bao vây và chận đánh. Quân CSBV bị thiệt hại nặng với hơn 1200 thương vong và rút lui. Tiểu Đoàn 2 Lê Dương cử 2 đại đội đến chiếm đóng và phòng thủ Cứ Điểm Éliane 1.

* Ngày 11.4.1954 : Pháp thả xuống Căn Cứ Điện Biên Phủ thêm 222 quân.
- Quân CSBV mở trận địa pháo rồi xung phong tấn công biển người vào Cứ Điểm Isabelle nhưng bị quân trú phòng đẩy lui để lại hơn 450 xác chết.
- Đại Tướng Henri Navarre điều nghiên kế hoạch Condor để TRIỆT THOÁI QUÂN PHÁP RA KHỎI ĐIỆN BIÊN PHỦ BẰNG ĐƯỜNG BỘ trong thời gian sớm nhất.

* Ngày 14.4.1954 : Đại Tá De Castrie được thăng cấp Thiếu Tướng, Trung Tá Langlais được thăng cấp Đại Tá và làm Phụ Tá Hành Quân cho Tướng De Castrie, Trung Tá Lalande được thăng cắp Đại Tá, Thiếu Tá Bigeard được thăng cấp Trung Tá và làm Phụ Tá cho Đại Tá Langlais.
- Phi đạo của phi trường bị cắt làm 3.
- Hai cứ điểm Hugette 1 và Hugette 6 hoàn toàn bị cô lập với Phân Khu Trung Tâm.

* Ngày 15.4.1954 : Số thương binh Pháp không được di tản vì phi trường bị phong tỏa (405 người trong tình trạng ngồi, 286 người trong tình trạng nằm. Tất cả đều hoàn toàn bất động tại chỗ, không di chuyển được).
- Quân CSBV tiếp tục pháo kích vào Căn Cứ Điện Biên Phủ nhưng không mở những cuộc tấn công bằng bộ binh.
- Trung Úy Phạm Văn Phú được thăng cấp Đại Úy và được đề cử làm Tiểu Đoàn Phó Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù Việt Nam.

* Ngày 24.4.1954 : Pháp hối hả cầu viện Mỹ thêm một lần nữa nhưng Ngoại Trưởng Hoa Kỳ Dulles trả lời rằng QUỐC HỘI MỸ KHÔNG CHẤP THUẬN và SỐ PHẬN ĐIỆN BIÊN PHỦ CỦA PHÁP COI NHƯ CHẤM DỨT.

* Ngày 26.4.1954 : Hội Nghị Genève bắt đầu khai mạc, có tất cả 9 phe tham dự trong đó có cả phe Cộng Sản Bắt Việt và phe Quốc Gia Việt Nam.

* Ngày 28.4.1954 : Trung Cộng tăng viện thêm cho quân CSBV tại chiến trường Điện Biên Phủ : thực phẩm, đạn dược và 18 giàn phóng hỏa tiển 75 ly loại 6 nòng, đây là loại vũ khí tối tân xuất hiện lần đầu tiên tại chiến trường Đông Dương. Và quân CSBV tại chiến trường Điện Biên Phủ được tăng viện thêm 25.000 quân tân binh.

* Ngày 29.4.1954 : Bộ Chính Trị và Quân Ủy Trung Ương của Đảng Lao Động Việt Nam (sau nầy là Đảng Cộng Sản Việt Nam) họp khẩn cấp và đặc biệt và ra lệnh cho Tướng Võ Nguyên Giáp bằng mọi giá phải THANH TOÁN DỨT ĐIỂM CHIẾN TRƯỜNG ĐIỆN BIÊN PHỦ TRONG THỜI GIAN SỚM NHẮT VÌ HỘI NGHỊ GENÈVE ĐANG HỌP.
- Tại Chiến Trường Điện Biên Phủ, Tướng Võ Nguyên Giáp cũng họp khẩn cấp các tướng lãnh chỉ huy chiến trường của quân CSBV và các tướng lãnh của Trung Cộng để điều nghiên lại phương thức tác chiến, vì thời gian qua đã bị thiệt hại rất nhiều về thương vong cho quân tác chiến bộ binh trong các cuộc tấn công, xung phong biển người và bị quân trú phòng đẩy lui.
- Về quân số tham chiến, một số lớn tân binh vừa được tuyển mộ vừa được bổ sung khi đến Điện Biên Phủ đã tự động bỏ đơn vị, đào ngủ trốn vào rừng rồi tìm cách trốn về quê nhà ... quân tác chiến còn lại thì tinh thần chiến đấu xuống rất thấp và sợ chết.
- Cuối cùng, tướng Võ Nguyên Giáp quyết định : Cho nghỉ đưởng quân trong vòng 2 ngày để chỉnh đốn lại hàng ngủ, lựa chọn những binh sĩ có khả năng, kinh nghiệm chiến trường và gan dạ ... tập trung lại thành những đơn vị có quân số thật đông đảo và bắt đầu đánh vào 1 cứ điểm ở vòng đai ngoài cùng ... chỉ tập trung quân thật đông và chỉ đánh mạnh vào 1 cứ điểm duy nhất sau trận địa pháo toàn diện vào Căn Cứ Điện Biên Phủ ... còn các cứ điểm khác còn lại thì chỉ tập trung các trận địa pháo để gây áp đảo về tinh thần mà thôi.
- Khi nào đã thanh toán được 1 cứ điểm rồi thì sẽ tiếp tục tấn công tiếp tục vào các cứ điểm kế tiếp.

* Ngày 4.5.1954 : Vào lúc 9 giờ sáng, quân CSBV mở các trận địa pháo Căn Cứ Điện Biên Phủ ( ngoại trừ 2 cứ điểm Gabrielle và Isabelle ở vòng đai ngoài cùng đã bị quân CSBV chiếm đóng từ 2 ngày trước đây) ... rồi mở ngay cuộc xung phong tấn công biển người vào Cứ Điểm Anne-Marie và cứ điểm Anne-Marie bị tràn ngập và bị thiệt hại nặng nề mặc dù đã anh dũng chống trả.
- Cuối cùng, quân Pháp trú phòng bỏ Cứ Điểm Anne-Marie và lui quân về Cứ Điểm Hugette. Cứ Điểm Anne-Marie bị thất thủ và lọt vào tay quân CSBV vào lúc 13 giờ 30.
- Cùng ngày này, buổi chiều, vào lúc 15 giờ 40, quân CSBV lại mở trận đại pháo vào Căn Cứ Điện Biên Phủ, rồi xung phong tấn công biển người ngay vào Cứ Điểm Béatrice và gây thiệt hại nặng cho quân trú phòng và quân trú phòng rút lui về cứ điểm Dominique. Cứ điểm Béatrice coi như bị thất thủ vào lúc 17 giờ.
- Tướng De Castrie được thông báo " Kế Hoạch Albatros (Chim Biển) " , tức KẾ HOẠCH RÚT BỎ CĂN CỨ ĐIỆN BIÊN PHỦ BẰNG ĐƯỜNG BỘ sẽ được thực hiện vào lúc 20 giờ ngày 7.5.1954. Tình báo của quân CSBV đã biết được tin tức của kế hoạch nầy.

* Ngày 5.5.1954 : Tướng Võ Nguyên Giáp, chỉ huy quân CSBV tại Chiến Trường Điện Biên Phủ nhận định rằng : Quân Pháp tại Lòng Chảo Điện Biên Phủ đang càng ngày càng co cụm lại, những cứ điểm quân sự vòng ngoài (có 4 cứ điểm) đã bị quân CSBV chiếm đóng hoàn toàn, chỉ còn 4 cứ điểm ở vòng trong. Tướng Võ Nguyên Giáp quyết định : Mở những trận địa pháo và đồng loạt tấn công xung phong biển người vào cả 4 cứ điểm cuối cùng ở vòng trong của Điện Biên Phủ với ước muốn dứt điểm Điện Biên Phủ, không để cho quân Pháp rút khỏi Điện Biên Phủ mà phải khẳng định : QUÂN PHÁP THUA TRẬN VÀ ĐẦU HÀNG TẠI ĐIỆN BIÊN PHỦ.
- Trung Cộng tăng viện thêm cho quân CSBV 18 giàn phóng hỏa tiển Katiusha loại 6 nòng và thêm 200 quân là những chuyên viên về Địa Đạo.
- 12 giờ 30, quân CSBV mở trận điịa pháo vào Căn Cứ Điện Biên Phủ và xung phong tấn công toàn diện và thật mạnh vào Cứ Điểm Hugette và đến 15 giờ 35 thì Cứ Điểm Hugette 4 hoàn toàn thất thủ và quân CSBV chỉ còn cách hầm chỉ huy của Tướng De Castrie khoảng hơn 300 mét.

* Ngày 6.5.1954 : Từ 14 giờ 30, quân CSBV mở các trận địa pháo vào các cứ điểm cuối cùng của Điện Biên Phủ vì ngày hôm qua, quân CSBV tấn công biển người nhưng bị thiệt hại nặng với hơn 2000 thương vong bởi phi cơ và pháo binh của Pháp cùng sự chống trả anh dũng của quân trú phòng ... và lần nầy quân trú phòng cũng bị thiệt hại rất nặng nề.
- Chờ cho đêm xuống, lúc 20 giờ, sau một trận địa pháo, quân CSBV từ bên ngoài phối hợp cùng quân ở bên trong (ở những cứ điểm đã chiếm đóng), đồng loạt ồ ạt tấn công vào cứ điểm cuối cùng của quân Pháp.
- Những trận đánh xáp lá cà xảy ra ác liệt từ các vòng rào phòng thủ cho đến các giao thông hào, các hầm chỉ huy, các địa đạo, nhất là tại các Cứ Điểm Éliane và Claudine ... trận đánh kéo dài suốt đêm.

* Ngày 7.5.1954 : Lúc 3 giờ sáng, Trung Đoàn 174 thuộc Sư Đoàn 316 của quân CSBV tấn công đánh chiếm Claudine 1 (thuộc Cứ Điểm Claudine) và chiếm được hầm chỉ huy và bắt sống được Thiếu Tá Pouget và hơn 100 quân Pháp đầu hàng làm tù binh và cứ điểm Claudine1 coi như bị thất thủ.
- Cùng lúc nầy, Trung Đoàn 345 thuộc Sư Đoàn 304 của quân CSBV tấn công cứ điểm Claudine 2 nhưng bị đẩy lui trước sự kháng cự
anh dũng của quân trú phòng thuộc Tiểu Đoàn 2 Lê Dương Pháp và Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù Việt Nam ... quân CSBV bị thiệt hại nặng và xin thêm viện binh.
- Lúc 6 giờ sáng, Tướng De Castrie xin TRIỆT THOÁI QUÂN PHÁP RA KHỎI CĂN CỨ ĐIỆN BIÊN PHỦ, được chấp thuận nhưng đã trễ muộn rồi và toàn bộ Căn Cứ Điện Biên Phủ đang bị bao vây và tấn công.
- Lúc 7 giờ 30 sáng, Sư Đoàn 316 của quân CSBV mở đợt tấn công chia thành 3 mũi quân ồ ạt tiến vào cứ điểm Claudine 2 và giao tranh ác liệt với quân trú phòng trong gần 2 giờ đồng hồ và lúc 9 giờ 25 thì cứ điểm Claudine 2 bị thất thủ ... toàn bộ phía Đông của Căn Cứ Điện Biên Phủ hoàn toàn lọt vào tay của quân đội CSBV.
- Tại Éliane 10 (thưộc cứ điểm Éliane), không quân Pháp thả bom napalm chặn bước tiến quân của Trung Đoàn 165 thuộc Sư Đoàn 312 quân CSBV và gây thiệt hại thật nặng cho trung đoàn nầy ... Sư Đoàn 312 phải xin thêm quân tiếp viện.
- Mãi tới 17 giờ, Trung Đoàn 209 của Sư Đoàn 312, phối hợp với Trung Đoàn 165 cũng của Sư Đoàn 312, tấn công và tiến được vào hầm chỉ huy của BCH/Quân Sự Tối Cao của Căn Cứ Điện Biên Phủ và bắt sống được Tướng De Castrie và Bộ Tham Mưu vào lúc 17 giờ 20.
- Tại phía Tây, Trung Đoàn Thủ Đô 102 thuộc Sư Đoàn 308 của quân CSBV chiếm được Claudine 5 chỉ cách hầm của De Castrie hơn 50 mét. Đại Tá Lalande, Chỉ Huy Trưởng Phân Khu Trung Tâm bị bắt sống và toàn bộ binh sĩ buông súng đầu hàng.

* Ngày 8.5.1954 : Tin Điện Biên Phủ bị thất thủ sau 56 ngày bị vây hãm và tấn chiếm được đón nhận như MỘT QUỐC TANG CHO NƯỚC PHÁP TẠI PARIS.
- Lúc 16 giờ 45, tại Hội Nghị Genève về Đông Dương, Ngoại Trưởng Pháp đề nghị Ngưng Bắn để tìm một giải pháp hòa bình.

*** SỰ THIỆT HẠI CỦA ĐÔI BÊN :

* Về Phía Quân Pháp :
- Tử thương (chết) : tại mặt trận : 3690 người.
- Đào Ngũ : 368. (số quân nầy đào ngũ, bỏ trốn trong lúc giao tranh, rời khỏi Cân Cứ Điện Biên Phủ, trốn vào rừng, rồi tìm cách đến trình diện các đồn, bót của quân Pháp nằm xa Căn Cứ ĐBP).
- Bị thương : 5294 người. (trong đó có 4436 người bị thương nhẹ còn di chuyển được và sau đó trở thành tù binh bị bắt sau khi Căn Cứ ĐBP thất thủ và 858 người bị thương nặng, nằm, ngồi tại chỗ, hoàn toàn không thể di chuyển được và quân CSBV cho phép Hội Hồng Thập Tự Quốc Tế di tản bằng Không Quân từ Căn Cứ ĐBP về Hà Nội).
- Tù Binh : 11.721 người. Sau 4 tháng tức tháng 9 năm 1954, quân CSBV trao trả lại cho Pháp 3290 người, còn 7431 người (70%) đã chết trong các trại tù của CSBV vì nhiều lý do khác nhau.

* Ngoài ra, quân Pháp còn tổn thất thêm :
- Về Không Quân bị tổn thất :
° 48 phi cơ bị phá huỷ. (28 chiếc đang bay và 20 chiếc trên phi đạo).
° 167 phi cơ bị hư hại trong đó có 2 trực thăng bị phá huỷ.
° 15 quân nhân bị bắt và 6 quân nhân bị mất tích.
- Về Hải Quân (từ các Hàng Không Mẫu Hạm Arromanches, Belleau Wơd) bị tổn thất :
° 8 phi cơ bị phá huỷ.
° 19 phi cơ bị hư hại.
° 8 phi công bị chết, 1 bị thương và 2 bị bắt.
- Về phía Mỹ : 1 phi cơ C.119 bị bắn rơi, 2 phi công chết và 1 bị thương.

* Về Phía Quân Cộng Sản Bắc Việt và Quân Trung Cộng :
- Cộng Sản Vắc Việt luôn luôn tìm cách che dấu mọi tổn thất, nhưng căn cứ theo sự ghi nhận và tìm kiếm qua nhiều nguồn tình báo và nhiều phương tiện thông tin khác nhau thì được biết : quân CSBV bị chết 21.533 người và bị thương 66.619 người.
- Quân Trung Cộng : chết (250 người) và bị thương (857 người).
- Quân Trung Cộng bị chết và bị thương vì pháo binh phản pháo và bom oanh tạc của không quân Pháp. Còn quân CSBV bị chết và bị thương nhiều vì pháo binh, không quân của quân Pháp ... vì sự chiến đấu anh dũng của quân trú phòng và vì xung phong biển người

*** Theo nhận định và báo cáo của BCH/Quân Sự Pháp tại Căn Cứ ĐBP : " 80% quân Pháp tại chiến trường ĐBP bị chết và bị thương là vì NHỮNG TRẬN ĐỊA PHÁO CỦA QUÂN CSBV (do quân Trung Cộng chỉ huy). Quân Pháp thất trận nhưng số quân Pháp bị thương vong ìt hơn số thương vong của quân CSBV rất nhiều ". Và cũng kết luận : QUÂN PHÁP THẤT TRẬN TẠI ĐIỆN BIÊN PHỦ VÌ CÁC TRẬN ĐỊA PHÁO VÀ QUÂN SỐ QUÁ ĐÔNG VÀ XUNG PHONG TẤN CÔNG BIỂN NGƯỜI của quân CSBV và quân Trung Cộng.

B. CÁC TRẬN ĐÁNH GIỮA QUÂN CỘNG SẢN BẮC VIỆT và QUÂN LỰC VIỆT NAM CỘNG HOÀ :
***************************************************************************
-Từ khi bắt đầu khởi động mục đính tấn công cưỡng chiếm và xâm lược miền Nam Việt Nam (VNCH), quân CSBV và đạo quân tay sai, chúng tôi xin phép được gọi chung là CỘNG QUÂN ... từ năm 1961 cho đến khoảng giữa năm 1974, Cộng Quân đã hoàn toàn thất bại trong các cuộc giao tranh lớn, nhỏ với QL/VNCH. Quân, Dân, Cán Chính VNCH nói chung và QL/VNCH nói rieng đã ANH DŨNG KIÊN CƯỜNG CHIẾN ĐẤU trong cuộc chiến TỰ VỆ của miền Nam ... đã gây cho Cộng quân thiệt hại thật nặng nề ... và đặc biệt là KHÔNG MỘT NƠI NÀO MÀ CỘNG QUÂN TẤN CÔNG CHIẾM ĐÓNG MÀ QL/VNCH KHÔNG TÁI CHIẾM LẠI ĐƯỢC.

- Nhưng từ sau Mùa Hè Đỏ Lửa năm 1972, rồi sau Hiệp Định Paris (27.1.1973) và bước qua thời điểm đầu năm 1975, quân CSBV gia tăng xâm nhập tối đa người và vũ khí vào chiến trường miền Nam. Về quân số, có những binh lính ở lứa tuổi còn quá nhỏ 14, 15 tuổi. Nhưng về vũ khí thì lại được Liên Sô, Trung Cộng viện trợ thật nhiều, thật dồi dào và hiện đại nhất là PHÁO BINH và CHIẾN XA.

- Cuối năm 1974 đầu năm 1975, Cộng Quân đã bắt đầu mở NHỮNG TRẬN ĐÁNH LỚN THEO CHIẾN TRANH TOÀN DIỆN QUY ƯỚC với phương thức : " Tập trung quân thật đông đảo, xử dụng tối đa TRẬN ĐỊA PHÁO có Phòng Không bảo vệ, có Đài Quan Sát Pháo Binh chỉ điểm mục tiêu rồi XUNG PHONG TẤN CÔNG BIỂN NGƯỜI có đi kèm CHIẾN XA và ĐẶC CÔNG ... chấp nhận Chết và chết thật nhiều để thu được CHIẾN THẮNG ".
- Quân trú phòng QL/VNCH thì bố trí phòng thủ diện địa, cố định, lẻ tẻ, hạn chế ... tinh thần chiến đấu Anh Dũng Kiên Cường nhưng không chịu đựng nổi các cuộc tấn công ... nên đành co cụm, rút lui, tan hàng và thất thủ.

Trại Ben Het - Bến Hết, là trại của lực lượng đặc biệt Ben Het – Ben Het Special Camp nằm về phía Tây Bắc Kontum cách Ngã 3 biên giới khoảng 9 cây số, cách quận Đắk Tô 13 cây số, nhiệm vụ của trại là tổ chức tuần tra, thám sát, đánh đột kích, nhằm kiểm soát và ngăn chận sự xâm nhập của VC từ miền Bắc vào Nam dọc theo đường mòn Hồ Chí Minh. Đồng thời, bảo vệ cho Dắk Tô, Tân Cảnh. Là vì, nằm sát đường mòn Hồ Chí Minh, nên còn được gọi là tiền đồn Ben Hét.

Trại Ben Het thành lập ngày 9-2- 1960, do Toán LLĐB A-244 của Liên Đoàn 5 lực Lượng Đặc Biệt Hoa Kỳ – 5th Special Force chiu trách nhiệm để kiểm soát đường Trường Sơn. Ban đầu, Trại chỉ gồm 1 toán lực lượng Đặc Biệt Mỹ và Việt NAM Cộng Hoà, cùng 3 đại độ dân sự chiến đấu – CIDG – Tất cả đều là người Thượng. Trang bị rất thô sơ, giữ đúng vai trò chỉ đánh du kích. Những năm kế tiếp, CS đổ quân, vũ khí, xe tăng, pháo binh vào miền Nam qua đường mòn Hồ Chí Minh ngày càng nhiều, quân đội Mỹ và Việt Nam Cộng Hòa đã tăng cường rất mạnh cho Ben Het kể cả xe tăng, pháo 81 ly, 105 ly và 3 khẩu 175 cùng 6 chiếc thiết giáp M48. Hỏa lực Không Quân rất hùng mạnh. Ngày nào cũng có 1, 2 phi vụ B52 oanh tạc yểm trợ để tuyêt đối giữ an ninh cho Quốc lộ 14 từ Pleiku đến Kontum. Xung quanh Ben Het có 3 đại đội đóng chốt trên 3 đỉnh đồi làm tiền đồn cho Ben Het. Trong trại có Tiểu Đoàn Công Binh 20 của Hoa Kỳ xây cất, tu bổ, sữa chữa, cho nên Ben Het là căn cứ phòng thủ vững chắc nhất trong 181 trại LLĐB trên toàn cõi miền Nam.

Cuối tháng 2-1969 VC đã tập trung sư đoàn 312 gia tăng áp lực lên Ben Hét, lực lượng phòng thủ trại đã cho đặt mìn chống tăng và chống bộ binh trên các đường mòn quanh trại. Lực lượng phòng thủ bao gồm 12 binh sĩ đặc biệt Mỹ do Đại úy Enigue Rodrigues chỉ huy và 360 binh sĩ Biệt Kích người Thượng cùng các gia đình của họ trong trại. Ngoài ra, còn có 6 chiếc xe tăng M-48 Patton thuộc đại đội B, tiểu đoàn 1 trung đoàn 69 thiết giáp dưới quyền của đại úy John Stovall đến tăng cường phòng ngự. Những ngày sau đó VC dùng các dàn pháo 122 ly, 130 ly và hỏa tiễn AT3 – giàn phóng và trái hỏa tiễn lớn như hỏa tiễn S400 ngày nay. AT3 có tầm bắn xa 120 cây số, rưới xuống Ben Het như mưa giông 7 ngày 7 đêm.

