Vào Trảng Lớn sau 2 ngày lăn lóc ở trường Taberd và một đêm âm thầm di chuyển tôi và mọi người bước vào trại tập trung, hơn 250 người được đưa vào một khu, đó là khu gia binh của sư đoàn 25 của VNCH trước ngày 30/4/75, khu này gồm 6 dãy nhà, mỗi dãy 10 căn, được đưa vào dãy nhà 3 căn số 3 ,cũng quen với những cuộc cắm trại nên vừa bước vào nhà , thấy nhà trống không, chẳng có bàn ghế gì cả , nhanh tay móc trong túi xách ra cái võng , chỉ trong 5 phút là đã có vị trí ổn định, rồi ra sao thì ra.Sau đó vệ binh dắt anh em ra phi trường Trảng Lớn cách đó vài trăm thước để tháo gỡ những tấm vỉ sắt lót trên phi đạo để về làm chỗ ngủ,
<!>
Nhìn phi trường nhớ lại lúc trực thăng thả tiểu đoàn 73 /BĐQ/BP chúng tôi nơi đây sau khi ở An Lộc về, lúc đó người ngợm đất đỏ bám đầy , về tới đây thì căn cứ Thiện Ngôn không còn , nên trú đóng tại Trảng Sụp và trở thành lưu động tăng phái cho vùng 3, cũng cảnh cũ nhưng buồn não lòng cho số phận đất nước.
Cũng không lâu sau đó một láng bằng vỉ sắt được hoàn thành dọc theo chiều dài căn nhà, nhà ở có đủ mọi thành phần, chỗ nằm rộng khoảng 8 tấc, nằm bên trái là bác sĩ Nguyễn Khắc Minh, ông này là giáo sư đại học y khoa môn gây mê, bên phải là bác sĩ Đỗ đăng Mỹ là bác sĩ ở bịnh viên Cảnh Sát, ông Mỹ nay cư ngụ tại Chicago, còn có bác sĩ Hồ đắc Đằng, kế tiếp là tay trung úy trinh sát của sư đoàn 7 đã giải ngũ vì thương tật, một số chuyên viên điện lực như Phạm đắc Mãng, Nguyễn bạch Đằng , Nguyễn văn Lộc ; giáo chức thì có tôi, anh Uyên, anh Phí đình Trâm, luật sư Nguyễn văn Tài, còn có Trần gia Hỷ, Nguyễn văn Hy, Trần văn Quý , có cả phó tổng giám đốc nha kế hoạch Cao thu Hiền.
Ba tháng sau có vài người được về, những người này được bảo lãnh, gồm bs Nguyễn Khắc Minh, bs Bùi duy Tâm, bs Hồ đắc Đằng, Phạm đắc Mãng, có cả bác sĩ trưởng của trường bộ binh Thủ Đức .
Số phận những người còn lại chờ « học tập tốt, lao động tốt sẽ được cứu xét, khổ một cái trong tự điển tìm mãi cũng không thấy định nghĩa được những chữ « học tập tốt » này , cũng vì những chữ này mà có một số kẻ muốn giác ngộ để học tập tốt đã nhận làm tay sai đi báo cáo cho cán bộ trại những tư tưởng của anh em, mà trong trại có một chữ dành cho bọn này là » Ăng ten » chắc là họ tự biện minh cho hành động này là « trong thời thế, thế thời phải thế »
Có thể nói nguyên cái thời gian đi tù, nơi đây là thoải mái nhất cứ » vui chơi tắm giặt » tới phiên ai thì xách thùng đi tưới rau, mà chỉ có một miếng đất bằng cái « dạng háng » ngoài phi trường, phi đạo được dùng cuốc chim cuốc lớp xi măng lên, rồi gánh đất trộn phân xanh lên là xong, đúng là « có sức người cục cứt cũng thành cơm mà », hình như câu này « bác » đã dạy dỗ các cháu, còn lại tha hồ đục đẽo, chạm khắc với những miếng thép được nhặt nhạnh từ nhũng mảnh của máy bay bỏ phế tại phi trường, đàn địch cũng được những bàn tay khéo léo tạo nên, một số còn lại cưa gỗ làm những bộ Domino hay những bộ mạt chược , tôi cũng tập tành trò mó máy , xoa xoa này khi ở tù . Cũng tại nơi đây có 1 lần cho phép cải tạo được nhận quà của thân nhân bằng đường bưu điện , sau đó cứ 6 tháng thì được phép thăm nuôi 1 lần.
Vài tháng sau có một nhóm tù từ Phú Quốc về nhập bọn, hộp thơ của nơi đây là L3T2 ,lo buồn nhưng cũng có lúc « nhộn » nhất là lúc cán bộ quản giáo điểm danh tới vần L , cả đám được dịp giễu cợt .
« Anh Nê văn Nong, Ný thái Nong, Nguyễn văn Nợi, Nê văn Nộc anh Ný văn Ninh…. »
Khi điểm danh Nguyễn quốc Sủng, lại bị đọc là Nguyễn cuốc Xẻng, anh này chạy lên đính chính xin sửa lại, anh liếc vào thấy ghi mình là « cuốc » chứ không phải là « quốc » anh lại đính chính » Thưa anh, tôi quốc « cu » chứ không phải cuốc « xê », tên vệ binh quay sang nạt lớn » Nôi thôi cuốc nào chả nà cuốc », thế là cả đám ở dưới nhại lại câu nói này và từ đó trở đi không còn cái tên quốc Sủng nữa mà anh em gọi hắn là « cuốc Sẻng ».
Tên Sủng này cũng « bựa » lắm, có lần một bộ đội có chiếc xe Honda không biết bị hỏng ra sao , xuống trại nhờ anh em xem có ai biết sửa thì giúp hắn, tên này nhận lời , đến nơi hắn ra vẻ thành thạo, tên kia đem nước trà thuốc lào cho hút, sau khi mở bung máy xe ra rồi ra vẻ ngớ ngẩn không biết cách sửa, cũng không ráp lại được ,chịu thua, báo hại « thằng em » phải gói lại đống phụ tùng bừa bãi đem ra tiệm , trước khi về hắn còn gãi đầu gãi tai ra chiều tiếc không giúp được rồi vừa hỏi vừa véo một nhúm thuốc lào của thằng bộ đội mà xin đểu vài bi, về đến nhà hắn bô bô kể lại, cả đám cười nghiêng ngả .
Dãy này còn có nhiều người khác như bs Nguyễn quý Đài, khoa trưởng đại học y khoa, Nguyễn thái Long , tổng thanh tra bộ giáo dục, Ls Nguyễn sơn Hà còn một Ls khác tên là Công, anh ta tự xưng là « thiếu tá lỗ » Công, được giao cho chăm xóc mấy » cậu mợ lợn » trong trại, cũng thuộc tay tiếu lâm có hạng, còn có Ngô đinh Nhung , Trần thiện Tích , hai người này là thanh tra giám sát viện cũng là hai cái máy phát trong những buổi thảo luận, anh Nhung tay chân khéo lắm, bộ mạt chược đầu tiên trong trại có công sức anh cưa mài chạm trỗ.
Nói nào ngay chỉ ở chỗ này là thoải mái nhất trong lúc đi tù, cũng ở chỗ này mà tôi có tên là Ara Phát, thoạt đầu chỉ hay đi chôm chĩa rau , trái của bộ đội trồng đem về cho anh em cải thiện thêm, còn vặt được cả một túi lạc( bộ đội trồng)đem về , tối nấu chè .
Hôm đó tới phiên, ra cánh đồng « bằng cái dạng háng » để tưới phân tươi , đám bộ đội hay còn được gọi là » bi đông » cũng canh tác gần đó, tụi nó bảo tôi chơi bạo, thối quá , chúng bỏ đi, nhìn liếp đậu phọng của nó mỡ màng dục lòng tham mà lại kèm theo trò nghịch tinh, lén chờ tới lúc thuận tiện nhổ một liếp cây đậu phọng vặt hết hạt đậu ở dưới , hồi nhỏ đi học đâu có biết cây đậu phọng nó thụ phấn như vậy đâu , thấy hoa ở trên , ban đầu chỉ nghĩ là phá chơi đâu biết hột nó lại nằm dưới rễ, thấy vậy thú quá, chơi luôn hạt một luống dù chưa lớn lắm, xong cắm trở lại, cây vừa tưới xong, thấy còn xanh ,sau đó, bỏ vào thùng tưới cây cắt thêm một mớ rau bỏ lên trên ngụy trang . Đến cổng vào, báo cáo với vệ binh là đi thu hoạch rau ,thế là xong ; chiều đến « bi đông » ra tưới cây thấy ngọn cây chỉ hướng 6 giờ, chúng kéo lên thử mới phát giác, lại tưởng là đám bạn bè nó chơi chứ đâu nghĩ đến đám cải tạo dám vuốt râu hùm, tối ngồi ăn chè tụi nó gọi cho cái tên là » Ara chôm, Ara chỉa ».