Sau khi đến quan sát trại Ben Het ngày 25 tháng 2, đại úy Stovall đã cho trung đội 1 với 4 chiến xa M-48 án ngữ phía Tây của trại để giám sát khu vực thung lũng có đường tỉnh lộ 52 chạy xuyên đến biên giới Việt Lào. Khoảng 10h đêm ngày 2 tháng 3, trung sĩ Hugh Havermale của trung đội 1 báo cáo nghe có tiếng xe cơ giới của quân VC. Binh sĩ trong trại cố gắng dùng ống dòm quan sát ban đêm nhưng không phát giác được gì. Sáng hôm sau, các toán thám sát được tung ra thấy có dấu vết xe thiết giáp của CS. Trại được lệnh báo động. Đây là lần đầu tiên CS dùng hỏa tiễn AT3 trên chiến trường VN.
Vào đêm ngày 3 rạng sáng ngày 4 tháng 3 năm 1969 khi trung đoàn 66 và SĐ 312 VC được sự hỗ trợ của tiểu đoàn 4, trung đoàn 202 thiết giáp đã tấn công trại. Khoảng 21h, sau khi ngưng pháo pháo kích, liền cho xe tăng tấn công. Đại úy Stovall Bất thình lình thấy hai chiếc xe tăng của VC đã cán trúng mìn cách trại khoảng 800 thước và bốc cháy, ánh lửa làm soi rõ binh lính VC đang tùng thiết 3 chiếc xe tăng và 2 xe chở quân. Trại liền gọi phi cơ đến yểm trợ. Đại úy Stovall leo lên 1 chiếc xe tăng M-48, bị 1 quả đạn pháo nổ gần anh, hất anh và trưởng xa của chiếc xe tăng văng ra phía sau gần 3 thước. Cả hai đều bị thương nặng. Quả đạn PT 76 pháo nổ giết chết người nạp đạn và lái chiếc tăng M48. Hai bên đấu pháo ác liệt nhưng quân VC bị pháo binh, phi cơ oanh tạc ác liệt, và binh sĩ trong trại bắn đến đỏ nòng súng, VC nằm chết la liệt khắp nơi, và bắt đầu tháo lui bỏ chạy. Hai chiếc PT-76 lại bị một chiếc M48 dùng đạn HE bắn hạ. Thiếu úy Ed Nickels – chỉ huy của trung đội 2 đến thay thế Stovall nắm quyền chỉ huy. Trận Ben Het kết thúc trong đêm khi quân VC rút lui để lại xác của 4 chiếc PT-76 và 2 chiếc xe bọc thép chở quân BTR-50. Máy bay gunship, AC-47 “Spooky” truy kích theo quân VC. Nhưng, 1 tháng sau đó, Trung đoàn 69, được tăng cường thêm trung đoàn 28 tiếp tục bao vây và liên tục tấn công tiền đồn Ben Het từ tháng 5 đến tháng 12 năm 1969 thì bị tổn thất quá nặng, Trung Đoàn 69 ăn 4 « pass » B52, coi như bị chôn sâu dưới lòng đất.

Trong trận Ben Het năm 1969, VC đã bị bất ngờ với sự có mặt của lực lượng xe tăng Hoa Kỳ ở đây. VC tính xử dụng xe tăng để tấn công trại lực lượng Đặc Biệt ở Làng Vei trong chiến dịch Khe Sanh năm 1968. Trong trận đó, VC đã thắng bởi quân trú phòng hoàn toàn bị bất ngờ trước sự xuất hiện của xe tăng.

Cuối năm 1972, Hoa Ky rút quân. Bịêt Kích trại Ben Het chuyển qua BĐQ Biên Phòng. Tiểu đoàn Trưởng là một sĩ quan người Thượng, Đại úy Y Ba Nuk. Các đại đội trưởng được đồng hóa cấp bậc chuẩn uý, vẫn tiếp tục giữ chức đại đội trưởng. Các trung đội trưởng được đồng hóa trung si, trung sĩ nhất và thượng sĩ, tùy theo theo chiến công và chiến đấu trên 10 năm. Trường hợp này, BTTMVNCH chỉ đặc biệt dành cho Ben Het. Như vậy, từ đây trại Ben Het không còn người VN ở đây nữa, mặc dầu Ben Het vẫn nhận lệnh BĐQ Biên Phòng C2 cho đến ngày tan hàng 30-4-1975. Toán A LLĐB VN rút về Bộ Chỉ Huy 2 BĐQ Biên Phòng. Từ năm 1972, áp lực VC đè nặng lên khu Ben Het khi VC liên tục chi viện cho miền Nam ngày càng mạnh. Ben Het trở thành mối nguy hiểm cao độ cho VC, khi nằm gần sát vùng viên giới Việt Nam – Lào – Campuchia và kế bên đường mòn Hồ Chí Minh.

Tháng 4- 1972 khi diễn ra trận đánh Mùa Hè Đỏ Lửa, VC đánh bại sư đoàn 22 Bộ Binh của VNCH, chiếm Đắk Tô, Tân Cảnh. Duy nhất chỉ có Trại Ben Het là còn tồn tại cho tới ngày cuối của cuộc chiến. Sau năm 1975, Tiểu Đoàn của Đại Úy Y Ba Nuk còn khoảng 200 quân, không chịu buông súng, kéo qua rừng Đắk Lắk, phối hợp với lực lượng FULRO tiếp tục chiến đấu cho đến năm 1990, hết đạn dược, và cũng đã đuối sức vì không có tiếp liệu quân dụng, lương thực, lúc đó Tiểu Đoàn này mới chịu tan hàng.

(Trích. OUTPOST of TONLE TCHAMBE and BATTLE of BEN HET – WHY WE WERE DEFEAT IN VIET NAM – Colonel Floyld Parker – 1979)

VIẾT LẠI CHO ĐÚNG VỀ TRẬN CHIẾN AN LỘC. Trận chiến An Lộc bắt đầu ngày 5-4-192 và kết thúc ngày 5-7-1972. Kể từ ngày 16-6-1972 cường độ pháo kích của CS giảm xuống một cách đáng kể. Nhờ vậy cho nên QLCNCH phản công mãnh liệt và chiếm lại ưu thế trên chiến trường. Đến ngày 1-7-1972 thì CS ngưng hẳn pháo kích, không pháo thêm một quả 107, 122 hoặc 130 ly nào nữa. Lý do – Kho dự trữ đạn đại pháo đã cạn kiệt vì quân Pol Pot lúc đó ra mặt theo TC và trắng trợn phản lại CSVN, cấm không cho CSVN vận chuyển vũ khí từ cảng Shihanouk ville về chiến khu của CSVN. Sau đó, cuối năm 1972, Pol Pot yêu cầu VN có thời hạn 5 tháng rút hết ra khỏi đất Miên. VC phải di chuyển các sư đoàn chính quy lên cao nguyên VN. Riêng Cục R và Chính phủ Ma của Huỳnh Tấn Phát, Nguyễn Hữu Thọ, di tản về ẩn trốn trong núi Bà Đen. Tháng 4-1973, đám chính phủ ma này mới dọn về đống đô ở Lộc Ninh.
Tổng chỉ huy chiến dịch An Lộc của VC: Trần Văn Trà, Đồng Văn Cống, Lê Ngọc Hiền, Bùi Phùng, Hoàng Văn Thái, Phạm Hùng, Trần Độ, Hoàng Cầm. Thượng Tướng Nguyễn Thanh Trí, Tư Lệnh SĐ 9 VC, là sư đoàn đánh trực diện vào an Lộc cùng vời 1 trung đoàn đặc công. Còn các sư đoàn 5, 7, C30B và 6 trung đoàn vừa đóng chốt do các tướng CS chỉ huy như Bùi Thanh, Nguyễn Thới, Trần Độ, vừa bao vây, ép quân VNCH co cụm lại để dùng pháo tiêu diệt, đồng thời, đánh chặn quân tiếp viện của VNCH. Tổng số trên 50.000 quân VC bao gồm 2 tiểu đoàn thiết giáp T54 và PT76, 2 lữ đoàn pháo hạng nhẹ như 82, 61, 105, SKZ...., 2 tiểu đoàn phòng không, 1 tiểu đoàn hỏa tiễn SAM 7 mang trên vai.... đều xuất phát từ trên đất Miên tràn qua tấn công An Lộc. Riêng 3 lữ đoàn pháo hạng nặng như hỏa tiễn 107, 122, 130 thì bố trí tại các địa điểm KREK, MIMOT, SNOUL... (3 tỉnh lỵ của Miên cách xa nhau) bắn trên 200.000 quả sang An Lộc. Đó là chưa kể trên 100.000 pháo hạng nhẹ bắn yểm trợ trong lúc xung phong biển người. Mỗi ngày tại An Lộc, Không Quân VNCH bị súng phòng không VC bắn rơi một chiếc phi cơ. 3 tuần lễ đầu của cuộc chiến, pháo binh CS đè bẹp mọi sức đề kháng của quân VNCH. Binh sĩ chết và bị thương ngoài sức tưởng tượng. Các pháo đội Dù, Tiểu Khu Bình Long, An Lộc, và các pháo đội của SĐ 5, SĐ 18 VNCH tham dự trận An Lộc bị tiêu hủy hoàn toàn. Các đội hình phòng thủ rối loạn, không đủ bình tĩnh để tái phối trí vì hàng loạt trận mưa pháo, bão pháo trút suốt ngày suốt đêm không có một giây phút ngừng nghỉ. Thậm chí, cả hai thiết đoàn xe tăng của VNCH cũng bị phong tỏa, không hoạt động gì được cả, gần như bị tê liệt. Không quân VNCH bị phòng không, hỏa tiễn SAM chế ngự, chỉ yểm trợ được có 40%.
Sư đoàn 5 VC bao vây Lộc Tấn và nằm vòng ngoài đánh quân tiếp viện VNCH.Sư đoàn C30B và SĐ 7 VC đóng các chốt Phú Bình, Xa Cam, Đức Vinh, Xa Thạch, Tân Khai, Tàu Ô, Ngã Ba Xóm Ruộng, rải quân trải dài tới Bàu Bàng, Chơn Thành. Các Trung Đoàn Chủ Lực Miền đóng chốt ở Lộc Thạnh và có nhiệm vụ nhử các đơn vị trừ bị của VNCH đáp xuống các đồi Đồng Long, Đồi Gió...... để nhận các trận pháo điên cuồng của địch từ Cao Miên bắn qua. Trung đoàn phòng không chia ra từng tổ 3 người giữ một khẩu, rải mỏng ra khắp nơi, nên phi cơ VNCH bay bất cứ nơi nào nằm trong vùng An Lộc đều gặp đạn phòng không bắn lên như mưa. Chỉ riêng SĐ 9 VC là làm mũi dùi chính đánh AN Lộc, các sư đoàn còn lại bao vây An Lộc để pháo binh làm nhiệm vụ chính là tiêu diệt Quân VNCH. 9 Trung đội Đài Quan Sát pháo binh của VC đóng tại các địa điểm, thuận lợi cho việc quan sát qua ống dòm khi chấm tọa độ, điều chỉnh pháo tại Phú Đức, Thanh Bình, Phú Lô, Quản Lợi, Phú Thịnh, Phú Muông, An Phú, Minh Đức, Xa Cam. Số lần Tổng tấn công vào An Lộc là 7 lần. Ngày 16-6-1972, Nha Kỹ Thuật cho nhảy qua Miên 2 toán Delta, khởi hành từ Bù Đốp, luồn qua đất Miên, đi dọc xuống biên giới Snoul-Lộc Ninh, bất ngờ phát giác hai sư đoàn 302, 317 của VC đang ứng chiến cách Bình Long 16 cây số về phía Tây Nam. Sau khi 2 toán Delta này rút lui khoảng 1 tiếng đồng hồ thì hai pháo đài B52 bay đến oanh tạc một cách tuyệt đẹp. Hai SĐ này coi như bị xóa sổ. Như đã nói ở trên, hai tuần lễ cuối cùng của tháng 6-1972, đạn pháo binh ở Miên đã cạn, đạn dược tại mặt trận cũng cạn dần, vũ khí địch hư hại đến 60% không tiếp tế được, hỏa lực VC yếu kém thấy rõ, lợi dụng cơ hội này, quân VNCH phản công dữ dội, đẩy VC ra xa từ 600 đến 1000 thước, nằm trong phạm vi B52 rộng tay trải thảm. VC tử vong với con số 70%. 30% còn lại phân tán mỏng chạy trốn vào các truông rừng cao su, trở lại chiến thuật ém quân, đánh quấy rối du kích cho đến ngày 17-3-1972, sau khi ký Hiêp Định Paris, mới quay lại chiếm Lộc Ninh.

TRẠI TỐNG LÊ CHÂN - Toán LLĐB A 334
Tống Lê Chân thành lập ngày 6-1-1967, tên địa phương là Tonle Tchombe, nhưng chỉ huy trưởng Toán A334 LLĐB đầu tiên là Thiếu Tá Đặng Hưng Long dịch chữ Tonle Tchombe thành Tống Lê Chân. Năm 1969, Đại Úy Lê Văn Ngôn, Khóa 21 Trường Võ Bị Đà Lạt, được Đại Tá Nguyễn Thành Chuẩn, Chỉ Huy Trưởng C3 bổ nhiệm làm Trưởng Trại kiêm Trưởng Toán A334 LLĐB.
Trại LLĐB này bị SĐ 7 và Trung Đoàn 165 CS bao vây đúng 510 ngày, trải qua 1111 lần pháo kích và 49 cuộc xung phong biển người luôn luôn có 1 tiểu đoàn thiết vận xa T54 yểm trợ, Nhưng Tống Lê Chân vẫn đứng vững cho tới ngày chấm dứt chiến tranh. Đây trận đánh dài nhất trong lịch sử chiến tranh thế giới. VC bắt đầu vây hảm TLC từ ngày 10 tháng 7/1970.
Trại TLC tọa lạc trên ngọn đồi cao 50 thước, nhìn xuống hai con suối Takon và Neron, những con suối nối liền với sông Sàigòn chảy khắp miền đất Tây Ninh, và Bình Long. Trại nằm trên lằn ranh giữa hai tỉnh Tây Ninh, Bình Long, cách An Lộc 15 cây số về phía đông bắc, cách biên giới Việt-Miên 12 cây số. Là cứ địa có mục đích chọc thủng khu Mỏ Vẹt, nơi đặt Tổng Hành Dinh Cục R của CS. Tống Lê Chân là tiền đồn chiến lược của Quân Khu 3, giữ nhiệm vụ ngăn chặn địch dọc theo biên giới Việt-Miên từ Tây Ninh qua Phước Long cùng với các trại LLĐB Bến Sỏi, Thiện Ngôn, Kà tum, Trảng Sụp, Suối Đá, , Lộc Ninh, Quản Lợi, Bù Gia Mập. Các trại còn tạo thành một hàng rào phòng thủ kiên cố ngăn không cho địch xâm nhập từ bên kia biên giới như Lưỡi Câu, Mỏ Vẹt tiến sâu vào nội địa VN. TLC còn là nơi xuất phát những cuộc hành quân tuần tiểu, phục kích, thám sát, và tiêu diệt các đơn vị địch trong vùng. Khu vực hoạt động của TLC cũng thuộc chiến khu Chiến Khu C của VC.
Năm 1970, thực thi Chương Trình Chiến Tranh Hóa VN, Tống Lê Chân 100% là những binh sĩ tình nguyện, được biến cải thành Tiểu Ðoàn 92 Biệt Động Quân Biên Phòng. Tháng 4 năm 1972, cùng một chiến dịch tổng tấn công vào An Lộc, VC quyết định "ủi sập" các trại BĐQ Biên Phòng dọc theo biên giới để dễ dàng di chuyển đại quân. Bộ Chỉ Huy Biệt Động Quân Biên Phòng Quân Khu 3 của Đại Tá Nguyễn Thành Chuẩn nhận được lệnh BTTM ra lệnh rút hết lực lượng các trại Thiện Ngôn, Kàtum, Tống Lê Chân và Bùi Gia Mập. Nhưng Trưởng Trại Lê Văn Ngôn xin được ở lại tử thủ. Anh xin lệnh cấp trên qua máy PRC 25 : « BĐQ Biên Phòng xuất thân từ Biệt Kích mà di tản thì còn gì danh dự của binh chủng này ».
BTTM sau gần hai năm thả dù tiếp tế cho TLC cũng cảm thấy thấm mệt, nên chấp thuận lời đề nghị của Trung Tá Ngôn, năm đó anh 25 tuổi, từ đại úy lên trung tá chỉ có hai năm, đều được vinh thăng tại mặt trận. Người ta phải thả dù cặp lon trung tá xuống cho anh. Ra trường năm 1966, tháng 9- 1972 mang lon trung tá.
Từ ngày 5 tháng 4-1974 đến 1:00 khuya ngày 11 tháng 4/1974 CS tràn ngập vào căn cứ. Trung Tá ngôn phải cố gắng sinh tồn, với quân số 259 người, cùng với 50 binh sĩ, hạ sĩ quan bị thương từ trước, 20 người bị thương ở đợt tấn công vào giờ chót. Tiểu đoàn 92 BĐQ do anh chỉ huy, 1 trung đội cảm tử, hy sinh ở lại lập phòng tuyến bọc hậu, bắn chặn địch để cho Tiểu Đoàn mở đường máu rút về An Lôc. Trung đội bọc hậu về sau bị CS bắn chết hết.
Sau 1975, CS biến căn cứ Tống Lê Chân thành trại tù cải tạo.

*** TRẬN ĐÁNH TẠI ĐỒI CHARLIE CỦA TIỂU ĐOÀN 11 NHẢY DÙ QL/VNCH (từ ngày 9 đến 14 tháng 4 năm 1972) :
*****************************************************************************************
- Đây là một trận đánh đẫm máu của Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù QL/VNCH với Cộng Quân ở Vùng 2 Chiến Thuật, Quân Đoàn 2, Quân Khu 2. Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù do Trung Tá Nguyễn Đình Bảo làm Tiểu Đoàn Trưởng, Thiếu Tá Lê Văn Mễ làm Tiểu Đoàn Phó và Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù thuộc Lữ Đoàn 2 Nhảy Dù do Đại Tá Trần Quốc Lịch làm Lữ Đoàn Trưởng.
- Ngày 7 tháng 4 năm 1972, Tiểu Đoàn 2 Nhảy Dù rút ra Quốc Lộ 14 để bổ sung quân số. Toàn bộ Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù vào thay Tiểu Đoàn 2 ND để khai thác chiến trường và truy kích Cộng Quân. Và ngày hôm đó cũng là lần cuối Đại Tá Lịch đi thị sát Căn Cứ Charlie. Đại Tá Lịch dặn dò Trung Tá Bảo về kế hoạch phòng ngự và không quên nhắc vị Tiểu Đoàn Trưởng một số điểm quan trọng như sau : " Cộng Quân đã xử dụng pháo 130 ly, 122 ly cũng như các hỏa tiển khi tấn công Căn Cứ Delta. Nếu địch dùng đầu nổ chậm thì không một hầm dã chiến nào của quân trú phòng có thể chịu đựng được. Hầm TOC không nên làm lớn và các cấp chỉ huy nên có hầm trú ẩn riêng cho từng người ".
- Và cũng trong ngày nầy, các vị trí đóng quân của Lữ Đoàn 2 ND, kể cả Charlie cũng đã bắt đầu bị Cộng Quân pháo kích, nhưng còn ở mức độ nhẹ mà phần lớn là hỏa tiển, và loại pháo 130 ly chỉ ở giới hạn từ 5 đến 10 quả.
- Căn Cứ Charlie nằm trên cao độ 960 mét, cách Tân Cảnh khoảng 8 cây số về hướng Tây Nam. Trước đây, vào khoảng đầu năm 1972 được thiết lập bởi Công Binh của Sư Đoàn 22 Bộ Binh và do Trung Đoàn 42 Bộ Binh (thuộc SĐ22BB) trấn đóng và trách nhiệm an ninh. Ngày hôm nay Tiểu Đoàn 11ND trấn đóng và chịu trách nhiệm : Đại Đội 111 của Tiểu Đoàn 11 ND trấn đóng tại Đồi Charlie, Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn và Đại Đội Chỉ Huy Yểm Trợ đóng tại một Đồi có cao độ 1020 gần bên Căn Cứ Charlie.
- Khu vực Charlie nằm chận trên con đường chiến lược mà mà xe tăng Địch Quân di chuyển từ Hạ Lào sang Quốc Lộ 14, vì vậy bằng mọi giá Cộng Quân phải triệt hạ Căn Cứ Hỏa Lực Charlie.

- Tình hình mỗi ngày mỗi thêm căng thẳng, Cộng Quân pháo kích liên tục từ những đỉnh cao của dảy Big Mamma 1773 mét và 1513 mét và bao vây 2 Căn Cứ Delta và Charlie.
- Ngày 8 tháng 4 năm 1972, Không Quân VN phát giác ra một rừng súng Phòng Không của Cộng Quân quanh Charlie, chạm địch lẻ tẻ cấp đại đội quanh căn cứ vào sáng sớm. Rõ ràng Cộng Quân đã thăm dò và chọn Charlie làm mục tiêu tấn công. Sau khi thất bại ở Căn Cứ Delta, Cộng Quân bổ sung quân số và quyết tâm tấn công dứt điểm Charlie để phục hận.

- Ngày 9 tháng 4 năm 1972 : Hỏa tiển và đại pháo 130 ly,122 ly của Cộng Quân cày tung hệ thống phòng thủ và sau 4 giờ pháo kích với hàng ngàn quả đạn công phá ... Cộng Quân bắt đầu tấn công Charlie ... trong khi đó thì Cộng Quân cũng pháo thật mãnh liệt vào Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn11 ND. Đại Đội 111 ND ở Đồi Charlie anh dũng chống trả. Pháo binh, phi cơ khu trục, trực thăng và võ trang của QL/VNCH trút đủ loại bom, đạn xuống đầu Cộng Quân để yểm trợ cho Charlie. Sau nhiều đợt xung phong không kết quả, địch quân rút lui để lại hàng trăm xác chết và vũ khí ngổn ngang trên sườn đồi.

- Ngày 10 tháng 4 năm 1972 : Cộng Quân mở TRẬN ĐỊA PHÁO vào ngay BCH/Tiểu Đoàn 11ND và tất cả các đại đội. Đại pháo 130 ly và các hỏa tiển làm tê liệt các liên lạc của Charlie. Căn Cứ lảnh gần 3000 quả đạn các loại ... sau đó tấn công biển người. Lữ Đoàn 2 ND xin phi cơ quan sát lên vùng hành quân.
- Hỏa lực Súng Phòng Không của Cộng Quân quá mạnh toàn loại 12 ly 7 từ các khe núi bắn ra làm cho trực thăng võ trang không can thiệp được và trực thăng tải thương không xuống được ... quân trú phòng cũng đang bị thiệt hại nặng. Thiếu Tá John Duffy, Sĩ Quan Cố Vấn của Tiểu Đoàn 11ND, theo một hệ thống riêng của Lực Lượng Đặc Biệt, xin được mấy phi vụ B.52 của Hoa Kỳ và sẽ thả vào lúc nửa đêm.
- Cuộc chiến vẫn tiếp diễn ác liệt. Đúng nửa đêm, B.52 đã trải thảm trên đầu Địch. Cộng Quân ngưng tiếng súng, ngưng tiếng pháo và rút lui và để lại hàng trăm xác chết.

- Ngày 11 tháng 4 năm 1972 : Trung Tướng Ngô Du, Tư Lệnh Quân Đoàn 2, ông Paul Vann, Cố Vấn của Quân Đoàn 2, Đại Tá Lê Đức Đạt, Tư Lệnh Sư Đoàn 22BB, đến thăm Lữ Đoàn 2 ND. Đại Tá Lịch trình bày tình hình chiến trận và một lần nữa ông xin cho Tiểu Đoàn 11ND được lư u động hành quân trong vùng trách nhiệm nhưng tướng Ngô Du không chấp thuận và còn ra lệnh Tiểu Đoàn 11 ND phải tìm lấy mảnh đạn 130 ly gửi về chứng minh với Quân Đoàn và Cố Vấn vì ông cho rằng Cộng Quân không thể nào có khả năng kéo được Đạn Pháo 130 ly vào Vung 2 CT. (sự thật Cộng Quân đã kéo pháo 130 ly vào đây rất dễ dàng và kéo bằng chiến xa PT.76).
- Ngày nầy, Cộng Quân không tấn công mà chỉ pháo cầm chừng ... Cộng Quân vẫn xử dụng súng Phòng Không nên trực thăng tải thương không thực hiện được. Lữ Đoàn 2 ND xin được yểm trợ chiến trường bằng B.52 nhưng không được chấp thuận.

- Ngày 12 tháng 4 năm 1972 : Từ sáng sớm, Cộng Quân mở Trận Địa Pháo vào các vị trí phòng thủ của Tiểu Đoàn 11ND. và thực hiện ngay cuộc xung phong tấn công biển người sau đó ... quân trú phòng bị thiệt hại thật nặng. Khoảng 11 giờ trưa, một quả đạn rớt cạnh TOC nên Thiếu Tá Mễ bị thương nhẹ ... hầm của Trung Tá Bảo bị trúng đạn pháo, Trung Tá Bảo bị tử thương và Thiếu Tá Duffy bị thương ở đầu và ngực ... và cuộc chiến vẫn tiếp diễn ác liệt ...

- Đến quá trưa, Cộng Quân ngưng tấn công, rút lui nhưng vẫn còn pháo. Thiếu Tá Mễ lên thay Trung Tá Bảo làm Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 11ND. Quân trú phòng bị tử thương khoảng hơn 30 và bị thương khoảng 100. Charlie vẫn mịt mù đạn pháo ... rồi pháo ngưng và Cộng Quân mở lại các cuộc tấn công biển người ... quân trú phòng anh dũng chống trả ...Bắc Quân vừa chết vừa bị thương với hàng trăm xác chết nằm la liệt trong biển lửa ... địch quân vẫn pháo và phòng không vẫn tác xạ như đan lưới ...

- Ngày 13 tháng 4 năm 1972 : Các phi cơ khu trục và võ trang bắn phá để trực thăng tải thương và tiếp tế nhưng vô hiệu vì phòng không của địch dầy đặc ... nhiều phi cơ bị bắn rơi và bốc cháy.
- Thiếu Tá Mễ ra lệnh cho Đại Đội 111 (do Trung Úy Thinh làm Đại Đội Trưởng), hành quân lục soát tìm bãi đáp để nhận tiếp tế ... đã chạm địch nặng nề và Trung Úy Thinh bị tử thương cùng một số quân nhân của Đại Đội 111ND ... mà vẫn không tìm được bãi đáp. Các phi công anh dũng của Không Lực VN vẫn tiếp tục lên vùng để yểm trở và tìm cách tiếp tế cho quân Dù dưới đất ... Nhưng hoàn toàn không thực hiện được mà còn bị tiếp tục bị bắn rơi ...Thế là hết ! Hy vọng tan theo mây khói.

- Ngày 13 tháng 4 năm 1972 : Vào buổi chiều, sau trận mưa pháo, Cộng Quân mở trận xung phong tấn công biển người vào Tiểu Đoàn 11ND. Hơn một tuần lễ nay, hầu như ngày nào cũng bị pháo và tấn công ... số người chết và bị thương gia tăng rất nhiều mà không được tản thương và tiếp tế, nhất là đạn dược ... nhưng quân trú phòng vẫn anh dũng tiếp tục chiến đấu.

- Ngày 14 tháng 4 năm 1972 : Thiếu Tá Mễ, Đại Úy Đoàn Phương Hải (Sĩ Quan Trưởng Ban 3 của Tiểu Đoàn) và Thiếu Tá Cố Vấn Duffy lấy một quyết định cuối cùng : " Bỏ Charlie vào lúc 5 giờ chiều sau khi thiếu Tá Duffy xin được mấy phi vụ B.52 thả xuống phía Nam và phía Đông của căn cứ để quân còn lại của Tiểu Đoàn 11ND di tản.
- Đợt bom lửa cuối cùng thả sát ngay phía ngoài phòng tuyến của Đại Đội 114, nơi Cộng Quân tập trung đông nhất ... Chiến trường tạm lắng dịu, chỉ còn tiếng pháo của quân ta đang tác xạ vào những điểm nghi ngờ có địch quân tập trung dưới chân đồi có ý định muốn mở lại các cuộc tấn công.
- Nhờ mấy phi vụ B.52 và 3 Toán tiền đồn cảm tử ... đoàn quân ào đi di tản không gặp sự tấn công nào của Cộng Quân. Trời sáng dần, đoàn quân 167 người (kể cả thương binh) ... Thiếu Tá Duffy (gốc Lực Lượng Đặc Biệt Hoa Kỳ), những vết thương còn rỉ máu trên đầu và ngực với cây súng XM.18 và chiếc máy truyền tin đặc biệt (của các Toán Lực Lượng Đặc Biệt xử dụng khi hành quân xâm nhập), dõng dạc nói to : " Chúng ta sẽ có máy bay trong vòng 15 phút ".
- Nhưng 5 phút sau đó, đoàn quân lại bị Cộng Quân tấn công, đơn vị bị đánh thật mạnh và bị chia cắt thành từng mảnh nhỏ ... và tiếp tục đơn độc chiến đấu và cũng là lúc 2 chiếc trực thăng Cobra võ trang, một chở quân và một quan sát xuất hiện.

- Toán quân 36 người, trong đó có Thiếu Tá Mễ, Đại Úy Hải, Trung Úy Long ... một số binh sĩ Dù và Thiếu Tá Duffy. Các đợt bốc quân lần lượt được thực hiện và an toàn. Thiếu Tá Duffy đã đi đợt bốc quân sau cùng và ông đã nhìn những chiến sĩ Nhảy Dù của Tiểu Đoàn 11 mà ông xem như là là những đồng đội thân thiết nhất của mình và nói : " Tôi biết rõ, nếu Tôi đi đợt bốc quân đầu tiên thì chắc khó hy vọng có máy bay trở lại bốc nốt các Anh, Tôi không bỏ các Anh, những Chiến Hữu Đúng Nghĩa nhất mà Tôi chưa hề gặp trong cả đời chinh chiến ".

- Các Anh Hùng Mũ Đỏ còn sống sót của Tiểu Đoàn 11ND về đến được Căn Cứ Tân Cảnh ... hoặc bằng phi cơ tìm thấy và bốc được ... hoặc tự băng rừng, đồi núi ... vừa chiến đấu vừa rút lui và trốn thoát.
- TRẬN ĐÁNH ĐỒI CHARLIE CỦA TIỂU ĐOÀN 11 NHẢY DÙ QL/VNCH đã tạo nên MỘT THIÊN ANH HÙNG CA của QL/VNCH.

* GHI NHẬN VỀ TRẬN ĐÁNH ĐỒI CHARLIE :
- Cộng Quân đã tập trung một quân số thật đông đảo, hùng hậu so vố quân trú phòng, rồi thực hiện các TRẬN ĐỊA PHÁO và TẤN CÔNG XUNG PHONG BIỂN NGƯỜI.
- Quân trú phòng rất ít so với quân tấn công, nhưng đã anh dũng kiên cường chống trả và gây cho Địch Quân thiệt hại nặng nề với hàng ngàn xác chết bỏ lại tại mặt trận.

*** TRẬN TÂN CẢNH VÀ DAKTO 2 (ngày 22, 23 và 24 tháng 4 năm 1972) :
******************************************************************
- Sư Đoàn 22 Bộ Binh dưới quyền chỉ huy của Đại Tá Lê Đức Đạt (Đại Tá Đạt là Tư Lệnh Phó của SĐ22BB, ông được chỉ định làm Tư Lệnh thay thế Thiếu Tướng Lê Ngọc Triển, vị Tư Lệnh tiền nhiệm trước đó, kể từ ngày 1 tháng 3 năm 1972).
- Sư Đoàn 22BB có 4 trung đoàn tác chiến, đó là các trung đoàn 40, 41, 42 và 47 (trong QL/VNCH có 2 sư đoàn bộ binh đặc biệt có 4 trung đoàn tác chiến, đó là Sư Đoàn 22BB và Sư Đoàn 1 BB, trong khi đó các sư đoàn bộ binh khác còn lại chỉ có 3 trung đoàn tác chiến).
- Căn Cứ Tân Cảnh được phòng thủ bởi Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 22BB, Trung Đoàn 42BB và 1 Tiểu Đoàn của Trung Đoàn 41BB, trong khi đó Căn Cứ Dakto 2 là căn cứ của Trung Đoàn 47BB và Tiểu Đoàn 9 Nhảy Dù thuộc Lữ Đoàn 2 ND đóng tại phi trường Phượng Hoàng, nằm ở giữa Ben-Hét và Dakto.


- Ngày 22 tháng 4 năm 1972, vào lúc 23 giờ, Toán Cố Vấn Hoa Kỳ của Sư Đoàn 22BB, âm thầm trốn khỏi Căn Cứ Tân Cảnh trên 1 chiếc trực thăng đáp cạnh Trung Tâm Hành Quân của Sư Đoàn và hoàn toàn không thông báo cho Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 22BB biết

- Khoảng 2 giờ sáng ngày 23 tháng 4 năm 1972, hai sư đoàn quân CSBV cùng 4 trung đoàn biệt lập có pháo binh và chiến xa yểm trợ bắt đầu tấn công Căn Cứ Tân Cảnh và các căn cứ quân sự trong vùng nầy.
- Sau TRẬN ĐỊA PHÁO thì chiến xa và bộ binh của Cộng Quân mở ngay cuộc xung phong tấn công biển người vào Bộ Tư Lệnh của Sư Đoàn 22BB. Với 15 chiến xa tiến vào cổng chính, có quân bộ binh đi kèm, bắn đại bác không giật và đại liên vào Cân Cứ Tân Cảnh. Quân trú phòng đã anh dũng chống trả ... 10 chiến xa M.41 của quân trú phòng đã bị các hỏa tiển AT3 SUGGER của Cộng Quân bắn cháy hết 8 chiếc và 2 chiếc bị đứt xích ... Lực lượng trú phòng chống cự và giao tranh ác liệt với Cộng Quân suốt ngày với sự yểm trợ tối đa của Không Lực Việt Nam và pháo binh phản pháo bắn trực xạ vào đoàn quân tấn công.
- Sau cùng, lực lượng trú phòng thấy nguy cơ Căn Cứ sẽ bị tràn ngập nên tìm cách mở vòng dây để băng sang phi trường Phượng Hoàng, hy vọng bắt tay được với Tiểu Đoàn 9ND, nhưng không được, vì hàng rào phòng thủ quá kiên cố và địch quân thì vừa pháo kích vừa tấn công có chiến xa đi kèm với bộ binh.
- Đại Tá Đạt biết tình hình nguy ngập và bi đát, ông ra lệnh cho tất cả mọi người tìm cách thoát ra khỏi căn cứ trước khi trời sáng nhưng không được và cuộc giao tranh vẫn tiếp diễn và lực lượng trú phóng cũng anh dũng chiến đấu cho qua đến ngày hôm sau.

- Vào lúc 13 giờ (tức 1 giờ trưa) ngày 24 tháng 4 năm 1972, chiến xa PT.76 của Cộng Quân đã vào đến sân cờ của Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 22BB và tràn ngập ... Căn Cứ Tân Cảnh thất thủ. Đại Tá Lê Đức Đạt bị tử thương và mất tích.

- Lúc nầy, Tiểu Đoàn 9ND tại phi trường Phượng Hoàng cũng đang bị Cộng Quân pháo kích và tấn công cho nên không thể tiếp viện cho Căn Cứ Tân Cảnh.
- Cũng đồng thời lúc đó, các đơn vị Cộng Quân của 2 sư đoàn CSBV, có sự yểm trợ của pháo binh, phòng không và chiến xa đang tấn công Căn Cứ Dakto 2. Các chiến xa M.41 của QL/VNCH từ Căn Cứ Ben-Het (cách Dakto 2 khoảng 20 cây số), trên đường về tiếp viện cho Tân Cảnh và Dakto 2 đã bị lọt vào trận phục kích của Cộng Quân trên tỉnh lộ 512 ... các súng chống chiến xa và các hỏa tiển AT3 SUGGER của Cộng Quân đã tiêu diệt phá hủy hầu hết các chiến xa M.41 và đoàn quân bộ binh tùng thiết cũng bị đánh tan.
- Mặc dù các phi cơ của Không Lực VNCH, anh dũng yểm trợ cho chiến trường Dakto 2 (lẫn Tân Cảnh), đã bắn hạ được 7 chiến xa của
Cộng Quân và gây thiệt hại nặng nề cho Cộng Quân, nhưng đến khuya ngày 24 tháng 4 năm 1972, Căn Cứ Dakto 2 cũng chịu số phận thất thủ như Tân Cảnh.

- Tại 2 căn cứ Tân Cảnh và Dakto (sau khi bị thất thủ), Cộng Quân đã tịch thu được : 13 khẩu pháo binh, kể cả 7 khẩu đại bác 175 ly cùng 14.000 quả đạn pháo binh.
- Đại Tá Lê Đức Đạt, Tư Lệnh Sư Đoàn 22BB, ông là 1 trong 2 vị tư lệnh sư đoàn đã hy sinh tại chiến trường trong cuộc chiến VN. Ông được vinh thăng Cố Chuẩn Tướng. Trước ông, có Cố Thiếu Tướng Trương Quang Ân, tư lệnh sư đoàn 23BB bị rớt phi cơ, hy sinh trên đường công tác cùng Phu Nhân ngày 8 tháng 9 năm 1968 tại quận Đức Lập tỉnh Quảng Đức.

* GHI NHẬN VỀ TRẬN ĐÁNH TẠI TÂN CẢNH VÀ DAKTO 2 :
- Cộng Quân với 2 sư đoàn và 4 trung đoàn biệt lập có pháo binh, phòng không và chiến xa yểm trợ tấn công sư đoàn 22BB và Tiểu Đoàn 9ND với các vị trí đóng quân cố định và riêng rẽ. Quân tấn công quá đông, quân trú phòng quá ít, mà sự yểm trợ về Không Lực bị hạn chế, còn pháo binh và chiến xa thì bị Vô Hiệu Lực từ đầu ... nhưng đã anh dũng kiên cường chống trả và cũng gây thiệt hại nặng nề cho Cộng Quân.

*** TRẬN PHƯỚC LONG (từ ngày 13 tháng 12 năm 1974 đến ngày 7 tháng 1 năm 1975) :
****************************************************************************
- Tỉnh, tiểu khu Phước Long thuộc Vùng 3 Chiến Thuật, Quân Đoàn 3, Quân Khu 3, là một tỉnh ven biên của Việt Nam và Cam Bốt, nằm cách thủ đô Sài-Gòn khoảng 110 cây số về hướng Đông Bắc và gồm có 4 quận lỵ, chi khu, đó là : Đức Phong, Bố Đức, Đôn Luân và Phước Bình. Phước Bình được xem là Thị Xã Châu Thành của tỉnh Phước Long. Dân số khoảng 30.000 người, đa số là đồng bào Thượng thuộc 2 sắc tộc Stiêng và Mnong làm gỗ và dân phu đồn điền cao su cùng một số ít người Kinh sống bằng nghề thương mại, chủ đồn điền cao su và công chức cư trú tại Thị Xã Phước Bình.

- Thị Xã Phước Bình có 1 phi trường có khả năng nhận vận tải cơ C.130. Thời tiết ở đây thường có sương mù bao phủ từ sáng sớm đến 8, 9 giờ sáng, có khi đến 10, 11 giờ sáng nhất là trong mùa mưa ... và có một ngọn núi mang tên Bà-Rá (ngọn núi nầy Cộng Quân chiém đóng và thành lập các Đài Quan Sát Pháo Binh để chỉ điểm tác xạ cho Pháo Binh của Cộng Quân vào các địa điểm quân sự của QL/VNCH đồn trú tại tỉnh Phước Long).

- Quân đồn trú tại tỉnh, tiểu khu Phước Long gồm có Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu với các đơn vị trực thuộc, còn có 5 tiểu đoàn Địa Phương Quân, 48 trung đội Nghĩa Quân và Cảnh Sát Quốc Gia ...Đơn vị yểm trợ có 4 pháo đội pháo binh cơ hữu (105 và 155 ly). Trong khi trận chiến đang tiếp diễn thì lực lượng trú phòng được tăng viện tiểu đoàn 2 trung đoàn 7 của sư đoàn 5BB và 2 pháo đội pháo binh, 3 đại đội trinh sát của 3 sư đoàn 5, 18 và 25 cùng 2 biệt đội của Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù.

- Để tiến chiếm tỉnh, tiểu khu Phước Long, Cộng Quân huy động 2 sư đoàn 3 và 7 quân CSBV cùng 2 trung đoàn biệt lập, 2 trung đoàn pháo binh, phòng không, 1 trung đoàn thiết giáp, tổng cộng quân số tương đương với khoảng 3 sư đoàn.
-Khi mở cuộc tấn công vào Phước Long, Cộng Quân áp dụng chiến thuật " Tiền Pháo Hậu Xung, Công Đồn Đả Viện ", theo phương thức " Tam Thức Đồng Hành «
(Pháo Binh, Phòng Không và Đài Quan Sát Pháo Binh), và tập trung quân số thật đông đảo, hùng hậu để xung phong tấn công biển người và các đơn vị trú phòng cố định, lẻ tẻ, ít quân số.

- Ngày 13 tháng 12 năm 1974 : Cộng Quân mở TRẬN ĐỊA PHÁO vào Phước Long, rồi mở cuộc tấn công xung phong biển người vào quận, chi khu Đôn Luân nhưng bị tiểu đoàn ĐPQ đồn trú anh dũng đẩy lui và gây thiệt hại nặng nề cho Cộng Quân.

- Ngày 14 tháng 12 năm 1974 : Cộng Quân mở Trận Địa Pháo khủng khiếp và ác liệt vào Phước Long và sau đó mở cuộc tấn công biển người vào 2 chi khu Đức Phong và Bố Đức và đến đêm thì chiếm được 2 chi khu nầy.

-Đêm 15 tháng 12 năm 1974 : Cộng Quân mở trận Địa Pháo vào Căn Cứ Hỏa Lực Bunard (nằm về phía Tây Nam của Thị Xã Phước Bình), rồi mở cuộc tấn công biển người và chiếm được căn cứ nầy.

- Ngày 16 tháng 12 năm 1974 : QL/VNCH tái chiếm lại được chi khu Bố Đức và gây thiệt hại nặng nề cho Cộng Quân.

- Cộng Quân chỉnh đốn lại hàng ngủ sau 1 tuần lễ, vào ngày 22 tháng 12 năm 1975, Cộng Quân mở lại trận Địa Pháo, rồi tấn công biển người có chiến xa yểm trợ và chiếm được quặn Bố Đức. Tính đến thời điểm nầy, Phước Long chỉ còn lại chi khu Đôn Luân, thị xã Phước Bình và khu vực phi trường.

- Ngày 26 tháng 12 năm 1974 : Cộng Quân mở trận địa pháo rồi tấn công biển người vào chi khu Đôn Luân. Sau nửa ngày giao tranh, chi khu Đôn Luân bị thất thủ ... một số quân nhân còn sống sót, rút lui về thị xã Phước Bình.

- Ngày 30 tháng 12 năm 1974 : Sau trận địa pháo, sư đoàn 3 và sư đoàn 7 quân CSBV đồng loạt tấn công biển người vào chi khu Phước Bình. Đến chiều thì BCH của chi khu bị tràn ngập, lực lượng trú phòng rút lui ra đóng ở khu vực phi trường và tiếp tục chiến đấu và bắn hạ được 4 chiến xa của Cộng Quân ở vòng đai phi trường ... cuộc chiến vẫn xảy ra ác liệt.

- Trên núi Bà-Rá, Cộng Quân đặt các đài quan sát pháo binh, điều chỉnh đại pháo 130 ly và 122 ly làm tê liệt hầu hết các pháo đội của lực lượng phòng thủ Phước Long và các súng phòng không của Cộng Quân bắn như đan lưới vào các phi cơ QL/VNCH trên vòm trời Phước Long ...

- Trong các cuộc tấn công của Cộng Quân vào ngày 2 tháng 1 năm 1975, lực lượng trú phòng còn lại anh dũng kiên cường chiến đấu và bắn hạ được 15 chiến xa của Cộng Quân và cầm cự chờ quân tiếp viện ...

- Ngày 5 tháng 1 năm 1975 : Hai biệt đội của Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù được thả xuống phía Đông của Phước Long với mục đích làm giảm áp lực của Cộng Quân, nhưng đã gặp phải các TRẬN ĐỊA PHÁO của Cộng Quân liên tiếp nhiều đợt và thật khủng khiếp và bị thiệt hại nặng mà chưa kịp giao tranh với Cộng Quân ... và đến khuya ngày 5/1/1975 thì được báo là tình hình nguy ngập ... các đơn vị Địa Phương Quân trú phòng đã bị tan rả dần dưới áp lực trận địa pháo và bị tấn công bằng chiến xa của Cộng Quân.

- Sáng ngày 6 tháng 1 năm 1975 : Sau một trận địa pháo thì bộ binh của Cộng Quân có chiến xa đi kèm đã có mặt khắp nơi và tiến đánh những đơn vị cuối cùng của quân trú phòng ... vẫn còn anh dũng chiến đấu chống lại Cộng Quân trong tình thế tuyệt vọng và đến 23 giờ đêm thì mọi liên lạc với Phước Long coi như chấm dứt hoàn toàn và Cộng Quân đã chiếm được tỉnh, tiểu khu Phước Long.

- Từ ngày 7 tháng 1 năm 1975 : Các trực thăng của Không Lực VNCH được lệnh tìm cứu các quân nhân thuộc các đơn vị chiến đấu tại Phước Long. Sau 4 ngày hoạt động tìm cứu, có khoảng 121 quân nhân thuộc 2 biệt đội của Liên Đoàn 81 BCND được cứu thoát. Chỉ còn có 850 người sống sót trong số 4500 người thuộc các đơn vị đồn trú và tăng phái cho mặt trận Phước Long ... Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Phước Long (Đại Tá Nguyễn Thống Thành) và Quận Trưởng kiêm Chi Khu Trưởng Phước Bình được ghi nhận bị mất tích.

- Có khoảng 3000 dân trong số 30.000 dân của tỉnh Phước Long đã trốn thoát được khỏi vòng vây của Cộng Quân. Đa số các viên chức hành chánh địa phương, Cảnh Sát Quốc Gia và quân nhân bị bắt đã bị Cộng Quân sát hại, hành quyết dã man sau đó.

*** MẶT TRẬN BAN MÊ THUỘT (từ ngày 10 đến ngày 19 tháng 3 năm 1975) :
**************************************************************************
- Thị Xã Ban Mê Thuột là trung tâm của tỉnh lỵ, tiểu khu Darlac và được xem là 1 thành phố lớn nhất của vùng Tây Nguyên. Tháng 3 năm 1975, Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Darlac là Đại Tá Nguyễn Trọng Luật (là một sĩ quan cao cấp thuộc gốc Binh Chủng Thiết Giáp của QL/VNCH).
- Tháng 11 năm 1974, Thiếu Tướng Phạm Văn Phú được bổ nhiệm làm Tư Lệnh Vùng 2 Chiến Thuật kiêm Tư Lệnh Quân Đoàn 2 và Quân Khu 2. Lãnh thổ của Vùng 2 CT rất rộng lớn với 2 mặt trận Cao Nguyên và Duyên Hải gồm 12 tỉnh (tiểu khu quân sự), gồm 2/3 lãnh thổ đất nước và gồm các tỉnh, tiểu khu như sau : Bình Định, Kontum, Pleiku, Phú Bổn, Phú Yên, Darlac, Khánh Hòa, Quảng Đức, Tuyên Đức, Lâm Đồng, Ninh Thuận và Bình Thuận. Bộ Tư Lệnh QĐ2 và QK2 đặt tại tỉnh Pleiku.

- Đầu tháng 3 năm 1975, quân CSBV tập trung 3 sư đoàn quân chính quy cùng các đơn vị pháo binh, chiến xa, đặc công bao quanh Thị Xã Ban Mê Thuột của tỉnh Darlac với quyết tâm ĐÁNH LẤY BAN MÊ THUỘT để lập thủ đô cho Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam (một tổ chức bù nhìn, tay sai trá hình của CSBV), sau đó sẽ chiếm toàn Cao Nguyên cắt đôi lãnh thổ VNCH.

- Vào lúc 9 giờ 45 phút sáng ngày 9.3.1975, Tướng Phạm Văn Phú đến Ban Mê Thuột, đó cũng là lúc tình hình tỉnh, tiểu khu Quảng Đức đang nguy ngập với cuộc tấn công của 1 sư đoàn quân CSBV có chiến xa và pháo binh yểm trợ đánh vào quận Đức Lập của Quảng Đức và sau đó được biết chi khu Đức Lập đã thất thủ.