Một hai ngày sau có một vệ binh đến phòng và gọi đích danh « anh Phát » ra để hỏi chuyện, mọi người nghĩ là đã bị ăng ten báo cáo ,có phần lo lắng giùm, Ara Chôm cũng binh tĩnh ra gặp, nó lại bảo xuống bếp nói chuyện riêng, trong lòng không biết là gì, hỏi khai lý lịch có chính xác không, tôi khẳng định không sai, nó nhìn một lúc rồi bảo, anh đồng hương với tôi . Ha ha, thì ra Sáu Xích Đằng gặp đồng hương, vẫn bình tĩnh để dò xét xem hắn muốn gì , sau một hồi truy nguyên gia phả, cả hai chẳng dây mơ rễ má gì cả, chỉ là người cùng làng, lúc đó mới nói đùa « phải chi bố tôi mà gặp mẹ anh có khi tôi với anh là anh em cùng cha khác mẹ », nó cũng cười theo, từ đó cần gì nhờ nó mua ,nó cũng ngoan, lại gọi là anh xưng em thật ngọt , lúc đó anh em nhờ mua cà phê , thuốc lào , đường.. chắc anh ta cũng có chấm mút tí ti chứ dễ gì đạp xe mua không cho mình . Vào cái thời đểm đó chủ tịch AraFat thủ lĩnh đám Palestine đang quậy phá và lúc đó được gọi là thủ lĩnh tháng 9 đen, mà mình lại tên Phát tụi nó đổi Ara Chôm thành Ara Phát , ông trùm L3T2, cần gì có thằng đệ tử hậu cần lo hết. Nó được « về vườn », từ giã về Xích Đằng , thế là hết nguồn cung cấp càphê thuốc lào . Khi anh em ở Phú Quốc về bộ đội giao Ara làm bếp trưởng của khối 3, chuyển về tổ « anh nuôi » lúc đó có 8 người , có 1 anh Tâm là giáo sư đại học Hòa Hảo; Khang là phi công lái Boeing của air VN,còn có 1 giáo sư trường văn khoa quên tên rồi, thuế vụ Lê hồng Đức, thằng Điều quân cảnh tư pháp, Chức cán bộ canh nông, có Lê kinh Hồng làm ban 3 sư đoàn 25, sau này lên Cây Cày, Hồng trốn trại chung với anh Thịnh ; Nguyễn ngọc Đức đang ở Arlington, cán bộ trường bộ binh Thủ Đức , gọi là » Đức gà » vì lúc đó hắn nuôi 1 con gà trống, ảnh mặc quần xà lỏn đầu chải bóng láng , ôm con gà trông giống chủ trường gà lắm.
Nói đến gà không thể thiếu chuyện « Ara chôm » gà của cán bộ.
Mẹ kiếp, mấy thằng ngồi hút thuốc lào vặt ở hiên nhà rầu thúi ruột không biết ở đến bao giờ, nhìn ra bờ rào có chị mái mơ vểnh phao câu trông thật ngon lành, một thằng trong đám nói thèm ăn cháo gà, bất giác mấy thằng nhìn nhau ra chiều « nhất trí », tôi cùng với Cường « hải tặc » lãnh nhiệm vụ giải giao chị mái mơ về tổng đàn . Nói thì nghe mạnh miệng nhưng đâu dám làm, làm sao mà nuốt trôi với đám » ăng ten », chỉ có cách nào mua được là hợp pháp thôi, thằng em bộ đội giờ không còn, mà tiền giấu diếm không nộp cũng gần hết, chắc chỉ còn cách ăn hàm thụ, bỗng thấy cái kim may của ai rơi ở đất còn dính một sợi chỉ khá dài, cái kim cũng đã rỉ sét, hắn nẩy ra ý kiến « thay vì câu cá mình câu gà » mới bẻ cong cái kim làm lưỡi câu, nối thêm sợi dây cho dài thêm, móc vào lưỡi câu con gián rồi cục tác gọi mái, chị mái mơ nhìn thấy con gián ngọ nguậy nên nuốt chửng cả dán lẫn lưỡi câu vào bụng, thế là dắt nàng về dinh . Bắt được rồi ; ngồi nói chuyện thì nói thánh nói tướng, đến giờ bảo cắt tiết không thằng nào dám làm kể cả thằng chủ mưu, ở thế cưỡi cọp không biết làm sao Cường hải tặc thẩy gà xuống giếng, chiều về, bộ đội gái bập bập gọi gà về nhưng không có bóng dáng, chị chạy hỏi khắp nơi , hai vợ chồng hắn bổ xô đi tìm nhưng cũng không có dấu vết, chửi bâng quơ một hồi rồi cũng thôi, chắc là đang rủa mấy thằng vệ binh, chỉ có đám này mới dám bắt chứ cải tạo thì cho kẹo cũng không dám.
Cả đám ngồi cười ; sáng hôm sau hắn gọi chị » lính cái » này mà bảo là tôi thấy con gà chị tìm tối qua chết dưới giếng , thôi để tôi xuống giếng vớt lên cho chị thịt, chị nhìn xuống giếng thấy rõ là gà của mình, tôi bồi thêm » chẳng sao cả , gà chết ăn cũng ngon vậy » . Sĩ diện, chị