- Từ 2 giờ sáng ngày 10.3.1975, ba sư đoàn 316, F.10 và 320 của quân CSBV có pháo binh, phòng không, chiến xa và đặc công vối 3 mũi tiến quân tấn công vào Thị Xã Ban Mê Thuột : Mũi thứ 1 từ phía Tây đánh vào trại Mai Hấc Đế. Mũi thứ 2 đánh vào phi trường Phụng Dực và mũi thứ 3 là mũi chánh và chủ lực đánh vào phi trường L.19 để tiến vào thị xã BMT với mục tiêu là BCH/TK Darlac. Và điểm quan trọng là trước khi mở 3 mũi tấn công thì Cộng Quân đã thực hiện MỘT TRẬN ĐỊA PHÁO với các đại pháo 130 ly, 122 ly và cả hỏa tiển AT3 SAGGER ... rồi sau đó XUNG PHONG TẤN CÔNG BIỂN NGƯỜI CÓ CHIẾN XA YỂM TRỢ.

- Đại Tá Vũ Thế Quang, Tư Lệnh Phó Sư Đoàn 23BB kiêm Tư Lệnh Mặt Trận BMT báo cáo cho Tướng Phú biết : " Từ 2 giờ sáng ngày 20.3.1975, Cộng Quân đã mở TRẬN ĐỊA PHÁO vào BMT. Cộng Quân đã xử dụng đại bác 130 ly, pháo thật chính xác vào nhiều nơi trong đó có BTL/SĐ23BB, sân bay L.19, các kho xăng, kho đạn ... ".

- Tướng Phú ra lệnh cho Đại Tá Quang : " Anh ra lệnh ngay cho các đơn vị trưởng phải sẳn sàng chuẩn bị chiến đấu. Có thể Địch tấn công ngay sau TRẬN MƯA PHÁO ".
- Trên chiến trường BMT, từ ngày khởi đầu (10.3.1975) cho đến ngày kết thúc, lực lượng phòng thủ BMT chỉ có những pháo đội đại bác 105 ly chống trả với Trung Đoàn Pháo Nặng của Cộng Quân gồm những đại bác 130 ly, 122 ly và những súng Phòng Không 37 ly, hỏa tiển SA.7, hỏa tiển AT3 SAGGER.

- Một sự kiện quan trọng được trình báo làm cho Tướng Phú thật lo ngại : " Kho đạn chính của BMT ở trại Mai Hắc Đế đã bị trúng pháo của Cộng Quân ... đã nổ nhiều giờ liên tiếp, đồng thời kho đạn nầy đã bị 1 đơn vị Đặc Công của Cộng Quân xâm nhập và vị Đại Úy Chỉ Huy Trưởng của kho đạn đã bị tử thương ". Và những trận đánh ác liệt vẫn đang tiếp diễn ở BMT.

- Vào lúc 23 giờ đêm ngày 10.3.1975, Tướng Phú ra 1 lệnh chót sau cùng cho Đại Tá Vũ Thế Quang : " Ngay khi các đơn vị tiếp viện có mặt tại BMT phải bằng mọi cách chiếm lại những đơn vị trọng yếu đã bị Cộng Quân chiếm đóng ... quan trọng nhất là kho đạn Mai Hắc Đế và BCH/TK Darlac ... ".

- Liên Đoàn 21 Biệt Động Quân (được tăng viện cho BMT ngày 10.3.1975), Hai trung đoàn 44 và 45BB thuộc Sư Đoàn 23BB được trực thăng vận đổ xuống Phước An trong 2 ngày 12 và 13.3.1975 tăng cường cho BMT và đã anh dũng chiến đấu cho đến ngày 19.3.1975 ... rồi tan hàng ... và ngày nầy được xem như CHIẾN TRƯỜNG BMT ĐÃ CHẤM DỨT và BMT COI NHƯ ĐÃ THẤT THỦ.
* LỰC LƯỢNG CỦA QL/VNCH tại MẶT TRẬN BAN MÊ THUỘT :
- Sư Đoàn 23 Bộ Binh với các trung đoàn 44, 45 và 53BB (trung đoàn 53BB có mặt từ đầu 10.3.75 với 1 tiểu đoàn (+) và BCH/trung đoàn.
- Liên Đoàn 21 Biệt Động Quân.
- Lực Lượng Không Yểm của Sư Đoàn 2KQ và Sư Đoàn 6KQ.
- Thiết Đoàn 8 Kỵ Binh.
- Các đơn vị Pháo Binh 105 ly của Sư Đoàn 23BB.
- Tiểu Khu Darlac với các tiểu đoàn ĐPQ và các trung đội Nghĩa Quân, Cảnh Sát Quốc Gia, Xây Dựng Nông Thôn, Nhân Dân Tự Vệ ...
- Các quân nhân cơ hữu canh gác, phòng thủ các vị trí quân sự tại BMT như kho xăng, kho đạn ...

* LỰC LƯỢNG CỦA QUÂN CSBV tại MẶT TRẬN BAN MÊ THUỘT :
- 4 sư đoàn quân chính quy của CSBV : Sư Đoàn F.10, sư đoàn 320, sư đoàn 316 và sư đoàn 968 tăng cường thêm vào giờ chót.
- 1 trung đoàn Chiến Xa.
- 2 trung đoàn Pháo Binh.
- 1 trung đoàn Phòng Không (37ly + SA.7 + hỏa tiển AT3 SAGGER).
- 1 tiểu đoàn Đặc Công.
- 2 trung đoàn Công Binh.

* CÁC DIỄN BIẾN TỔNG QUÁT của MẶT TRẬN BAN MÊ THUỘT :
- Theo các tin tức Tình Báo Quân Sự thì Cộng Quân sẽ tập trung một quân số thặt lớn để đánh chiếm BMT (3 sư đoàn lúc đầu và sễ tăng cường 1 sư đoàn sau đó), có pháo binh, phòng không, chiến xa, đặc công và công binh yểm trợ. Nhưng Thiếu Tướng Phạm Văn Phú Tư Lệnh QĐ2 & QK2 thì KHÔNG TIN RẰNG CỘNG QUÂN SẼ ĐÁNH BMT mà CQ SẼ ĐÁNH PLEIKU. Vì thế, Tướng Phú ra lệnh tập trung quân ở Pleiku mà ông không lư u tâm đến BMT. Tuy nhiên, Tướng Phú có ra lệnh cho Chuẩn Tướng Lê Trung Tường, tăng cường Pháo Binh loại khẳu pháo 155 ly cho BMT.

- Chuẩn Tướng Tường, Tư Lệnh Sư Đoàn 23BB có ra lệnh kéo pháo 155 ly từ Pheiku về tăng cường cho BMT, nhưng trên đường di chuyển về BMT, đoàn quân kéo pháo đã bị Cộng Quân phục kích chận đánh, một số quân nhân pháo binh bị tử thương, một số bị bắt làm tù binh, tất cả các khẩu pháo 155 ly đều bị Cộng Quân tịch thu.
- Biến cố bị mất Pháo Binh 155ly, Tướng Phú HOÀN TOÀN KHÔNG BIẾT, không được trình báo của các giới chức trách nhiệm liên hệ, đó là Chuẩn Tướng Lê Trung Tường và Đại Tá Lê Khắc Lý, Tham Mư u Trưởng Quân Đoàn 2.

* MẶT TRẬN tại BCH/TIỂU KHU DARLAC :
- Từ 9 giờ 30 phút sáng ngày 10.3.1975, sau CÁC TRẬN ĐỊA PHÁO, các mũi tiến quân của Cộng Quân từ hướng Bắc và hướng Tây Bắc đã tràn vào trung tâm thành phố và tập trung nổ lực tấn công BCH/Tiểu Khu với bộ đội và chiến xa T.54. Lượng trú phòng anh dũng chống trả mãnh liệt, 1 chiếc T.54 bị bắn cháy ... mặc dù với chiến thuận BIỂN NGƯỜI và có đại bác 150 ly trang bị cho chiến xa T.54 bắn trực xạ không ngừng nhưng Cộng Quân vẫn chưa tiến sát được vào hệ thống giao thông hào phòng thủ vì lực lượng trú phòng với đại liên, M.79, M.72, M.16 ... từ các vị trí phòng thủ phản kích tối đa làm cho Cộng Quân phải rút lui và thiệt hại nặng với hàng trăm xác chết tại trận.

- Cộng Quân rút lui và chỉnh đốn lại hàng ngũ ... sau đó mở trận địa pháo và tấn công trở lại và lần nầy mãnh liệt hơn, nhưng quân trú phòng vẫn anh dũng chống trả. Vào lúc 10 giờ 45, 2 chiếc thiết giáp Commando Car bảo vệ BCH/Tiểu Khu đánh bọc hậu vào Công Quân đang công hãm BCH/TK và gây thiệt hại không nhỏ cho Cộng Quân ... nhưng sau đó, 2 thiết giáp nầy đã bị bắn cháy vì B.40, B.41 và hỏa tiển AT3 của Cộng Quân.

- Lực lượng Biệt Động Quân tại Buôn Hô được điều động về tiếp viện cho BCH/TK nhưng bị Cộng Quân chận đánh nên không về được và cũng bị tan hàng. Một lượng thiết giáp và ĐPQ đang hành quân tại Budrang cũng được lệnh trở về tiếp cứu BMT nhưng cũng bị lực lượng Cộng Quân thật đông chận đánh ở phía Nam cách BMT khoảng 10 cây số.

- Tính đến 11 giờ 50, các chiến sĩ anh hùng của TK/Darlac vẫn cố thủ và giao tranh với Cộng Quân ... Rồi Cộng Quân từ 2 mặt Bắc và mặt tiền của BCH/TK đã bám sát được vào hệ thống công sự phòng thủ ... những trận đánh xáp lá cà thật ác liệt đẫm máu xảy ra dọc theo các hệ thống công sự phòng thủ.

- Vào lúc 13 giờ 15 trưa, Trung Tâm Hành Quân của TK/Darlac bị trúng pháo thật nặng, mọi liên lạc truyền tin bị phá hủy và coi như hoàn toàn chấm dứt mọi liên lạc. Và lúc 14 giờ 20 thì BCH/TK Darlac thất thủ sau hơn 7 giờ giao tranh một cách anh dũng mà không có được quân tăng viện tiếp cứu ... Quân trú phòng phải rút lui di tản và sát nhập với quân trú phòng của BTL/Sư Đoàn 23BB. Đại Tá Nguyễn Trọng Luật Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Darlac xem như bị mất tích (sau nầy được biết ông bị Cộng Quân bắt làm Tù Binh trên đường rút lui).

* MẶT TRẬN PHÍA BẮC của THỊ XÃ BAN MÊ THUỘT (những trận đánh oanh liệt của các chiến sĩ thuộc BCH/Cảnh Sát Quốc Gia) :
- Trong kế hoạch phòng thủ Thị Xã BMT của tỉnh, tiểu khu Darlac, Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia tỉnh Darlac là một trong những đơn vị chịu trách nhiệm về 1 khu vực phòng thủ nặng nề nhất, từ nội vi của Thị Xã BMT đến cả một mặt Bắc, bao gồm phi trường trực thăng và phi trường L.19. Phòng thủ phi trường L.19, ngoài một đơn vị ĐPQ, còn có một đơn vị Thám Sát Tỉnh (PRU) trực thuộc BCH/Cảnh Sát Quốc Gia tỉnh Darlac.

- Chỉ Huy Trưởng CSQG tỉnh Darlac là Trung Tá Trần Quang Vĩnh, người chỉ huy và chịu trách nhiệm khu vực phòng thủ nầy. Ông bổ nhiệm Đại Úy Nguyễn Ngọc Tuấn, Đại Đội Trưởng Cảnh Sát Dã Chiến 206 làm Phụ Tá Đặc Trách Hành Quân.

- Vào lúc 2 giờ 20 phút khuya sáng ngày 10.3.1975, Cộng Quân mở TRẬN ĐỊA PHÁO (130ly + 122 ly) ... và đến 4 giờ sáng thì Cộng Quân bắt đầu TẤN CÔNG XUNG PHONG BIỂN NGƯỜI có CHIẾN XA YỂM TRỢ vào phi trường L.19. Đơn vị trú phòng (trong đó có lực lượng Thám Sát Tỉnh) chống trả quyết liệt ... vì quân số Cộng Quân tấn công quá đông, quân trú phòng liên lạc với BCH/TK Darlac xin viện binh nhưng không có được viện binh.

- Vào lúc 6 giờ 20 phút, Cộng Quân tràn ngập khu vực nầy, Lực Lượng Thám Sát Tỉnh rút lui về phía sau và tiếp tục phòng thủ và chiến đấu và bị thiệt hại khá nặng nề vì đạn pháo của Cộng Quân ... Một lúc sau đó thì Cộng Quân mở Trận Địa Pháo rồi tấn công trực tiếp vào BCH/CSQG của tỉnh Darlac ... trong khi đó thì khu vực của Thám Sát Tỉnh đã bị Cộng Quân tràn ngập và giao tranh cận chiến.

- Vào lúc 9 giờ sáng ngày 10.3.1975, các đơn vị CSQG của tỉnh Darlac mặc dù chỉ trang bị súng M.16, M.79 và Lựu đạn nhưng đã anh dũng kiên cường chống lại các cuộc tấn công xung phong biển người của Cộng Quân và không để cho Cộng Quân tiến được sát vào các vị trí giao thông hào phòng thủ.

- Vào lúc 15 giờ 40, Cộng Quân được viện binh ... mở lại cuộc tấn công ác liệt hơn và được các súng hạng nặng và hỏa tiển yểm trở tối đa ... Lần nầy, lực lượng CSQG trú phòng vẫn anh dũng chống trả nhưng bị thiệt hại nặng với nhiều thương vong ... với những vũ khí quá thô sơ so với Địch Quân, e sợ không chịu đựng được những cuộc tấn công kế tiếp, Trung Tá Trần Quang Vĩnh CHT/CSQG tỉnh Darlac ra lệnh cho Thiếu Tá Hà Văn Thành, Chỉ Huy Phó CSQG tỉnh Darlac chỉ huy một đơn vị CSQG mở đường máu cho toàn bộ số quân còn lại rút lui triệt thoái ra khỏi Thị Xã BMT.

- Vào lúc 16 giờ ngày 10.3.1975, Cộng Quân đã làm chủ tình hình tại Thị Xã BMT, ngoại trừ khu vực thuộc BTL/Sư Đoàn 23BB vẫn còn anh dũng chiến đấu chống cự với Cộng Quân.

- Trong gần suốt 14 giồ đồng hồ (từ 2 giờ sáng đến 16 giờ ngày 10.3.1975), các đơn vị quân đội chủ lực quân, Địa Phương Quân, Nghĩa Quân, Cảnh Sát Quốc Gia, Cán Bộ Xây Dựng Nông Thôn, Nhân Dân Tự Vệ và ... của toàn Thị Xã BMT đã tận lực hết sức mình, anh dũng kiên cường chống trả lại sự TẤN CÔNG BIỂN NGƯỜI có PHÁO BINH, PHÒNG KHÔNG, CHIẾN XA và ĐẶC CÔNG YỂM TRỢ ... và đơn vị trú phòng không có được đơn vị tăng viện tiếp cứu.

* Và trong lúc các cuộc giao tranh còn đang tiếp diễn và giữa những giờ phút quyết liệt nầy, các đơn vị trú phòng nhận được tin tức vào lúc 10 giờ 30 phút sáng ngày 10.3.1975 : " Một đơn vị Biệt Động Quân từ cửa Bắc của thị xã đang trên đường xâm nhập vào thị xã tăng viện cho BMT. Tin tức nầy được loan truyền đến hầu hết các đơn vị đang chiến đấu trên khắp các cửa ngỏ của thị xã ... đến mọi người Lính, từ cấp binh sĩ đến các cấp chỉ huy ... tất cả đều hy vọng vui mừng ... tin tưởng cuộc chiến có thể xoay chiều ... ".

- Nhưng cho đến lúc 13 giờ (tức 1 giờ chiều), tin tức về Liên Đoàn 21 Biệt Động Quân tăng viện cho BMT vẫn im hơi lặng tiếng mà quân trú phòng BMT đang ở trong tình trạng thật bi đát và gần như tuyệt vọng ... thì được biết rằng : " Đơn vị Biệt Động Quân đã tiến vào thị xã là chỉ để GIẢI CỨU GIA ĐÌNH VỢ, CON CỦA CHUẨN TƯỚNG LÊ TRUNG TƯỜNG, TƯ LỆNH SƯ ĐOÀN 23 BB RA KHỎI THỊ XÃ BMT ".
- Tin nầy, quả thật là một tác động tâm lý rất đau đớn ... không những làm cho các đơn vị tham chiến phòng thủ, bảo vệ BMT mà cho cả toàn thể quân, dân cán chính của BMT và tỉnh, tiểu khu Darlac ... tự coi như BAN MÊ THUỘT ĐÃ BỊ BỎ RƠI …

* MẶT TRẬN TẠI BỘ TƯ LỆNH SƯ ĐOÀN 23BB và TRUNG ĐOÀN 53BB ở PHI TRƯỜNG PHỤNG DỰC :
- Lực lượng phòng thủ BTL/SĐ23BB gồm 2 đại đội và một số các phòng, ban chuyên môn trong đó có Đại Đội Tổng Hành Dinh, chuyên trách về hành chánh và ẩm thực. Lực lượng chủ yếu là các trung đoàn 44 và 45BB đang hành quân vùng Pleiku. Riêng trung đoàn 53BB, chỉ có 2 tiểu đoàn ở BMT và 1 trung đội pháo binh 105 ly ... nhưng trong đó lại có 1 tiểu đoàn đã được điều động đến tiếp cứu chi khu Đức Lập của tiểu khu Quảng Đức, một chi khu đang bị Cộng Quân tràn ngập ngày 9.3.1975. Tiểu Đoàn còn lại phòng thủ phi trường Phụng Dực, cách Thị Xã BMT khoảng 7 cây số về hướng Đông, Đông Bắc.

- Từ 6 giờ 45 phút sáng ngày 11.3.1975, Cộng Quân đã bố trí xong các lực lượng và thắt chặt vòng vây hậu cứ BTL/SĐ23BB và thực hiện TRẬN MƯA PHÁO bằng đại bác 130 ly, hỏa tiển 122 ly (từ hướng Bandon), dồn dập đổ xuống BTL/SĐ23BB ... đồng thời sau đó, bộ đội có chiến xa T.54 đi kèm, dàn hàng ngang tấn công bốn mặt vòng đai của BTL. Lực lượng trú phòng chống trả mãnh liệt, và đẩy lui được nhiều đợt tấn công và có lúc phải đánh cận chiến với Cộng Quân.

- Vào lúc 10 giờ 20 phút sáng, một phi vụ A.37 của Không Lực VNCH thả bom nhầm vào Trung Tâm Hành Quân của BTL/SĐ23BB. Mọi liên lạc truyền tin với QĐ2 và Bộ TTM/QLVNCH hoàn toàn bị phá hủy và cắt đứt.

- Vào lúc 10 giờ 30 phút sáng, một đoạn hệ thống công sự phòng thủ phía Tây và phía Nam của BTL bị chọc thủng ... Cộng Quân cùng chiến xa tràn vào hậu cứ BTL như nước vở bờ. Đại Tá Vũ Thế Quang, Tư Lệnh Phó Sư Đoàn 23BB ra lệnh cho quân trú phòng còn lại mở đường máu rút lui, triệt thoái ra khỏi căn cứ ... và BTL/SĐ23BB coi như bỏ ngỏ và thất thủ.

- Thị Xã BMT đã hoàn toàn lọt vào tay Cộng Quân từ chiều ngày 10.3.1975 và đơn vị cuối cùng triệt thoái khỏi thị xã BMT vào lúc 10 giờ 30 phút sáng ngày 11.3.1975 là hậu cứ của BTL/SĐ23BB. Nhưng trung đoàn 53BB, phòng thủ phi trường Phụng Dực, nằm cách thị xã BMT khoảng 7 cây số về hướng Đông, Đông Bác vẫn còn cố thủ và anh dũng chiến đấu.

- Cùng lúc tấn công vào thị xã BMT vào lúc 2 giờ khuya sáng ngày 10.3.1975, Cộng Quân cũng tấn công trung đoàn 53BB ở phi trường Phụng Dực. Sau khi thực hiện TRẬN ĐỊA PHÁO thì Cộng Quân có chiến xa đi kèm cũng XUNG PHONG TẤN CÔNG BIỂN NGƯỜI vào các vị trí đóng quân của trung đoàn 53BB (gọi là trung đoàn chứ thực ra, lúc bấy giờ chỉ là 1 tiểu đoàn (+) mà thôi).

- Khi tấn công trung đoàn 53BB thì Cộng Quân cũng vẫn áp dụng chiến thuật TIỀN PHÁO HẬU XUNG và có CHIẾN XA đi kèm. Nhưng quân trú phòng dưới quyền chỉ huy của Trung Tá Võ Ân, trung đoàn trưởng trung đoàn 53BB vẫn anh dững kiên cường chống trả và đẩy lui và gây thiệt hại nặng cho Cộng Quân.

- Một điểm đặc biệt của trung đoàn 53BB là trong 6 ngày đêm chiến đấu, trung đoàn 53BB không những đánh tan nhiều đợt xung phong tấn công biển người của Cộng Quân, gây thương vong cho địch quân mà còn tịch thu các vũ khí của Cộng Quân (vũ khí cá nhân lẫn cộng đồng như B.40, B.4) ... rồi xử dụng vũ khí tịch thu của địch quân bắn cháy các chiến xa của Cộng Quân.

- Từ sáng sớm ngày 10.3.1975 cho đến hết ngày 15.3.1975, trung đoàn 53BB với quân số hơn một tiểu đoàn và pháo đội 105 ly đã anh dũng chiến đấu chống lại một lực lượng Cộng Quân đông hơn gấp chục lần có pháo binh và chiến xa yểm trợ nhưng vẫn giữ vững được phòng tuyến ... buổi chiều ngày 15.3.1975, một phi vụ tiếp tế đạn dược và lương thực cho trung đoàn 53BB đã thả xuống không đúng điểm ấn định mà rơi vào vùng kiểm soát của Cộng Quân ... trong khi đó, trung đoàn 53BB đã cạn kiệt hoàn toàn lương thực và đạn dược...

- Trưa ngày 16.3.1975 : Trung Đoàn 53BB bị pháo và tấn công thật nặng ... liên lạc với QĐ2 hoàn toàn bị cắt đứt. Trung Tá Võ Ân ra lệnh rút lui, triệt thoái ra khỏi phi trường Phụng Dực.

- Hai trung đoàn 44 và 45BB thuộc sư đoàn 23BB được đổ quân xuống tăng viện cho Mặt Tận Ban Mê Thuột ở Phước An ngày 12 và 13 tháng 3 năm 1975 ... và những đơn vị nầy cũng đã anh dũng chiến đấu với Cộng Quân đến ngày 19.3.1975 thì mới tan hàng.

*** GHI NHẬN VỀ SỰ THẤT THỦ của BAN MÊ THUỘT TẠI CHIẾN TRƯỜNG CAO NGUYÊN NAM 1975 :
- Tại Mặt Trận Ban Mê Thuột, quân CSBV tập trung một quân số thật đông (khoảng 40.000 quân), có Pháo Binh, Phòng Không, Chiến Xa, Đặc Công, Công Binh yểm trợ ... trong khi quân trú phòng Ban Mê Thuột (khoảng 4000 quân), chỉ có Pháo Binh 105 ly, Không Lực hổ trợ bị giới hạn và gặp nhiều khó khăn bởi các súng Phòng Không của Địch Quân.
- Cộng Quân với nhiều đợt Tấn Công Xung Phong Biển Người.
- Quân trú phòng Ban Mê Thuột không có viện binh, co cụm, rút lui, triệt thoái và cuối cùng THẤT THỦ.

*** Thị Xã Ban Mê Thuột (tỉnh, tiểu khu Darlac) của Vùng 2 Chiến Thuật, Quân Đoàn 2 & Quân Khu 2 đã THẤT THỦ, cùng CUỘC TRIỆT THOÁI CAO NGUYÊN NĂM 1975 sau đó với NHỮNG THIỆT HẠI được coi là nặng nề nhất về nhân mạng (cả dân lẫn quân), vũ khí, chiến xa, máy bay, chiến cụ ... trong 20 năm chiến tranh Việt Nam (1955-1975).

- Cuộc Triệt Thoái Cao Nguyên năm 1975 cũng đã ảnh hưởng tai hại đến việc mất Huế, Đà Nẵng ... và các phần đất khác của Việt Nam Cộng Hòa, làm sụp đổ tinh thần chiến đấu và củng làm tan rã Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa ... và MẤT MIỀN NAM VIỆT NAM VÀO TAY CỘNG SẢN BẮC VIỆT.

*** Năm 1954, tại CHIẾN TRƯỜNG ĐIỆN BIÊN PHỦ, Đại Úy Phạm Văn Phú, Tiểu Đoàn Phó Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù Việt Nam (trong Quân Đội Liên Hiệp Pháp), Ông đã chứng kiến và chịu đựng các TRẬN ĐỊA PHÁO và các CUỘC TẤN CÔNG XUNG PHONG BIỂN NGƯỜI của QUÂN CỘNG SẢN BẮC VIỆT ... và Ông đã biết QUÂN PHÁP ĐÃ THẤT BẠI TẠI TRẬN ĐIỆN BIÊN PHỦ VÌ TIỀN PHÁO HẬU XUNG và QUÂN TẤN CÔNG ĐÔNG HƠN QUÂN TRÚ PHÒNG GẤP NHIỀU LẦN.

- Ngày hôm nay, 21 năm sau, năm 1975 tại MẶT TRẬN BAN MÊ THUỘT , Thiếu Tướng Phạm Văn Phú là Tư Lệnh Chiến Trường của Mặt Trận nầy ... quân tấn công chính là QUÂN CỘNG SẢN BẮC VIỆT, cũng ĐÔNG HƠN QUÂN TRÚ PHÒNG BAN MÊ THUỘT GẤP NHIỀU LẦN ... rồi cũng áp dụng chiến thuật TIỀN PHÁO HẬU XUNG ... và BAN MÊ THUỘT ĐÃ THẤT THỦ.

- Năm 1954, Điện Biên Phủ thất thủ, Đại Úy Phạm Văn Phú đã trở thành MỘT TÙ BINH.
- Năm 1975, Ban Mê Thuột thất thủ, Thiếu Tướng Phạm Văn Phú đã trở thành ... ... ???

( Trong quyển sách " CUỘC TRIỆT THOÁI CAO NGUYÊN 1975 của tác giả Phạm Huấn, bìa sau của quyển sách có viết một câu sau đây : NGƯỜI THẤT BẠI ANH HÙNG PHẠM VĂN PHÚ TỰ GIẾT ĐỂ ĐƯỢC CHẾT VỚI LƯƠNG TÂM THANH THẢN, ĐỂ GIỮ ĐƯỢC TIẾT THÁO VÀ TINH THẦN TRÁCH NHIỆM CỦA MỘT TƯỚNG LÃNH. Nguyễn Đông Thành ).

- Thị Xã Ban Mê Thuột hoàn toàn thất thủ vào chiều ngày 16.3.1975. Mặt Trận BMT chấm dứt vào ngày 19.3.1975 ... rồi CUỘC TRIỆT THOÁI CAO NGUYÊN của Quân Đoàn 2 & Quân Khu 2 (từ ngày 17 đến 25 .3.1975) ... Pleiku, Kontum bỏ ngỏ, không xảy ra những TRẬN ĐÁNH LỚN NÀO mà chỉ VỪA ĐÁNH VỪA LUI QUÂN là LIÊN TỈNH LỘ 7 đã trở thành CON LỘ MÁU bị Cộng Quân pháo kích, phục kích, chận đánh, tấn công và CON SỐ THƯƠNG VONG CỦA CẢ QUÂN LẪN DÂN đến mức Khổng Lồ không kể xiết ... kéo theo Cuộc Triệt Thoái Lui Quân của Quân Đoàn 1, của các phần đất còn lại của VNCH ...rồi Mặt Trận Khánh Dương (từ ngày 19.3 đến ngày 2.4.1975), Mặt Trận Phan Rang (từ ngày 1 đến 17.4.1975), Mặt Trận Xuân Lộc, Long Khánh (từ ngày 9 đến 21.4.1975) ... Cộng Quân vẫn luôn luôn áp dụng chiến thuật : " Tập trung Quân Số Thật Đông (cấp sư đoàn trở lên), mở các Trận Địa Pháo có Phòng Không bảo vệ, có Đài Quan Sát Pháo Binh chỉ điểm mục tiêu rồi Xung Phong Tấn Công Biển Người có Chiến Xa và Đặc Công yểm trợ đi kèm ... QL/VNCH với những đơn vị cố định, nhỏ bé, ít quân trú phòng, không chịu đựng nổi các cuộc ĐẠI PHÁO và TẤN CÔNG BIỂN NGƯỜI .. trở nên rối loạn, co cụm, lui quân và thất thủ ... Trên khắp chiến trường, các đơn vị của QL/VNCH đã kiên cường anh dũng chiến đấu ... nhưng ngày 30 tháng 4 năm 1975 thì miền Nam Việt Nam đã HOÀN TOÀN LỌT VÀO TAY CỘNG SẢN BẮC VIỆT.

Xin phép được đưa ra KẾT QUẢ của 3 trận đánh và tìm ra những NHẬN ĐỊNH QUÝ BÁU của các kết quả nầy :

* TRẬN ĐÁNH CỦA TRẠI BIỆT KÍCH QUÂN BIÊN PHÒNG KATUM VÀO CUỐI NĂM 1968 :
-Trại BKQ/Biên Phòng Katum thuộc lãnh thổ tỉnh Tây Ninh có 5 đại đội dưới quyến chỉ huy huy của Trung Úy Nguyễn Minh Đường (1 đại đội BKQ có 144 người, như vậy Trại BKQ Katum có 720 quân).
- Cuối năm 1968, quân CSBV tập trung 2 trung đoàn quân chính quy (quân số khoảng 5000 người), có pháo binh, phòng không và các đài quan sát pháo binh yểm trợ, từ Cam-Bốt vượt biên giới Việt-Miên tấn công Biển Người vào trại BKQ/Katum.
- BKQ/Katum thuộc Binh Chủng Lực Lượng Đặc Biệt ... với lối đánh chia quân TRONG và NGOÀI ... bên trong phòng thủ với 2 đại đội, bên ngoài có 3 đại đội chia thành từng Toán Nhỏ và đánh Phục Kích, Đột Kích và Du kích vào ban đêm theo chiến thuật truyền thống Bất Ngờ, Nhanh Gọn và Lựu Đạn Tấn Công của BC/LLĐB.
- Khi chiến trận vừa bùng nổ, sau đợt pháo kích đầu tiên của Cộng Quân ... lúc Cộng Quân vừa có mặt ở vòng rào phòng thủ để chuẩn bị tấn công thì cũng là lúc các Toán BKQ ngoài trại " Bắn Tỉa " tiêu diệt ngay các đài quan sát pháo binh, các Toán BKQ Đột Kích dùng lựu đạn để " Bịt Miệng, Khớp Họng " ngay các khẩu pháo và làm " Nổ Tan Xác " các lực lượng Phòng Không của Cộng Quân.
- Với 5 đại đội BKQ trong ngoài của Trại Katum và 2 đại đội BKQ của Trại Thiện Ngôn tăng viện, anh dũng với súng đạn trên tay cùng sự yểm trợ Không Quân và Pháo Binh của quân ta đã làm cho 2 trung đoàn Cộng Quân trở thành NHỮNG CON THIÊU THÂN TAN XÁC trên chiến trường.
* Xin được kết luận : Tiêu diệt được Pháo Binh, Phòng Không và Đài Quan Sát Pháo Binh của Cộng Quân thì Đoàn Quân Tấn Công Biển Người ... chỉ đón nhận Cái Chết trước họng súng chiến đấu can trường của quân trú phòng mà thôi.

2). TRẬN ĐÁNH PHƯỚC LONG (tháng 12 năm 1974) : Lúc nầy quân CSBV đã áp dụng CHIẾN TRANH QUY ƯỚC và đánh cấp Sư Đoàn trở lên, có Pháo Binh, Phòng Không, Đài Quan Sát Pháo Binh và Chiến Xa, Đặc Công yểm trợ ... và lúc nầy Hiệp Đinh Paris về Việt Nam đã được ký kết (27.1.173), cho nên quân đội Đồng Minh Hoa Kỳ không còn yểm trợ về KHÔNG QUÂN cho QL/VNCH.
- Cộng Quân với 2 sư đoàn mang số 3 và 7 cùng 2 trung đoàn biệt lập, 2 trung đoàn pháo binh, phòng không và các đài quan sát pháo binh, quân số tổng cộng tương đương với 3 sư đoàn (tức khoảng 30.000 quân), tấn công Biển Người vào Phước Long (quân trú phòng khoảng 5000 người và 4 pháo đội pháo binh với 24 khẩu pháo).
- Có chiến xa yểm trợ đánh vào Phước Long và Phước Long thất thủ.
* Xin được kết luận : Các TRẬN ĐỊA PHÁO của Cộng Quân tự do hoạt động, quân trú phòng bị áp đảo và đè bẹp ngay từ đầu. Các súng Phòng Không của Cộng Quân bắn lên vòm trời Phước Long như đan lưới, Không Lực VNCH hoàn toàn bị vô hiệu và bất lực trong việc yểm trợ cho quân trú phòng cũng như bị hạn chế hoàn toàn trong việc tiêu diệt các TRẬN ĐỊA PHÁO của Cộng Quân.

3). MẶT TRẬN BAN MÊ THUỘT (vào tháng 3 năm 1975) : Cũng cùng số phận như Phước Long với hơn 4000 quân trú phòng và 12 khẩu pháo 105 ly, chống trả với 4 sư đoàn CSBV có Pháo Binh (TRẬN ĐỊA PHÁO), Phòng Không, Đài Quan Sát Pháo Binh cùng hàng trăm Chiến Xa xung phong tấn công BIỂN NGƯỜI vào Ban Mê Thuột ... và Thị Xã Ban Mê Thuột bị thất thủ.
* Xin được kết luận : TRẬN ĐỊA PHÁO của Cộng Quân là YẾU TỐ QUAN TRỌNG và CHÍNH làm cho Ban Mê Thuột THẤT THỦ.

*** KẾT LUẬN CUỐI CÙNG QUA 3 TRẬN ĐÁNH : " Yếu tố quân số đông đảo, hùng hậu tấn công BIỂN NGƯỜI (kể cả việc có Chiến Xa và Đặc Công đi kèm), KHÔNG PHẢI LÀ YẾU TỐ ĐƯA ĐẾN CHIẾN THẮNG cho Cộng Quân mà chính là các TRẬN ĐỊA PHÁO của Cộng Quân đã QUYẾT ĐỊNH CHIẾN THẮNG trên chiến trường dành cho Cộng Quân. Nếu QL/VNCH có phương thức và biện pháp TIÊU DIỆT ĐƯỢC CÁC TRẬN ĐỊA PHÁO, PHÒNG KHÔNG và ĐÀI QUAN SÁT PHÁO BINH của Cộng Quân (như trường hợp các Biệt Kích Quân của Trại Katum thuộc BC/Lực Lượng Đặc Biệt/C.3 QL/VNCH) đã làm ... thì đoàn quân tấn công BIỂN NGƯỜI của Cộng Quân chỉ là NHỮNG CON THIÊU THÂN TỰ SÁT trước những họng súng anh dũng kiên cường của QL/VNCH.

* Bắt đầu từ tháng 2 năm 1974, Bộ Chính Trị Đảng Cộng Sản Việt Nam đã ra lệnh cho quân CSBV và tay sai ở Chiến Trường Miền Nam VN " Đưa Chiến Trường đến hình thức CHIẾN TRANH QUY ƯỚC ", trong khi toàn bộ các đại đơn vị của QL/VNCH, kể cả 2 đơn vị Tổng Trừ Bị là Nhảy Dù và Thủy Quân Lục Chiến đều bị CẦM CHÂN TRONG HỆ THỐNG PHÒNG THỦ DIỆN ĐỊA NHƯ CÁC ĐƠN VỊ ĐỊA PHƯƠNG QUÂN ... chưa có một đơn vị nào đủ KHẢ NĂNG CƠ ĐỘNG để sẳn sàng ứng phó với một cuộc chiến Quy Ước.

* Cuộc Chiến Quy Ước mà Cộng Quân thực hiện là : " Tập trung quân số đông đảo (cấp sư đoàn), xử dụng Các Trận Địa Pháo, có Phòng Không bảo vệ và Đài Quan Sát Pháo Binh chỉ điểm mục tiêu ... rồi Tấn Công Xung Phong Biển Người vào các đơn vị cố định, lẻ tẻ, ít quân của QL/VNCH mà trong đó CÁC TRẬN ĐỊA PHÁO là Đáp Số của Bài Toán, là Con Chủ Bài của CHIẾN THẮNG ".

* Vậy mà, các cấp LÃNH ĐẠO QUỐC GIA, các TƯỚNG LÃNH QUÂN SỰ CAO CẤP của VNCH không tìm hiểu, phân tích, ước tính ĐỂ TÌM RA KẾ HOẠCH DÀI HẠN ĐỐI PHÓ ... mà lại ra lệnh cho QL/VNCH tiếp tục CHIẾN THUẬT THỤ ĐỘNG, PHÒNG THỦ GIỮ ĐẤT, GIỮ DÂN ... hoàn toàn KHÔNG CƠ ĐỘNG CHO PHÙ HỢP THEO NHU CẦU CHIẾN TRƯỜNG ... cứ để cho BỊ BAO VÂY, LUI BINH và THẤT THỦ.

* Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã không có được NHỮNG BAN THAM MƯU TÀI GIỎI, không có được NHỮNG VỊ TƯỚNG LÃNH CÓ NHỮNG BỘ ÓC CHIẾN LƯỢC GIA để ĐỐI PHÓ VỚI CUỘC CHIẾN QUY ƯỚC mà Quân CSBV bày ra. Các trận đánh của Trại BKQ Katum cuối năm 1968, của Phước Long cuối năm 1974 và của Ban Mê Thuột tháng 3 năm 1975 ... chính là những ĐÁP SỐ THẮNG, BẠI của cuộc chiến VN ... và ngày 30 tháng 4 năm 1975 chính là NHỮNG CON SỐ ĐAU THƯƠNG của Bài Toán đó dành cho số phận nghiệt ngã, oan khiên của miền Nam VN ...

* Vì cái hậu quả đau khổ, oan khiên, nghiệt ngã của Chiến Tranh Quy Ước mà QL/VNCH với hơn 1 triệu quân gồm Hải, Lục, Không Quân ... đã anh dũng kiên cường chiến đấu, đặc biệt là những chiến sĩ trên chiến trường, trực tiếp cầm súng ngày đêm chống chọi với quân thù, đem xương máu, lòng quả cảm trong sứ mạng BẢO QUỐC AN DÂN ... nhưng ... nhưng than ơi !!! ... tại Chi Khu Đức Lập (thuộc tiểu khu Quảng Đức), ngày 9.3.1975, gần 1000 quân trú phòng và 2 khẩu pháo 105 ly dưới quyền chỉ huy của Trung Tá Nguyễn Cao Vực (quận trưởng kiêm chi khu trưởng) phải đương đầu với 1 sư đoàn Cộng Quân (sư đoàn F.10) có Pháo Binh, Chiến Xa yểm trợ với hơn 10 ngàn quân tấn công xung phong biển người sau TRẬN ĐỊA PHÁO ... cuối cùng 2 khẩu pháo 105 ly của chi khu phải bắn trực xạ ... chi khu Đức Lập nằm trong biển lửa và thất thủ ... Người Hùng Nguyễn Cao Vực phải " mang đầu máu " (xin lỗi, đây là sự thật, vì lúc bấy giờ Trung Tá Vực bị thương nặng ở Đầu và Tay), rút lui, triệt thoái ...

* Cuối năm 1974, Tỉnh, Tiểu Khu Phước Long với quân trú phòng khoảng hơn 5000 quân và 24 khẩu pháo binh dưới quyền chỉ huy của Đại Tá Nguyễn Thống Thành ... và 30.000 dân cư ngụ mà đa số là người Thượng thuộc 2 sắc tộc Stiêng và Mnong cùng một số người Kinh (cư ngụ ở quận Phước Bình) ... đã chống chọi với cuộc tấn công Biển Người có Đại Pháo, Chiến Xa và các trung đoàn biệt lập, quân số khoảng 30 ngàn quân ... tiểu khu Phước Long đã THẤT THỦ.
- Đại Tá Nguyễn Thống Thành, Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng và Thiếu Tá Quận Trưởng kiêm Chi Khu Trưởng được ghi nhận là tử thương và mất tích ... 850 người trong số hơn 5000 người của quân trú phòng sống sót trốn thoát khỏi các vị trí đóng quân của Phước Long, đa số các viên chức hành chánh, cảnh sát quốc gia, cán bộ Xăy Dựng Nông Thôn ... quân nhân bị kẹt lại và bị bắt đã bị Cộng Quân tàn sát, hành quyết dã man ... chỉ có 3000 dân trong số 30 ngàn dân của Phước Long vượt thoát được vòng vây của Cộng Quân, hàng chục ngàn người còn lại đã chôn vùi thân xác dưới các TRẬN ĐẠI PHÁO của Cộng Quân ... 121 quân nhân còn sống sót trong số gần 500 quân của 2 Biệt Đội thuộc Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù ...

* Và đặc biệt, và thật đau khổ tang thương ... Xin lỗi phải được ghi rằng : Với sự suy tính và ước tính SAI LẦM của " Người Hùng Nhảy Dù của Chiến Trường Điện Biên Phủ, Đại Úy Phạm Văn Phú năm 1954 " ... tại Thị Xã Ban Mê Thuột ngày 10.3.1975, Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, Tư Lệnh Quân Đoàn 2 & QK2, Tư Lệnh Chiến Trường Cao Nguyên, trong đó có BMT ... quân trú phòng với hơn 4000 người, 12 khẩu pháo binh 105 ly đã bị 4 sư đoàn Cộng Quân tấn công Biển Người có Pháo Binh, Chiến Xa và Đặc Công yểm trợ ... và Thị Xã Ban Mê Thuột đã THẤT THỦ .

- Người Hùng Mũ Đen, Đại Tá Nguyễn Trọng Luật, Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Darlac (trong đó có BMT) và Đại Tá Vũ Thế Quang, Người Hùng Mũ Đỏ (đàn em của Tướng Phú), Tư Lệnh Phó sư đoàn 23BB kiêm Tư Lệnh Mặt Trận BMT, cùng một số nhỏ đồng đội sống sót ... tháo lui, triệt thoái và bị bắt làm Tù Binh.
- Theo tin tức Tình Báo thì Cộng Quân sẽ tập trung một số quân thật to để đánh chiếm BMT, nhưng Tướng Phú thì nghĩ rằng Cộng Quân sẽ đánh Pleiku, cho nên BMT đã không được tăng quân phòng thủ từ đầu và không được sự quan tâm đúng mức về quân sự của BTL/QĐ2 và của Tướng Phú.

*** LỜI KẾT LUẬN SAU CÙNG :
Kính thưa quý vị và kính thưa quý chiến hữu.
- Đoàn quân xâm lăng Cộng Sản Bắc Việt với chiến thuật " TIỀN PHÁO HẬU XUNG và CÔNG ĐỒN ĐẢ VIỆN " (Đại Pháo, Trận Địa Pháo và Xung Phong Biển Người), và tập trung quân tấn công thật đông đảo, hùng hậu (từ cấp sư đoàn) theo hình thức CHIẾN TRANH QUY ƯỚC.
- Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa thì " DI TẢN CHIẾN THUẬT " và co cụm, lui binh trong hỗn loạn, rồi mất đất, mất dân ... và THẤT THỦ.
- Nếu như chúng ta (QL/VNCH) có được những Kế Hoạch, Phương Thức để TIÊU DIỆT các lực lượng PHÁO BINH, các lực lượng PHÒNG KHÔNG, các ĐÀI QUAN SÁT PHÁO BINH của quân Cộng Sản Bắc Việt ... thì những Đạo Quân Tấn Công Xung Phong Biển Người của quân Cộng Sản Bắc Việt sẽ là " NHỮNG CON THIÊU THÂN COI NHƯ TỰ SÁT " trước những họng súng anh dũng oai hùng của các chiến sĩ QL/VNCH.
- Nếu Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa làm chủ và chiến thắng trên mọi chiến trường trên toàn lãnh thổ của miền Nam Việt Nam thì tại Thủ Đô Sài-Gòn, chắc chắn " SẼ KHÔNG CÓ ÔNG DƯƠNG VĂN MINH VỚI LỜI TUYÊN BỐ ĐẦU HÀNG CỘNG SẢN BẮC VIỆT ".
- Miền Nam Việt Nam, Việt Nam Cộng Hòa ... Quân, Dân, Cán Chính Việt Nam Cộng Hòa nói chung, và Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa nói riêng ... Đúng ra, đã có được " MỘT CHIẾN THẮNG TRONG VINH QUANG ANH HÙNG, NHƯNG TIẾC THAY ... MỘT CUỘC CHIẾN THẮNG ĐÃ BỊ BỎ LỠ ". Than ơi ! Than ơi ! Đau Khổ ! Buồn ! Buồn ! và Tiếc lắm thay !!!

* Xin có được " MỘT NÉN HƯƠNG TƯỞNG NIỆM, MỘT LỜI VINH DANH, TRI ÂN VÀ TẤM LÒNG THƯƠNG TIẾC DÀNH CHO TẤT CẢ NHỮNG NGƯỜI VIỆT NAM ĐÃ CHẾT, ĐÃ ANH DŨNG HY SINH, ĐÃ VỊ QUỐC VONG THÂN CHO VIỆT NAM CỘNG HÒA TRONG CUỘC CHIẾN VỪA QUA ".

- Bài viết nầy được thực hiện qua những suy nghĩ và nhận định CHỦ QUAN và CÁ NHÂN của chúng tôi trên Phương Diện Quân Sự ... có thể có những khiếm khuyết sai sót ... mong sự chỉ giáo và sự cảm thông của tất cả mọi quý vị và quý chiến hữu.
- Các Tài Liệu liên quan đến Quân Sự của bài viết, chúng tôi tra cứu, tham khảo, sưu tầm qua nhiều nguồn sử liệu khác nhau (trên các mạng internet, các bài viết, các sách, báo có liên quan đến Quân Sử Việt Nam, các tác giả của các bài viết, các sách, báo, các cơ quan truyền thông báo chí ...). Chúng tôi xin được cám ơn chung và xin lỗi đến với tất cả các tác giả có các Sử Liệu Việt Nam mà chúng tôi đã xử dụng cho bài viết nầy.
Trân trọng kính chào.
Ba-Lê, ngày 1 tháng 4 năm 2021.
Nguyễn Vân Xuyên và Trần Trung Quân.

*TB : Bài viết nầy được tham khảo, tra cứu, sưu tầm qua nhiều tài liệu từ các nguồn sử liệu khác nhau, chúng tôi nghĩ rằng : chắc chắn sẽ có những khiếm khuyết sai sót về tên, họ, cấp bậc, đơn vị, ngày tháng năm, số liệu và số lượng. Mong sự chỉ giáo, bổ túc và cảm thông của tất cả mọi quý vị.
Chân thành cám ơn.

***** PHẦN PHỤ CHÚ ĐẶC BIỆT : (vì sự giới hạn của Phần Phụ Chú, chúng tôi xin phép " không đề cập đến Không Quân, Hải Quân, các đơn vị Diện Địa (ĐPQ + NQ ), các đơn vị Tổng Trừ Bị (Nhảy Dù + Thủy Quân Lục Chiến + Liên Đoàn 81 BCND), các đơn vị Yểm Trợ Chuyên Môn mà chỉ xin phép đề cập một cách Tổng Quát về các đơn vị Yểm Trợ Trực Tiếp Chiến Đấu như Pháo Binh và Thiết Giáp). Và Phần Phụ Chú nầy chắc chắn không tránh khỏi những khiếm khuyết, sai sót ... Mong sự chỉ giáo, bổ túc sửa chữa của quý vị và quý chiến hữu. Chân thành Cám Ơn.

- Quân Lực VNCH luôn luôn duy trì quân số 1 triệu quân và quân số nầy được kể chung Hải, Lục, Không Quân ... các đơn vị trực tiếp chiến đấu và kể cả những đơn vị yểm trợ chuyên môn kỹ thuật và yểm trợ chiến đấu ...
- Về quân số tác chiến tổng quát cho 1 đơn vị bộ binh như sau :
* 1 Tiểu Đội có 11 người (kể cả Tiểu Đội Trưởng và Tiểu Đội Phó)
* 1 trung Đội có 36 người với 3 tiểu đội tác chiến (33 người) và 1 Ban Chỉ Huy 3 người gồm : Trung Đội Trưởng, Trung Đội Phó và 1 Âm Thoại Viên.
* 1 Đại Đội gồm có 148 người với 3 trung đội tác chiến và 1 trung đội vũ khí nặng (36X4 : 144 người) và 1 bộ chỉ huy có 4 người gồm : Đại Đội Trưởng, Đại Đội Phó và 2 Âm Thoại Viên.
* 1 Tiểu Đoàn Bộ Binh có 5 đại đội (4 đại đội tác chiến + 1 đại đội chỉ huy yểm trợ + 1 trung đội thám báo) và Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn (có Tiểu Đoàn Trưởng, Tiểu Đoàn Phó và các Sĩ Quan và Hạ Sĩ Quan, Binh Sĩ thuộc các Ban của Tiểu Đoàn và một bộ phận Hậu Cứ của Tiểu Đoàn. Quân số lý thuyết của một Tiểu Đoán Bộ Binh là 790 người. Các đơn vị Tổng Trừ Bị (ND + TQLC+LĐ/81BCND) quân số có thể nhiều hơn (khoảng 850 đến 900 người).
* 1 Trung Đoàn BB có 3 tiểu đoàn tác chiến + 1 đại đội chỉ huy công vụ + 1 đại đội trinh sát + 1 Bộ Chỉ Huy. Tổng cộng quân số của 1 Trung Đoàn Bộ Binh là 3000 người.
* 1 Sư Đoàn Bộ Binh có 1 Bộ Tư Lệnh với các đơn vị trực thuộc + 3 Trung Đoàn BB Tác Chiến + 1 Đại Đội Trinh Sát + Các Đơn Vị Yểm Trợ (Quân Y, Công Binh, Truyền Tin ...) và có 4 Tiểu Đoàn Pháo Binh và được tăng phái 1 Thiết Đoàn Kỵ Binh. Quân số của 1 Sư Đoàn Bộ Binh khoảng từ 10 đến 12 ngàn người.

*** Thiết Giáp : Theo căn bản 1 Chi Đội có 5 chiếc thiết giáp.
* 1 Chi Đoàn Kỵ Binh gồm có :
- 1 BCH với 1 phân đội chỉ huy (2TVX/M.113 + 1TVX/M.125) + 1 chi đội yểm trợ (4TVM/M.113 có trang bị Súng Cối).
- 3 Chi Đội Tác Chiến : (15 chiếc M.113 x 3 : 15 chiếc M.113)
- Tổng cộng 1 Chi Đoàn Kỵ Binh có 22 chiếc TVX/M.113.
* 1 Chi Đoàn Chiến Xa có 17 Chiến Xa (M.41 và M.48).


* 1 Thiết Đoàn Kỵ Binh gồm có :
- Bộ Chỉ Huy : 2TVX/M.113 + 2TVX/M.577 + 1TVX/M.578 Cần Trục + 1TVX/M.132 Phun Lửa + 1TVX/Súng Cối 106 ly + 2 Thám Xa V.100
- 2 Chi Đoàn Kỵ Binh (22 chiếc x 2 : 44 chiếc).
- 1 Chi Đoàn Chiến Xa M.41 (17 chiếc).
- Tổng Cộng 1 Thiết Đoàn Kỵ Binh (QĐ1, QĐ2, QĐ3) gồm có 70 chiếc thiết giáp.
- Riêng Quân Đoàn 4 không xử dụng Chiến Xa và mỗi Thiết Đoàn Kỵ Binh ở QĐ4 có 75 chiếc M.113.
* Thiết Đoàn Chiến Xa có 60 chiến xa M.48.

* Quân Đoàn 1 :
- Lữ Đoàn 1 Kỵ Binh : 2 Thiết Đoàn : - Thiết Đoàn 17KB : 7O TG (51 TVX/M.113 + 17 Chiến Xa M.41 + 2 Commando Car/V.100).
- Thiết Đoàn 2O Chiến Xa : 60 Chiến Xa M.48.
- Sư Đoàn 1 Bộ Binh : Thiết Đoàn 7 KB : 7O TG (51 M.113 + 17 Chiến Xa M.41 + 2 V.100).
- Sư Đoàn 2 BB : Thiết Đoàn 4 KB : 70 TG (51 TVX/M.113 + 17 Chiến Xa M.41 + 2V.1000).
- Sư Đoàn 3 BB : Thiết Đoàn 11 KB : 70 TG (51TVX/M.113 + 17 Chiến Xa M.41 + 2 V.1000).
- Tổng Cộng : 34O Thiết Giáp (204 TVX/M.113 + 68 Chiến Xa M.41 + 60 Chiến Xa M.48 + 8 Commmando Car V.100).


* Quân Đoàn 2 :
- Lữ Đoàn 2 Kỵ Binh : 3 Thiết Đoàn : - Thiết Đoàn 3 KB : 70 TG (51 TVX/M.113 + 17 CX/M.41 + 2 V.100).
- Thiết Đoàn 19 KB : 70 TG (51 TVX/M.113 + 17 CX/M.41 + 2 V.100).
- Thiết Đoàn 21 CX : 60 CX/M.48.
- Sư Đoàn 22 BB : Thiết Đoàn 14 KB : 70 TG (51 TVX/M.113 + 17 CX/M.41 + 2 V.100).
- Sư Đoàn 23 BB : Thiết Đoàn 8 KB : 70 TG (51 TVX/M.113 + 17 CX/M.41 + 2 V.100).
- Tổng Cộng : 340 Thiết Giáp (204 TVX/M.113 + 68 Chiến Xa M.41 + 60 Chiến Xa M.48 + 8 Commando Car V.100).

* Quân Đoàn 3 :
- Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh : 3 Thiết Đoàn : - Thiết Đoàn 15 KB : 70 TG (51 TVX/M.113 + 17 CX/M.41 + 2 V.100).
- Thiết Đoàn 18 KB : 70 TG (51 TVX/M.113 + 17 CX/M.41 + 2 V.100).
- Thiết Đoàn 22 CX : 60 CX/M.48.
- Sư Đoàn 5 BB : Thiết Đoàn 1 KB : 70 TG (51 TVX/M.113 + 17 CX/M.41 + 2 V.100).
- Sư Đoàn 18 BB : Thiết Đoàn 5 KB : 70 TG (51 TVX/M.113 + 17 CX/M.41 + 2 V.100).
- Sư Đoàn 25 BB : Thiết Đoàn 10 KB : 70 TG (51 TVX/M.113 + 17 CX/M.41 + 2 V.100).
- Tổng Cộng : 410 Thiết Giáp (255 TVX/M.113 + 85 CX/M.41 + 60 CX/M.48 + 10 V.100).

* Quân Đoàn 4 :
- Lữ Đoàn 4 Kỵ Binh : 2 Thiết Đoàn : - Thiết Đoàn 12 KB : 75 TG (73 TVX/M.113 + 2 V.100).
- Thiết Đoàn 16 KB : 75 TG (73 TVX/M.113 + 2 V.100).
- Sư Đoàn 7 BB : Thiết Đoàn 6 KB : 75 TG (73 TVX/M.113 + 2 V.100).
- Sư Đoàn 9 BB : Thiết Đoàn 2 KB : 75 TG (73 TVX/M.113 + 2 V.100).
- Sư Đoàn 21 BB : Thiết Đoàn 9 KB : 75 TG (73 TVX/M.113 + 2 V.100).
- Tổng Cộng : 375 Thiết Giáp ( 365 TVX/M.113 + 10 Commando Car V.100).

* Biệt Khu Thủ Đô :
- 2 Thiết Đoàn Kỵ Binh : - Thiết Đoàn A/KB : 70 TG (51 TVX/M.113 + 17 CX/M.41 + 2 V.100).
- Thiết Đoàn B/KB : 70 TG ((& TVX/M.113 + 17 CX/M.41 + 2 V.100).
- 2 Thiết Đoàn Chiến Xa : - Thiết Đoàn C/CX : 60 CX/M.48.
- Thiết Đoàn D/CX : 60 CX/M.48.
- Tổng Cộng : 260 Thiết Giáp (102 TVX/M.113 + 12O CX/M.48 + 34 CX/M.41 + 4 Commando Car V.100).

* Thiết Giáp Diện Địa của 44 Tiểu Khu : Mỗi tiểu khu có 1 Chi Đội (5 xe) Commmando Car. Như vậy có : 44 x 5 : 220 V.100.

Tổng số Thiết Giáp các loại của QL/VNCH :
1925 Thiết Giáp (1130 TVX/M.113 + 300 CX/M.48 + 255 CX/M.41 + 260 V.100).
*************************************************************************
*** Pháo Binh :
- Theo căn bản : 1 Trung Đội có 2 khẩu pháo & 1 Pháo Đội có 3 trung đội tức có 6 khẩu pháo & 1 Tiểu Đoàn có 1 Pháo Đội Chỉ Huy và 3 Pháo Đội Tác Xạ (6 khẩu x 4),
tức là có 24 khẩu pháo.

- 1 Sư Đoàn Bộ Binh có 4 Tiểu Đoàn Pháo Binh : 3 Tiểu Đoàn 105 ly và 1 Tiểu Đoàn 155 ly, tức là có 96 khẩu pháo ( 72 khẩu 105 ly và 24 khẩu 155 ly).

- 2 Sư Đoàn Tổng Trừ Bị (Nhảy Dù và Thủy Quân Lục Chiến), mỗi sư đoàn có 4 Tiểu Đoàn Pháo Binh 105 ly, tức là mỗi sư đoàn có 96 khẩu pháo 105 ly.

- Pháo Binh Diện Địa dành cho các Tiểu Khu và Chi Khu là loại Pháo Binh 105 ly : Mỗi Chi Khu có 1 trung đội pháo binh tức là có 2 khẩu pháo 105 ly và tại BCH của Tiểu Khu có 1 pháo đội 155 ly để yểm trợ tổng quát thêm cho các chi khu trong vùng trách nhiệm và yểm trợ trực tiếp cho các Tiểu Đoàn Địa Phương Quân trực thuộc Tiểu Khu. QL/VNCH có 44 tiểu khu và 254 chi khu. Như vậy, số khẩu pháo của Pháo Binh Diện Địa có được : 44 tiểu khu x 6 khẩu : 264 khẩu + 254 chi khu x 2 khẩu : 508 khẩu ... Tổng cộng : 772 khẩu pháo 105 ly.

* Quân Đoàn 1 & Quân Khu 1 :
- Tại Bộ Tư Lệnh QĐ & QK : Có 5 Tiểu Đoàn Pháo Binh : 1 TĐ/105 ly + 1 TĐ/155 ly + 2 TĐ/175 ly + 1TĐ/Phòng Không.
- Sư Đoàn 1 BB : 3 TĐ/105 ly + 1 TĐ/155 ly.
- Sư Đoàn 2 BB : 3 TĐ/105 ly + 1 TĐ/155 ly.
- Sư Đoàn 3 BB : 3 TĐ/105 ly + 1 TĐ/ 155 ly
- Tổng Cộng : 10 TĐ/105 ly + 4 TĐ/155 ly + 2 TĐ/175 ly + 1 TĐ/Phòng Không, tức là có : 240 khẩu pháo 105 ly + 96 khẩu pháo 155 ly + 48 khẩu pháo 175 ly + 24 khẩu pháo Phòng Không.

* Quân Đoàn 2 & Quân Khu 2 :
- Tại Bộ Tư Lệnh QĐ & QK : Có 7 Tiểu Đoàn Pháo Binh : 3 TĐ/105 ly + 2 TĐ/155 ly + 1 TĐ/175 ly + 1 TĐ/Phòng Không.
- Sư Đoàn 22 BB : 3 TĐ/105 ly + 1 TĐ/155 ly.
- Sư Đoàn 23 BB : 3 TĐ/105 ly + 1 TĐ/155 ly.
- Tổng Cộng : 9 TĐ/105 ly + 4 TĐ/155 ly + 1 TĐ/175 ly + 1 TĐ/Phòng Không, tức là có : 216 khẩu pháo 105 ly + 96 khẩu pháo 155 ly + 24 khẩu pháo 175 ly + 24 khẩu pháo Phòng Không.

* Quân Đoàn 3 & Quân Khu 3 :
- Tại Bộ Tư Lệnh QĐ & QK : Có 4 Tiểu Đoàn Pháo Binh : 1 TĐ/105 ly + 1 TĐ/155 ly + 1TĐ/175 ly + 1TĐ/Phòng Không.
- Sư Đoàn 5 BB : 3 TĐ/105 ly + 1TĐ/155 ly.
- Sư Đoàn 18 BB : 3 TĐ/105 ly + 1 TĐ/155 ly.
- Sư Đoàn 25 BB : 3 TĐ/105 ly + 1TĐ/155 ly.
- Tổng Cộng : 10 TĐ/105 ly + 4 TĐ/155 ly + 1 TĐ/175 ly + 1 TĐ/Phòng Không, tức là có : 240 khẩu pháo 105 ly + 96 khẩu pháo 155 ly + 24 khẩu pháo 175 ly + 24 khẩu pháo Phòng Không.

* Quân Đoàn 4 & Quân Khu 4 :
- Tại Bộ Tư Lệnh QĐ & QK : Có 4 Tiểu Đoàn Pháo Binh : 2 TĐ/105 ly + 1 TĐ/155 ly + 1 TĐ/Phòng Không.
- Sư Đoàn 7 BB : 3 TĐ/105 ly + 1 TĐ/155 ly.
- Sư Đoàn 9 BB : 3 TĐ/105 ly + 1 TĐ/155 ly.
- Sư Đoàn 21 BB : 3 TĐ/105 ly + 1 TĐ/155 ly.
- Tổng Cộng : 11 TĐ/105 ly + 4 TĐ/155 ly + 1 TĐ/Phòng Không, tức là có được : 264 khẩu pháo 105 ly + 96 khẩu pháo 155 ly + 24 khẩu pháo Phòng Không.

* Biệt Khu Thủ Đô : Có 5 Tiểu Đoàn Pháo Binh : 2 TĐ/105 ly + 2 TĐ/155 ly + 1 TĐ/Phòng Không, tức là có được : 48 khẩu pháo 105 ly + 48 khẩu pháo 155 ly + 24 khẩu pháo Phòng Không.

** TỔNG CỘNG CHUNG, QL/VNCH gồm có :
- Phần Chính Quy : 50 TĐ/105 ly + 18 TĐ/155 ly + 4 TĐ/175 ly + 5 TĐ/Phòng Không.
- Phần Diện Địa : 772 khẩu pháo 105 ly
- Tổng Cộng : 2620 khẩu pháo : 1972 khẩu pháo 105 ly + 432 khẩu pháo 155 ly + 96 khẩu pháo 175 ly + 120 khẩu pháo Phòng Không.

* Phân Loại Tổng Quát :
1). Đại Bác 105 ly : 1 viên đạn nặng 15 kg . Tầm xa : 14 cây số.
2). Đại Bác 155 ly : 1 viên đạn nặng 43 kg. Tần xa : 17 cây số.
3). Đại Bác 175 ly : 1 viên đạn nặng 66,78 kg. Tầm xa : 20 cây số. (Nòng súng 175 ly phải thay sau khi bắn được 300 viên đạn).

* Ngoài ra, QL/VNCH có được những Vũ Khí và Khí Cụ sau đây ( một vài loại đặc biệt chủ yếu ... ) :
- Súng Cá Nhân M.16 : 981.200 khẩu.
- Súng Đại Liên M.60 : 35.800 khẩu.
- Súng Phóng Lựu M.79 : 45.850 khẩu.
- Súng Cối 81 ly : 17.600 khẩu.
- Máy Truyền Tin AN/PRC.25 : 42.100 máy.
- Xe jeep : 210.000 chiếc.
- Xe GMC : 198.200 chiếc.

*** PHÁO BINH VÀ THIẾT GIÁP CỦA QUÂN CỘNG SẢN BẮC VIỆT
TẠI CHIẾN TRƯỜNG MIỀN NAM VIỆT NAM :
**********************************************************************
- Tính đến cuối năm 1974 đầu năm 1975, tức là vào thời điểm Quân CSBV bắt đầu thực hiện hình thức CHIẾN TRANH QUY ƯỚC thì vấn đề Pháo Binh và Chiến Xa, nhất là PHÁO BINH để mở CÁC TRẬN ĐỊA PHÁO, là SỞ TRƯỜNG THEN CHỐT cho CHIẾN THẮNG của các trận đánh và số khẩu pháo đủ loại, nhất là Pháo Hạng Nặng Tầm Xa và Hỏa Tiển, CSBV đã được Liên Sô viện trợ thật nhiều, kể cả Chiến Xa thật hiện đại tối tân như PT.76 và T.54.
- Số khẩu pháo mà quân CSBV xử dụng là 6224 khẩu pháo đủ loại và 1520 chiến xa.
- Mỗi Sư Đoàn của quân CSBV có 1 Trung Đoàn Pháo Binh. Một Trung Đoàn có 4 Tiểu Đoàn, mỗi tiểu đoàn có 22 khẩu pháo. Như vậy 1 sư đoàn quân CSBV có 88 khẩu pháo.

- Những loại khẩu pháo được xử dụng :
* Pháo 130 ly với tầm xa 27 cây số.
* Pháo 122 ly với tầm xa 21 cây số.
* Pháo Phản Lực : 8 ống gắn trên xe Molotova, tầm bắn 11 cây số.
* Pháo giàn phóng hỏa tiển BM.1, BM.2 (2 người khiên trên vai, tầm xa 17 cây số).
* Hỏa tiển SAM.7 (vác trên vai).
- Riêng các loại pháo SKZ, 62 ly, 82 ly, pháo " phản lực loại trung bình " bắn bằng ống phóng vác trên vai giống như B.40, B.41 sẽ khai hỏa đồng loạt cùng một lúc khi chuẩn bị xung phong. Trước đó, các loại pháo nặng bắn phủ đầu, tàn phá một cách khủng khiếp (lúc đầu từ biên giới Việt-Miên-Lào, sau đó, kéo vào nội địa Việt Nam) ...
- Nếu chưa có " Chiến Dịch ", mỗi ngày Cộng Quân bắn từ 5000 đến 7000 quả đạn pháo binh trên toàn lãnh thổ của miền Nam VN, mục đích cầm chân QL/VNCH, quấy rối hoặc yểm trợ cho các Trung Đoàn Chủ Lực Miền hoặc Du Kích Địa Phương ...
- Khi mở " Chiến Dịch ", tổng tấn công thì bắn mỗi ngày từ 20.000 đến 30.000 quả đạn đủ loại.
************************************************************************************************************************************************
- Khi tấn công Chi Khu Đức Lập (tiểu khu Quảng Đức), quân CSBV xử dụng 1 sư đoàn (khoảng 8000 quân), 88 khẩu pháo đủ loại, 50 chiến xa(T.54 và PT.76) ... trong khi Chi Khu Đức Lập có 1000 quân phòng thủ và 2 khẩu pháo 105 ly.
- Khi tấn công tiểu khu Phước Long, 2 sư đoàn quân CSBV + 2 trung đoàn Biệt Lập, tổng cộng quân số khoảng 3 sư đoàn (25.000 quân), 200 khẩu pháo và 100 chiến xa ... trong khi Phước Long với khoảng 5000 quân trú phòng và 12 khẩu pháo binh.`
- Khi tấn công Thị Xã Ban Mê Thuột, Cộng Quân xử dụng 4 sư đoàn, 300 khẩu pháo và 300 chiến xa, trong khi quân trú phòng chỉ hơn 4000 người và 12 khẩu pháo 105 ly.

CÁC TRẠI BIỆT KÍCH PHÒNG THỦ DỌC THEO BIÊN GIỚI
Các trại Bịêt Kích thành lập tháng 1-1961, giải tán tháng 12-1970
TỈNH QUẢNG TRỊ. Trại Ba Lòng. Trại Cồn Thiên. Trại Delta. Trại Gio Linh. Trại Làng Vei. TỈNH QUẢNG NAM : Trại A Rô. Trại An Diêm. Trại Hiệp Đức. Trại Hoa Cam. Trại Nam Đức. Trại Nông Sơn. Trại Ta Kho. Trại Thường Đức. TỉNH QUẢNG NGẢI : Trại Ba Gia. Trại Ba Tơ. Trại Gia Vực. Trại Hà Thanh. Trại Mang Buk. Trại Minh Long. Trại Sa Huỳnh. Trại Ta Ma. Trại Trà Bồng. TỉNH QUẢNG ĐỨC : Trại Bu Prang. Trại Buôn Sa Pa. Trại Đức Lập. Trại Nhơnc Cơ. HUẾ : Trại A Lưới, là tiền đồn của Trại A Shau. Trại Tà Bạt. Trại Tà Rau. TỈNH PLEIKU : Trại Đức Cơ. Trại Kan Nack. Trại Phú Thiện. Trại Plei Do Lim. Trại Plei Dje Reng. Trại Pleike. Trại Pleimei. Trại Plei Mrong. Trại Plei Yarong. Trại Plei Yu. Trại Suối Dơi. TỈNH KONTUM : Trại Ben Het – tiếng Việt đọc là Bến Hết. Trại Chu Ta Kra. Trại Dar Pek. Trại Dak Seang. Trại Dark Sút. Trại Dak Tô. Trại Mang Buk. Trại Plateau Gi. Trại Plei Jar. Trại Plei Kleny. Trại Plei Krong. TỈNH BAN MÊ THUỘT : Trại Buôn Tha. Trại Buôn Ying. Trại Buôn Yun. Trại Krong Kho. Trại Krongmo. Trại Lạc Thiện. Trại Tân Linh. Trại Tiêu Ajar. Trại Trang Phúc. Trại Ya Soup. TỈNH DAK LAK : Trại An Lạc. Trại Buôn Beng. Trại Bujôn Brieng. Trại Buôn Bak. Trại Buôn Bang. Trại Buôn Dan Bak. Trại Buôn Dom. Trại Buôn Eaya. TỈNH LÂM ĐỒNG : Trại Bảo Lộc. Trại Djirai. Trại Tân Rari. TỈNH TUYÊN ĐỨC : Trại Trại Dam Pau. Trại Phey Jrum. TỈNH BÌNH ĐỊNH : Trại An Khê. Trại Bình Khê. Trại Hà Tây. Trại Hoài Ân. Trại Kammack. Trại Plei Ta Nongle. Trại Vĩnh Thạnh. TỉNH BÌNH THUẬN : Trại Hương Sơn. Trại Phước Thiện. Trại Plei Long. Trại Phi Mã. Trại Sông Mao.TỈNH PHƯỚC LONG : Trại Bù Đốp. Trại Bù Gia Mập. Trại Rumark. Trại Đức Phong. Trại Đồng Xoài – Đôn Luân. Trại Sông Bé. TỈNH BÌNH LONG : Trại Chí Linh. Trại Chơn Thành. Trại Hớn Quản. Trại Lộc Ninh. Trại Ninh Thạnh. Trại Widder. TỈNH BÌNH DƯƠNG : Trại Lai Khê. Trại Bến Cát. Trại Phước Vĩnh. TỈNH PHƯỚC THÀNH - nằm trên con sông Bé - Trại Túc Trưng. Trại Xóm Cát. Trại Bo Mua. Trại Nước Vàng. TỈNH TÂY NINH : Trại Bao Đôn. Trại Bến Sỏi. Trại Bến Sơn – cách Bến Sỏi 25 cây số, về hướng Tà Lọt, sát biên giới Miên, cạnh bờ sông Vàm Cỏ. Trại Kà Tum. Trại Gò Dầu Hạ. Trại Núi Bà Đen. Trại Prek Klock. Trại Suối Đá. Trại Thiện Ngôn. Trại Tonle Chamn- Tống Lê Chân. Trại Trại Bí. Trại Trảng Sụp. Trại Phước Tân – tiền đồn của trại Bến Sỏi, trại này cách biên giới Miên 1 cây số. TỈNH PHƯỚC TUY : Trại Mike Force Long Hải. TỈNH HẬU NGHĨA : Trại Đức Hòa, Trại Đức Huệ, Trại Hiệp Hòa. TỈNH LONG AN : Trại Bến Phước. Trại Hương Hòa. Trại Trà Cú. TỈNH KIẾN TƯỜNG : Trại Ấp Bắc. Trại Bình Thạnh. Trại Cái Cai. Trại Dân Cường. Trại Kinh Qua. Trại Mộc Quá. Trại Mỹ Diên. Trại Tuyên Nhỏ. Trại Tân Hiệp. Trại Thượng Thới. TỈNH CHÂU ĐỐC : Trại An Long. Trại An Phú. Trại Ba Chúc Núi Tượng. Trại Ba Xoài. Trại Chi Lăng. Trại Hiêp Đức. Trại Tịnh Biên. Trại Tân Châu. Trại Tri Tôn. Trại Vĩnh Gia. TỈNH R ẠCH GIÁ : Trại Hà Tiên. Trại Sà Tiên. Trại Tô Châu. Trại Phú Quốc. Tổng cộng 181 trại LLĐB trên toàn lãnh thổ VNCH. Ở đây chỉ ghi lại những trại đóng dọc theo biên giới Việt Miên Lào mà thôi.
(Trích theo tài liệu của KELLY và FRANCIS : Viet Nam Studies U.S. Army Special Forces – 1973 – USAID United States Agency for International Development – Saigon)

TRẠI LLĐB LÀ HÀNG RÀO CHIẾN LƯỢC PHÒNG THỦ BIÊN GIỚI

Trong cuộc họp ngày 2-9-1957 tại Phủ Tổng Thống, gồm các ông: Ngô Đình Nhu, Giám Đốc Sở Chính Trị Trần Kim Tuyến và Bộ Trưởng Lao Động Huỳnh Hữu Nghĩa (được xem là 3 bộ óc siêu đẳng của chính thể Đệ Nhất VNCH) duyệt xét lần chót kế hoạch thoát khỏi hiểm họa CS trước khi trình lên TT Ngô Đình Diệm phê chuẩn. Ông Nhu giải thích. Muốn cứu quốc, tái thiết xứ sở, đương đầu cuộc chiến một mất một còn với CS, Chúng ta phải thực hiện cho bằng được học thuyết Cần Lao Nhân Vị (con người có thể xác và linh hồn, sống có nhân bản và phải biết vị tha theo lời Chúa dạy, cá nhân liên đới với xã hội, cần kiệm trong cuộc sống, siêng năng lao động để phát triển đất nước. Cần Lao Nhân Vị là chủ nghĩa DUY TÂM, đối đầu với chủ nghĩa DUY VẬT CS).
và hoàn tất 3 Chiến Lược.
1- Chiến Lược Phòng Thủ Biên Giới : Ngăn chặn đại quân địch từ xa, và đánh địch khi địch còn ở ngoại biên. Đồng thời, đánh địch ngay trong vùng địch.
2. Thành lập Ấp Chiến Lược : Nhằm tách rời dân và địch ra hai giới tuyến riêng biệt.
3- Chiến Lược Đắc Nhân Tâm : Lập các Khu Dinh Điền, Khu Trù Mật, Ấp Đời Mới, kỹ nghệ hóa công nghịêp. Kỹ nghệ hóa nông nghiệp. Cấp đất cho dân có ruộng cày. Học đường miễn phí. Y tế miễn phí. Lập các trại tế bần nuôi người nghèo, các trẻ em mồ côi. Lập viện dưỡng lão săn sóc người già…. Sau đó, ông giao công tác phòng thủ biên giới cho Thiếu Tá Lê Quang Tung. (Năm 1957 ông Tung còn mang cấp bậc Thiếu Tá - và người phụ tá là Đại Úy Trần Khắc Kính).

Bộ Tư Lệnh LLĐB đã hình thành từ cuối năm 1956 theo lệnh TT Ngô Đình Diệm. Nhưng, ông Tung và Sở Liên Lạc của ông làm việc với Đại Tá Cố Vấn Rogers mãi đến 3 năm sau mới hoàn tất Chiến Lược Phòng Thủ Biên Giới. Từ tháng 2-1960 đến tháng 7 – 1962, Trung Đoàn 20 Công Binh Hoa Kỳ đã xây dựng xong 65 trại LLĐB đầu tiên. Đến năm 1966, con số lên tới 181 trại. Quân số Dân Sự Chiến Đấu – Biệt Kích Quân (CIDG) - khoảng 50.000 người. 181 Trại, có 110 trại bố trí sát biên giới Việt Miên, Việt Lào từ 4 đến 8 cây số. Hai chữ « Biệt Kích”, mang ý nghĩa một hình thức chiến đấu đa dạng. Ngoại lệ. Không tùy thuộc vào chiến tranh quy ước. Họ không phải là quân nhân của VNCH. Không có số quân. Khi bị bắt làm tù binh. Chính phủ VNCH không có thẩm quyền nhìn nhận và bảo vệ họ. Họ chiến đấu âm thầm. Lặng lẽ. Cô đơn. Thường 1 toán 6 người. Thi hành nhiệm vụ thám sát, theo dõi, bắt cóc, tấn công các vị trí đặt đại pháo của địch trên lãnh thổ Miên, Lào. Thời gian hành quân trong lòng địch 3 tuần lễ. Họ là những chiến sĩ chiến đấu trong bóng tối. Chết trong vô danh. Thi hài không được an táng trong Nghĩa Trang Quân Đội VNCH. Chỉ được chôn cất ở các nghĩa trang tại các Trại Biệt Kích. Họ là người: Tày, Thái trắng, Miên, Lào, Nùng, Mường, Hmông, Dao, Gia Rai, Ra Đê, Rê Đê, Haré, Mứn Xen, Tềnh, Tà Ôi, Tà Mun, Pu Đăng, Khù Xung, Brao, Ka Pèo... Họ sinh trưởng trên ba miền đất nước Việt Nam. Tình nguyện phục vụ dưới màu áo Biệt Kích. Chết cho chính thể VNCH. Họ ít khi tình nguyện vào lính Biệt Kích một mình. Rủ rê cả anh em ruột. Con, cháu, chú, bác, cả dòng họ. Cả làng. Phục vụ chung trong một đại đội. Do đó, khi đụng trận. Họ điên cuồng xung phong. Quyết liệt chống trả đến viên đạn cuối cùng để bảo vệ người thân, anh em máu mủ ruột thịt. Cha mẹ. Vợ con họ, cũng đi theo họ. Sống với họ trong khu Gia Binh Trại. Chức đại đội trưởng. Thường là Tộc Trưởng. Trưởng Bộ Lạc. Trưởng Làng. Trước kia từng là binh sĩ trong quân đội Pháp. Rất có uy tín. Nên được người của họ đề cử. Trong lực lượng Biệt Kích. Người sắc tộc thiểu số chiếm 70%. Người VN chính gốc 30%. Người VN, không thích thi hành quân dịch. Đưa qua bộ binh. Đổi ra các đơn vị xa nhà. Gia nhập vào Biệt Kích. sống gần gia đình. Đại Đội Trưởng. Đa số cựu sĩ quan Cao Đài, Hòa Hảo. Các nhân vật có thành tích chống Cộng đựơc các cha Giáo Xứ như Bùi Chu – Phát Diệm giới thiệu với Sở Liên Lạc. Sau này là Nha Kỹ Thuật. Mỗi cuối tháng. Đúng vào ngày 28. Ban Quân Lương Hoa Kỳ, đến tận trại, phát lương trực tiếp cho họ. Lính Biệt Kích lãnh lương nhiều gấp rưỡi lính VNCH. Ngoài ra, họ còn lãnh thêm tiền thưởng nếu lập được chiến công tại mặt trận. Thí dụ, len lỏi vào đất Miên. Tấn công Đột Kích (đánh bất ngờ). « Hỏa thiêu » được một khẩu 122 ly hoặc 130 ly. Tiền thưởng cho nguyên một toán, không dưới 20.000 (tiền VNCH, trước 1975). Vì nhận lãnh những công tác vô cùng nguy hiễm. 1 phần sống. 9 phần chết. Cho nên, tiền tử của Biệt Kích, nhiều gấp đôi lính VNCH.

Trại LLĐB – Biệt Kích – đặt dưới sự chỉ huy của Toán A. gồm: 1 đại úy trưởng trại. 1 trung úy phó trưởng trại. 1 thiếu úy trưởng ban 3. Hai chuẩn úy phụ tá. 1 trung sĩ nhất. Trưởng ban 1 - hành chánh -. 1 trung sĩ nhất trưởng ban 2 - an ninh. 1 trung sĩ nhất trưởng ban truyền tin. 1 trung sĩ nhất trưởng ban cứu thương. 1 trung sĩ nhất trưởng ban tình báo. 1 trung sĩ nhất trưởng ban tâm lý chiến. 1 trung sĩ nhất trưởng ban tiếp liệu – phối hợp với trưởng ban tiếp liệu của HK trong trại. 1 trung sĩ nhất chuyên viên về chất nổ. 1 thượng sĩ nhất trông coi thường vụ trại. 1 thượng sĩ nhất phụ trách huấn luyện. 15 người tất cả. Toán B, trưởng toán, cấp thiếu tá, chỉ huy khoảng 5 hoặc 6 Toán A. Trên Toán B là Toán C, cấp Quân Đoàn. Trưởng toán, trung tá hoặc đại tá. Người giữ chức vụ chỉ huy trưởng C 3 – Vùng 3 Chiến Thuật - lâu đời nhất. Cho đến ngày chấm dứt chiến tranh, 1975, là Đại Tá Nguyễn Thành Chuẩn. Bên cạnh Toán A LLĐB Việt Nam. Có một Toán LLĐBHK. Trực thuộc 5TH SPECIAL FORCES GROUP. Cấp bậc và quân số cũng tương đương với Toán A VN. Giữ vai trò cố vấn. Yểm trợ hành quân trên mọi phương diện. Tài chánh. Vũ khí. Lương thực. Pháo binh. Không quân… Phi trường Utapao, Thái Lan, luôn luôn túc trực 2 pháo đài B52 dành riêng cho Biệt Kích VN. Sĩ quan LLĐBHK có quyền gọi thẳng B52 yểm trợ. Không cần thông qua Bộ Tư Lệnh Hoa Kỳ tại VN.

LLĐBVN có nhiệm vụ chỉ huy, huấn luyện BK hoàn thành các công tác được giao phó như sau : Thám sát sâu trong hậu cứ VC. Nhảy vào khu vực của địch trước đó 2 tuần lễ. Tìm địa điểm địch đóng quân, các ổ pháo phòng không. Phục kích, giữ an toàn bãi đáp đổ quân. Chuẩn bị chiến trường cho đại quân nhảy xuống giữa chiến khu địch. Yểm trợ các hoạt động nổi dậy trong vùng địch kiểm soát . Yểm trợ các hoạt động đặt mìn. Bắn tỉa cán bộ. Sĩ quan bộ đội. Trên đường mòn Hồ Chí Minh. Bắt cóc bộ đội khai thác tin tình báo. Đánh sập các căn cứ tiếp liệu sâu trong hậu cứ đối phương. Phá hủy các khẩu đại pháo 122 ly, 130 ly. Các kho chứa vũ khí của địch. Do thi hành những nhiệm vụ trên, lính BK đòi hỏi cao về kỹ thuật tác chiến. Tinh thần vững chắc, kiên cường. Sự can đảm tột cùng. Khả năng hoạt động riêng lẻ rất điêu luyện theo từng toán nhỏ. Hoặc, trong sự cô độc, một mình, nếu là một tay thiện xạ chuyên bắn tỉa trong vùng địch kiểm soát.

Nói cách khác, một cán bộ LLĐB, một Toán Delta, một toán Lôi Vũ tác chiến như thế nào, lính BK sẽ được huấn luyện y như vậy.

Trại Biệt Kích, 60% xây dựng theo khung hình tam giác (3 góc). 40% theo hình tứ giác (4 góc). Mỗi góc thiết kế 2 khẩu đại liên M60 (khoảng cách mỗi khẩu là 4 thước). 1 súng cố 61 ly. 8 khẩu phóng lựu M79. 2 súng phun lửa M-1. 12 khẩu M72 chống xung phong biển người. 7 hỏa tiễn TOW diệt xe tăng.
Hỏa lực 1, có sức mạnh tàn sát kinh khủng. Khai hỏa đồng loạt, từ ba góc giao chéo với nhau khi địch dùng chiến thuật biển người. Địch càng xung phong. Xác chết càng chất lên cao. Con kiến cũng không lọt qua nổi. Nói chi là con người.
Hỏa lực 2, bố trí cả trăm súng đủ loại, dọc theo giao thông hào bắn yểm trợ hỏa lực 1. Trong phòng tuyến này. Có 4 toán thiện nghệ tung lựu đạn mini. Cách xa đối phương. Có khi trên 50 thước. Khiến số thương vong của địch. Càng gia tăng. Địch chùn bước. Rối loạn đội hình xung phong. Thêm vào đó. Các toán chuyên môn về các loại mìn. Bấm kích hỏa theo từng chiến thuật phản công.
Hỏa lực 3, giao thông hào 2. Có 2 khẩu 82 ly. 2 khẩu 105 ly. « Rải trấu » phía sau lưng địch. Nghiền nát nhừ các cánh quân đoạn hậu. Đang chờ đến lượt xung phong. Ấy là chưa kể, pháo binh của Hoa Kỳ « dập » như giông bão. Lên đầu địch. Hỏa lực 4, hỏa lực cuối cùng. Sức mạnh không thua gì hỏa lực 1. Giao cho các toán « cao tay nghề » đánh đặc công bằng lựu đạn. Cận chiến lưỡi lê. Đánh mìn claymore. Chất nổ TNT. Lựu đạn Napalm (bộ binh VNCH chưa có trang bị loại “lựu đạn xăng lửa” này), một khi địch lọt được vào bên trong trại. Chuyện rất hiếm xảy ra. Quân số một trại BK. Trung bình 5 đại đội. Một đại đội 144 BK (144x4 = 576 người). Các trại « Tiền Đồn » có 2 đại đội, 1 trung đội « nhảy toán ».

Bờ tường đổ béton cốt sắt, dài hai thước. Bên trên phủ 3 lớp bao cát. Bên trong phủ 1 lớp bao cát. Khoảng 1 thước có một lỗ châu mai. Sát bờ tường là một giao thông hào sâu 2 thước. Rộng 2 thước. Ăn thông xung quanh chu vi trại. Đằng sau giao thông hào, cũng có một bờ tường, kéo dài song song với bờ tường thứ nhất. Bề dày 1 thước. Hai bờ tường được nối bằng tấm vĩ béton cốt sắt dày 1,50 thước. Bên trên phủ 4 lớp bao cát. Xin nhắc lại, hệ thống phòng thủ của trại. Giao thông hào. Hố cá nhân. Hầm truyền tin. Hầm trú ẩn. Bộ chỉ huy. Đều do Công Binh Hoa Kỳ đổ “béton” cốt sắt. Trước khi phủ bao cát.
Bên ngoài trại. Một phi đạo dành cho phi cơ vận tải C123 chở hàng tiếp tế. Một bãi đáp trực thăng dùng tản thương. Từ bờ tường của trại. Hướng ra bìa rừng, bãi trống 1000 thước. Hàng rào kẽm gai thứ nhất bao quanh trại. 10 thước chôn một trái mìn M15-606 – antitank (mìn chống chiến xa, nặng 14kg). Hàng rào kẽm gai thứ 2. Cách trại 600 thước. Cứ Khoảng 7 thước. Chôn 1 mìn định hướng tự động KM-162. Chống biển người. (Mìn nặng 5kg. Khi nổ, miễng văng xa 27 thước). Hàng rào kẽm thứ 3. Cách trại 400 thước. Chôn mìn chống chiến xa lần thứ nhì. Loại M6A2. Hàng rào kẽm thứ tư. Cách trại 100 thước. Gài mìn claymore. Hàng rào thứ 5, cách trại 50 thước. Gài thêm một lớp mìn claymore cuối cùng. Dưới mỗi trái mìn. Gài thêm một trái lựu đạn M26 đã mở chốt. Dự trù trường hợp, đặc công VC lén bò vào gỡ mìn ban đêm.

Hệ thống phòng thủ Hỏa lực 1. Trại chỉ định Đại Đội Bộ Chỉ Huy trấn thủ. Bởi vì. Thứ nhất. Họ được tuyển lựa kỹ càng. Mức độ tin tưởng rất cao. Thứ nhì. Họ là những tay súng tinh nhuệ. Can trường. Dày dặn kinh nghiệm đánh tuyến đầu. Được huấn luyện thuần thục các loại vũ khí “sát thương” đặc biệt. Hơn nữa. Họ bình tĩnh đến độ. Trong lúc địch hò hét xung phong. Vừa bắn trả. Vừa ca Vọng Cổ. Bốn đại đội còn lại. Đóng quân ở 4 khu vực ngăn ra riêng rẻ bằng các bờ tường “béton” cốt sắt. Giao thông hào. Hầm trú ẩn. Hầm tác chiến riêng. Sau 21 giờ. kẽm gai kéo bao quanh doanh trại của từng đại đội. Cánh cổng khu đại đội khép lại. Giờ giới nghiêm. Người của đại đội này, không thể đi qua đại đội bạn. Ở yên tại vị trí tác chiến. Nếu có pháo kích. Có lệnh báo động. Đại Đội thứ nhì. Cũng được huấn luyện nhuần nhuyễn chiến thuật đánh đặc công. Giỏi xử dụng vũ khí hạng nặng. Cùng một lúc, bảo vệ hậu tuyến, chuẩn bị thay thế khu hỏa lực 1. Nếu có người vừa ngã gục. Hai đại đội còn lại. Một đại đội dùng tiếp ứng một phòng tuyến nào đó bị chọc thủng. Một đại đội chuyên đánh vào lòng địch ban đêm, bằng lựu đạn. Phòng hờ có thể được tung ra bên ngoài trại. Từng toán 3 người. Đánh vào chỗ mạnh nhất của địch. Chiếm được vị trí nào. Họ liền bám chặt vị trí đó. Chờ trực thăng Corbra bắn bao che. Dọn tuyến an toàn cho các toán đi sau. Điều cần lưu ý. Người lính của đại đội này. Thuộc lòng từng địa điểm chôn mìn.

Lối viết trên đây. Viết theo mô hình tổ chức trên lý thuyết. Trên thực tế, ngày lẫn đêm. Lúc nào cũng có 2 đại đội hoạt bên ngoài trại. Một đại đôi phân ra từng toán nhỏ viễn thám « bao vùng ». Trên đất Miên. Nếu Trại nằm trong lãnh thổ Quân Đoàn 3. Thí dụ như Trại Thiện Ngôn (tỉnh Tây Ninh). Cách cầu Xa Mách biên giới Miên 4 cây số. Trại này « bao vùng »các địa danh như : Mimot, Chup, Steung : Nơi các sư đoàn 5, 7, 9, C30 VC « ém quân”, bảo vệ Cục R – Bộ Tư Lệnh quân CS tại miền Nam. Và, xâm nhập. Phối hợp với 5 trung đoànchủ lực du kích miền. Tấn công quân đội VNCH trong các tỉnh: Tây Ninh, Bình Long, Phước Long, Bình Dương, Phước Tuy, Long Khánh, Hậu Nghĩa, Long An. Các toán Biệt Kích bám sát mọi di chuyển. Mọi cử động của các sư đoàn địch, gọi B52 tapis - trải thảm. (B52 dội bom địch cấp trung đoàn trở lên. Cấp tiểu đoàn, BK dùng quân số liên đại đội. Đánh trực diện. Dưới sự yểm trợ của Không Quân chiến thuật, pháo binh 175 ly của Sư Đoàn 101 Không Kỵ Hoa Kỳ, trú đóng ở căn cứ Trảng Lớn – Tây Ninh).
Một đại đội hành quân nội địa VN. Lục soát, tảo thanh, truy kích địch những khu vực Trại chịu trách nhiệm.
Sau năm 1965. Cường độ pháo kích của địch quá ác liêt. Phương pháp phòng thủ kiểu này, đã thay đổi. LLĐBVN dùng chiến thuật « Nhữ Mồi » (Kế sách Hư Hư Thực Thực. Thả lỏng việc phòng thủ. Rút 60% quân ra khỏi trại. Phục kích cách xa trại khoảng 3 cây số. Địch tưởng bở. Vội vã xua quân tấn công. Sau khi rót cả ngàn quả pháo vào trại. Đợi địch quân sâp bẫy. Khi đó, BK từ ngoài đánh vào. Từ trong đánh ra. Ép địch dồn cục vào giữa vòng vây. Phi cơ Corbra Gunship bắn rocket triệt hạ). Kế hoạch triệt tiêu hữu hiệu pháo binh CS. Chúng tôi sẽ viết ở phần sau.

Huấn luyện : Tiền nào của nấy. Đối với người Mỹ. Lãnh lương nhiều. Phải làm việc nhiều. Biệt Kích không phải là người lính đơn thuần chỉ biết xung phong, bắn súng khi có lệnh. Họ phải được huấn luyện gần giống như Toán A LLĐBVN. Nghĩa là. Tự chiến đấu. Tự mưu sinh trong vùng địch. Nếu hết lương thực. Tự thoát thân. Bằng mọi cách. Lính BK phải trở thành một binh sĩ tác chiến chuyên nghiệp. Nhà nghề. Vì thế. Họ được gởi đến hai Trung Tâm Huấn Luyện Trảng Sụp (Tây Ninh), Trung Tâm Huấn Luyện Mike Force Long Hải – Bà Rịa. Tại đây, cán bộ LLĐBVN huấn luyện họ qua các môn tác chiến: « Đu » dây trực thăng khi thả xuống giữa rừng già. Hoặc, triệt thoái, vừa bắn vừa rút lui. Nếu bị bại lộ. Gặp lúc địch áp đảo với số đông truy đuổi. Gunship bắn yểm trợ. Trực thăng bóc ra khỏi vùng. Cũng bằng cách « đu » dây. Như lúc nhảy xuống.
Học các thế ngồi. Nằm ngửa. Quăng lựu đạn mimi. Thế đánh cận chiến trong đêm. Không dùng súng. Dùng lựu đạn. Lưỡi lệ.
Học thế đánh phá chốt, đánh đặc công (từng toán 3 người. Nửa đêm đột nhập vào bên trong khu địch đóng quân. Bất ngờ đánh bằng lựu đạn mini. Lựu đạn napalm). Hàng ngũ địch phải hỗn loạn. Lúc đó, 1 Đại Đội ứng chiến đã phục kích từ đêm trước. Đồng loạt xung phong. Đánh trực diện bộ chỉ huy cấp tiểu đoàn của địch. Cùng một lúc. Trực thăng đổ ngay trên đầu địch Đại Đội thứ nhì. Lối đánh đồng bộ này (1- Đặc công. 2-phục kích trước. 3- Lấy BCH địch làm bãi đáp). Dù quân số địch, 1 trung đoàn cũng tan hàng. Trực thăng dám bay trên đầu địch. Là bởi vì. Trước đó mấy ngày. Các toán Task Forces (đặc nhiệm) đã âm thầm diệt gọn các ổ phòng không.

« Nghệ thuật phá chiến pháp « Công Đồn Đả Viện »: Đưa quân tiếp viện bằng trực thăng (quân số tối thiểu từ 3 Đại Đội trở lên). Bãi đổ quân xa mặt trận 20-30 cây số. Rồi chạy bộ đến căn cứ đang trong tình thế nguy ngập. Gần tới mục tiêu 3 cây số. Dừng quân, sắp đội hình chiến đấu. Phân mỏng ra từng toán. Một toán 6 người. (Quân số BK, một Trung Đội 36 người. Một tiểu đội 12 người. Tức 6 toán. Một Đại Đội có 4 Trung Đội. 6 x 4 = 24 toán ). 4 toán phá chốt. 10 toán đánh quân “Đả Viện”. 5 Toán tiền quân. 5 Toán hậu quân. 1 Toán bắn tỉa. Toán hậu quân phóng M72, M79 tới tắp. Đè đầu địch thụt sâu dưới hố cá nhân. Toán tiền quân nương theo hỏa lực Toán hậu quân. Lăn người đến sát phòng tuyến địch. Đánh lựu đạn mini, lựu đạn napalm. Lựu đạn quăng chính xác mục tiêu. Địch hốt hoảng. Bắt buộc phải ngóc đầu lên bắn trả. Từ xa, Toán bắn tỉa súng MX18. Ống nhắm “zoom” tự động. Rất hiện đại. Đốn ngã từng tên một. Bây giờ, cánh quân Đả Viện của địch đã lộ diện. Oanh tạc cơ vào vùng, « nhả” hàng ngàn tấn bom nổ chụp. Bom napalm. Quân Đả Diện chìm trong biển lửa.

3 Toán tuần tiễu xung quanh căn cứ. Sâu trong rừng khoảng 1 cây số. Truy lùng các Đài Quan Sát địch “trầm mìn” trên các ngọn cây. Chấm tọa độ. Điều chỉnh pháo. Hễ thấy chúng, hạ gục tức khắc. 3 Toán len lỏi giữa đội quân địch. Dọn sạch các ổ phòng không. 5 Toán còn lại. Di chuyển về phía biên giới. Đào hố phục kích hàng ngang. Một hố hai người. Khoảng cách 10 thước. Tuyến phục kích với số quân ít ỏi. Nhưng kéo dài hơn 700 thước. Đoán được rằng. Đã là sư đoàn chính quy Bắc Việt. Trước sau gì cũng chạy qua Miên.

Hai Đại Đội chủ lực. Đại Đại 110. Đại Đội 112. Lách xa các chốt, quân Đả Viện, băng rừng, tiến về phía căn cứ, diệt đạo quân “Công Đồn”. Di chuyển nhanh. Gọn. Êm ả, không nghe tiếng động. Đánh lén. Bất ngờ. Là nghề của Biệt Kích. Hai Đại Đội bọc hậu. Bố trí phía sau tuyến địch. Bao vây ngược lại địch. Địch không thể ngờ. Bọn Biệt Kích đang ở sau lưng mình. 11 ngày trôi qua. Biệt Kích trong Trại đã thấm mệt. Bên ngoài, quân CS, qua 55 lần xung phong biển người. Sau nhiều ngày ăn mìn. Ăn pháo 155 ly. Ăn rocket gunship. Ăn Bom tấn của Không Quân Hoa Kỳ. 2 Trung Đoàn, lúc mở màn Công Đồn. Trên 4000 quân. Nay chỉ còn, không quá 1000 « chiến sĩ”. Bộ Đội cũng là người. Mà người thì sức lực có hạn. Quân « Công Đồn”, đang trong tình cảnh tả tơi, đuối sức. Hết cựa quậy nổi. Nằm đây, xung phong bằng « mồm”. Pháo kích quấy rối, cầm chừng. Chờ quân tiếp viện.
Đại Đội 110, cũng chia ra 24 toán, rải mỏng 4 hướng Đông, Tây, Nam, Bắc, tấn công đột kích, phá hầm, phá chốt địch, bằng đủ loại chất nổ. Đại Đội 112, không phân tán, tập trung, giữ nguyên quân số đại đội, làm mũi tấn công chính, cắt quân Công Đồn CS ra làm 2 mảnh. Sau khi Trại cho nổ tung hết các bãi mìn. 24 Toán BK ầm ầm ném chất nổ. Ồ ạt xung phong chiếm từng hố cá nhân địch. Quân BK có mặt khắp nơi. Địch tưởng lầm, BK tiếp diện trên cấp trung đoàn. Vừa lúc đó, trong trại tung ra 2 trung đội đánh đặc công. Trước mặt cũng BK. Sau lưng cũng BK. Địch lớp chết, lớp bị thương nằm la liệt. Số quân còn lại, tính mở đường máu rút lui. Biết được ý đồ của địch. BK mở rộng một « lộ trình”, giúp địch lui quân “thoải mái ». 20 phút sau, các Toán phục kích khu biên giới, báo cáo đang chạm địch dữ dội. Quân CS tứ bề thọ địch. Đành cam đứng giữa trời, hứng hàng trăm trái rocket, từ hai trực thăng gunship Corbra. Trên 4000 quân (tính luôn 3 tiểu đoàn Đả Viện, 1 tiểu đoàn Đóng Chốt), giờ còn đúng 257 bộ đội, mặt mày tái mét, thất thần, ngoan ngoãn đưa tay lên đầu hàng. (Ghi lại trận đánh tiếp viện Trại LLĐB Kà Tum cuối tháng 12-1968).
Học thế tác chiến trong rừng. Trên núi. Dưới đầm lầy. Học phương thức phục kích ngoài đồng trống. Trên các đường mòn trong rừng rậm. Học cách gài các loại mìn của địch: Mìn TM 35, TM 46 – Anti-Tank mine (Nga Sô). Mìn TM 72 (Trung Cộng). Mìn Riegel 43 (Đông Đức). Học xử dụng thông thạo các loại vũ khí CSVN: CKC. Tiểu liên trường bá đỏ. AK47. B40. B41. Mas 36 (Pháp). Và, vũ khí VNCH : Garand M1. Carbine M1. Carbine M2. Carbine bá xếp. Tiểu liên M14. M16. Súng bắn tỉa MX18. Uzi (Do Thái) có gắn ống hãm thanh. Ống dòm hồng ngoại tuyến nhìn ban đêm. Đại liên M60. Súng cối 60 ly.
Học cách ngụy trang bội đội chính quy miền Bắc. Mặc bộ kaki màu cứt ngựa. Đội nón tai bèo. Chân mang giép râu. Vai mang AK 47. 1 cái xẻng cáng xếp đào hố cá nhân. Đạn 2 hỏa lực 300 viên. 3 trái lựu đạn mãng cầu gai MKII-A2. Một sắc ba lô do TC sản xuất. Một túi ruột tượng đựng gạo. (Nhưng, bên trong toàn chứa hai loai lựu đạn đánh cận chiến của BK). Học cách ngụy trang du kích địa phương. Du kích chuyên ngành ám sát. Du kích đấp mô chôn mìn. Phá hoại cầu cống. Các trục lộ giao thông. Các cơ sở hành chánh VNCH. Du kích tuyên truyền. Du kích kinh tài. Du kích bắn sẻ. Bắn phá rối. Gây bất an xã hội. Du kích địa phương trang bị các loại súng: CKC. Trường Bá Đỏ. Carbine M1. PPSH-41 (Nga) Thompson (Anh Quốc).
Du kích chủ lực miền. Mặc quần kaki màu đen. Áo bà ba màu đen. Đội nón lá. Hoặc để đầu trần. Một túi ruột tượng gạo. Mang giép râu. Cổ quàng khăn rằn. Lưng đeo một sắc quân trang bọc bằng bao nylon hay vải kaki màu đen.
Du kích Chủ Lực Miền. Trang bị AK 47. B40. B41. Súng cối 81 ly. Pháo 105 ly. Tuyển mộ tại miền Nam. Thành lập các Trung Đoàn. Chịu trách nhiệm một Miền. Ví vụ, miền Đông, miền Tây Nam Bộ, miền Tây Nguyên (Cao Nguyên), miền Trung. Hằng đêm tấn công các căn cứ. Doanh trại bộ binh VNCH. Đồn bót Nghĩa Quân. Địa Phương Quân xã, quận.... Xin hiểu rằng, du kích không có quyền hoạt động trên đất Miên, Lào. Miên và Lào, chỉ có các sư đoàn bộ đội chính quy từ miền Bắc xâm nhập vào đây từ tháng 6-1964 . Qua sự hướng dẫn của các giao liên Khmer Đỏ và Pathet Lào. Mới có quyền đóng quân. CS Bắc Kỳ không tin CS Nam Kỳ. Tuy rằng, trên đầu môi chót lưỡi. Họ đều nói : « chúng ta cùng là đồng chí với nhau”).

Bao nhiêu môn học đó. Mất ít nhất 6 tháng. Nhưng đủ 3 tuần lễ thì ngưng học. Cho phép trở về đơn vị. Kéo dài thêm. Người lính dễ chán nản. 2 tháng sau, ai tử trận. Thì thôi. Ai còn sống, phải trở lại quân trường học tiếp. Càng học. Càng biết cách tránh đạn. Càng ít chết. “Thao Trường Đổ Mồ Hôi, Chiến Trường Bớt Đổ Máu”, là vậy.

NGHỆ THUẬT DIỆT ĐẠI PHÁO ĐỊCH: Sau trận đánh Trại Biệt Kích Đồng Xoài (do Toán LLĐB A-342 chỉ huy) tháng 7-1965. Từ đầu năm 1966. Các trại BK biên giới, mỗi trại, hàng đêm nhận không dưới 100 quả đại đại pháo 122ly, 130, 105 ly. Sang năm 1967, cường độ pháo kích gia tăng khủng khiếp. Mỗi đêm 200-300 quả. Số thương vong BK tản thương không kịp. Các trại BK thủ vai trò tiền đồn cho cả nước. Bởi thế, “ăn” đạn đại pháo địch trước các sư đoàn bộ binh VNCH đóng quân sâu trong nội địa VN. Mãi đến năm 1970, Biệt kích chuyển qua Biệt Động Quân Biên Phòng. Năm 1971 đóng cửa các trại BK. Biên giới VN bỏ ngỏ, đại pháo CS trút như « mưa dầm” xuống các doanh trại bộ binh, các quận lỵ, tỉnh lỵ trên toàn lãnh thổ. LLĐB lập tức thay đổi chiến thuật phòng thủ.
1- Nhử địch bao vây trại.
2- Truy kích, bắn tỉa, hạ các toán tiền sát pháo binh địch.
3- Đến tận ổ, ném lựu đạn napalm, bắn hỏa tiễn TOW, tiêu diệt các khẩu đại bác địch.
4- Tung các toán cận thám dập nát các ổ phòng không.
5- Đem ra bên ngoài 4 đại đội, hành quân đêm, giữ lại 1 Đại Đội Chỉ Huy phòng thủ trại.
6- Trong 4 đại đội, 2 đại đội phụ trách kế hoạch 2, 3, và 4. Hai đại đội di chuyển xa trại 3 cây số, rải quân phục kích xung quanh trại.

Từng tổ 3 người. Đào hầm tam giác. 3 người 3 góc. Địch tấn công bất cứ hướng nào, BK cũng dễ bắn yểm trợ cho nhau. Mỗi tổ khoảng cách 15 thước. Trên miệng hầm gát các cây sà ngang. Bên trên phủ cỏ, cây tranh, gai mây, hợp với cỏ cây hoa lá ở khu vực. Ngụy trang thế nào cũng được. Miễn là, khi quân địch di chuyển ngang qua đây, vào tấn công Trại, mà không phát giác được ta.

Các năm 1966, 1967, 1968, 1970, hàng trăm Toán Delta, Lôi Vũ, Lôi Hổ, Tesk Forces, Mike Forces, Biệt Kích… « quậy » tan tành các vị trí đặt đại pháo địch trên đất Miên, Lào, tỉnh Vĩnh Linh, đường mòn Hồ Chí Minh. Theo tài liêu USAID-Vietnam – 1973 – (hiện lưu trữ tại Library of America Congress), 89 khẩu 122 ly, 73 khẩu 130 ly, 118 khẩu 105 ly, 260 khẩu 81 ly bị tiêu diệt gọn. Các chiến lợi phẩm bị giấu nhẹm. Không được mang về VN triển lãm. Lào và Miên có ký Hiệp Định Trung Lập Genève 1962. Nếu phơi bày chiến lợi phẩm này ra công chúng. VNCH sẽ vi phạm luật Công Pháp quốc tế, xâm lăng hai nước Trung Lập Miên, Lào. Điều mà chính phủ Hoa Kỳ không dám rớ tới. Tuy vậy, CIA lại đứng phía sau hết lòng yểm trợ. Tốc độ đại pháo giảm thấy rõ. Từ 300 quả, xuống còn 50. Dần dần 3, 4 quả mỗi ngày. Mất khả năng pháo kích, địch nổi cơn điên. Xua các sư đoàn chính quy tràn qua biên giới VN, bao vây với mục tiêu “bứng” các Trại tiền đồn BK chướng tai gai mắt. Thế là, CS lại lọt vào cái bẫy do Nha Kỹ Thuật đã giăng sẵn (sáng kiến sọan kế hoạch diệt đại pháo địch là Đại Tá Giám Đốc Nha Kỹ Thuật Ngô Thế Linh).

CS Vẫn áp dụng theo Binh Pháp Tôn Tử (Tôn Tử sinh năm 512, trước Tây Lịch, thời Xuân Thu Chiến Quốc. Tôn Tử là Tướng Quốc của vua nước Ngô, tên Hạp Lư. Con Hạp Lư là Phù Sai, lên nối ngôi, mê mệt gái đẹp gián điệp Tây Thi, lọt “lỗ chân trâu” Mỹ Nhân Kế của Phạm Lãi, Văn Chủng, Việt Câu Tiễn mà mất luôn nước Ngô):
“Giương Đông Kích Tây”. Giương Đông Kích Tây là Rầm rộ chuyển quân công khai, phô trương lực lượng, la hét vang trời dậy đất, làm như sẵn sàng đánh phía Đông. Nhưng âm thầm chuyển đại quân tấn công phía Tây, khiến địch không biết đường nào mà đỡ. CSVN mở chiến dịch cương quyết « nhổ chốt” các Trại Biệt Kích Biên Phòng, trưng dụng 2 sư đoàn chính quy 5, 7, và 4 Trung Đoàn Du kích Chủ Lực Miền, chia ra “7 mũi giáp công”, chứ không phải « 3 mũi giáp công”, đồng loạt bao vây, rầm rộ tấn công, với ý đồ “hạ huyệt” các Trại LLĐB : Bến Sỏi, Phước Tân, Thiện Ngôn, Kà Tum, Trại Bí, Trại Trảng Sụp, Trại Đức Hòa, Trại Đức Huệ, Trại Trà Cú, Trại Tống Lê Chân.

Mười Trại thực hiện chung một kế hoạch: Các Đại Đội chủ lực, di chuyển ra khỏi Trại như thường lệ, hàng đêm, phục kích giấu quân dưới hố sâu, cách Trại 3 cây số. Khẩu phần « C-Ration”, đồ hộp Mỹ, mang theo dùng được 2 tuần lễ. Tại sao phục kích xa Trại 3 cây số ? Khoảng cách có tính toán. Quân bên ngoài có 1,50 km an toàn lúc B52 « gặt lúa». Quân trong trại cũng có khoảng cách 1,50km giữ an toàn. Khoảng giữa trận địa, là mồ chôn các đạo quân nào lọt vào đây. Hai trại Đức Hòa, Trà Cú, dân cư VN, Miên, sống quá gần khu vực giao chiến. B52 không thể can thiệp. Oanh tạc cơ chiến thuật, pháo binh đảm nhận. Cộng Sản thuộc lào Binh Pháp Tôn Tử. Sĩ quan LLĐB cũng nhuyễn nhừ Binh Pháp Tôn Tử. Cả hai bên cùng “chơi” Du kích của Tôn Tử. Đều biết « tẩy” lẫn nhau. Vấn đề là, bên nào có óc tổ chức, có bí quyết riêng, bên đó đoạt giải.
Đội hình tác chiến của CS. Thời chống Tây. Thời chống Mỹ. Y chang nhau. Không có gì thay đổi: « Tiền Pháo Hậu Xung. Công Đồn Đả Viện. Phục kích. Du Kích. Đột Kích. Đặc Công, Tấn Kích. Tổng Tấn Công”. Các “liệu pháp” lỗi thời này. Biệt Kích biết hết. Nên dùng gậy ông đập lưng ông. Khai hỏa pháo 122 ly, 130 ly, sợ các Toán Biệt Kích bên Miên “luộc chín”, bèn dùng xe bò kéo 105 ly, 81 ly đặt gần các Trại để diễn kịch bản « TIỀN PHÁO”. Các Toán Biệt Kích diệt Đài Trinh Sát địch, nhận diện vị trí pháo, diệt các ổ phòng không, đang tuần tiễu khắp các truông rừng, bao xung quanh trại, chờ địch xuất hiện là “nhổ cỏ”. Đúng giờ N, hai Trung Đoàn địch có mặt. Cấp chỉ huy chia quân ra 2 « nhánh”. 1 Trung Đoàn đánh biển người vào Trại. 1 Trung Đoàn đóng chốt hạ quân tiếp viện. Địch di chuyển ngay trên đầu quân BK đang phục kích mà không hề hay biết. Theo binh pháp, địch không thấy ta, ta có 90% thắng. Hôm đó, đêm 30, trời tối đen như mực Tàu. Đúng 23h, 8 khẩu 81 ly, 5 khẩu 105 ly, rót như mưa trút vào trung tâm Trại. Đại pháo 122 ly, 130 ly còn chưa ngán, xá gì mấy loại pháo hù con nít này. Trại im lặng, bất động, không có một phản ứng gì, dù 1 viên đạn 82 ly bắn đáp lễ. Phải đợi. Đợi nhận diện đủ các vị trí pháo địch do các toán viễn thám gởi về. Và, đợi địch từ bốn hướng Đông, Tây, Nam, Bắc la hét xung phong long trời lở đất, thề «ăn gỏi vét sạch dĩa” Trại Thiện Ngôn, không chừa một thằng BK ác ôn nào sống sót. Sau 5 tiếng đồng hồ pháo nhừ tử vào Trại, BK vẫn không phản ứng, địch hiểu lầm, tưởng Trại đã bị pháo chôn sống, chết trọn gói rồi, bèn ùn ùn mở đợt xung phong đầu tiên. Hàng rào mìn thứ nhất nổ vang dội. Xác địch văng tung tóe. Hỏa lực 1 của Trại khai hỏa. Địch hơi khựng lại. Pháo 175 ly của Hoa Kỳ “gởi » trúng phóc hàng trăm quả xuống “địa chỉ” pháo địch. Các khẩu 81 ly, 105 ly câm họng ngay từ phút đầu xung phong. Phi cơ oanh tạc chiến thuật F-5E, F-5F Tiger II liên tục dội bom lửa, bom nổ chụp, bom phá hầm ngay trên đầu Trung ĐoànĐả Viện. Gunship Corbra suốt đêm “trải chiếu” rocket vào từng cánh quân xung phong của địch. 6 giờ sáng, hàng rào thứ 3 phát nổ, thì đợt xung phong thứ 4 của địch cũng yếu dần. Trung Đoàn Đả Viện, sau một đêm nuốt bom, nuốt pháo 175 ly, quân số rụng gần phân nửa. Bỏ vị trí đóng chốt, rút qua phía quân Công Đồn, tiếp viện, và, tiếp tục xung phong vào Trại. 8h sáng, B52 lên vùng, trải thảm rất đẹp mắt. Xác địch được chôn tập thể dưới các hố bom lớn hơn một đìa nuôi cá lóc. Vừa khi đó, 3 Đại Đội BK phục kích 3 hướng khác nhau, nằm im cả đêm, tung nắp hầm, đứng lên hô xung phong khắp mọi nơi. Hỏa lực của 3 Đại Đội : 144 x 3 = 432 khẩu súng đủ loại, nhả đạn cùng một lúc, giống như « rải lúa” gieo mạ. Đánh sau lưng. Bắn từ phía sau lưng. Cộng với yếu tố bất ngờ. Địch chịu đời gì thấu. Một tiểu đoàn tàn quân còn lại, cấm đầu rút bỏ chạy qua Miên.

Vào những năm 1967, 1968, 1969, 1970, các Trại Biệt Kích Biên Phòng vững như bàn thạch, không bị pháo kích triền miên, địch tràn ngập xâm chiếm Trại như các năm 1963-1965. Nhờ thay đổi chiến thuật diệt pháo, diệt phòng không, diệt tăng, nhử địch xuất hiện tấn công hoặc bao vây Trại. Dụ địch xuất đầu lộ diện, BK đánh Du Kích ban đêm. Ban ngày xử dụng phi cơ và pháo binh tapis địch.
Theo tài liệu MAAG – Viet Nam - 1970 – (Military Assistance Advisory Group) và USOM 1971 – Viet Nam (United States Operation Mission), con số thương vong của Biệt Kích không phải là nhỏ. Từ 1961 đến 1969: Tử trận. 76.520. Bị thương cấp độ tàn phế: 20% – 100%: 162.000.

Tháng 1-1970, VNCH giải tán Biệt Kích, chuyển thành Biệt Động Quân Biên Phòng. BĐQBP làm lực lượng tổng trừ bị, đi tiếp viện quân bạn trên 4 vùng Chiến Thuật. Đánh giặc theo lối đánh quy ước, tập trung, vận động chiến, rồi biến thành một đạo quân rày đây mai đó, án ngữ, giữ đồn, giữ quận, tương tự như lính Nghĩa Quân, Địa Phương Quân. Sở trường của BK là đánh lén, đánh lẻ, đánh ban đêm, du kích, phục kích và cận chiến. Nhận thấy không thích hợp với lối đánh của mình nữa, 40% người Thượng, Miên, Tài, Mường đào ngũ mà không có thể khiển trách được họ. Theo Hiến Pháp VNCH ban hành năm 1967: “Các sắc tộc người thiểu số được miễn thi hành quân dịch” – (trong số đó có nghệ sĩ Chế Linh). Các năm 1971, 1972, 1973, lần hồi đóng cửa các Trại BĐQBP. Biên giới VN bỏ trống, CS « di tản” trên 20 sư đoàn, 3000 khẩu pháo binh loại tầm xa lẫn tầm gần, qua VN, tấn công sâu vào nội địa VN, chiếm đóng quận, tỉnh. Mở các chiến trường lớn nhất trong chiến tranh VN như: An Lộc, Kon-Tum, Quảng Trị. Sau cùng, chiếm Ban Mê Thuột. VNCH thua trận. Thua trận không phải vì Mỹ bỏ rơi. Vì tham nhũng. Vì bọn nằm vùng. Bọn phản chiến. Thua trận do nguyên nhân mà chúng tôi đã trình bày đầy đủ trong tài liệu này.

Không có nhận xét nào: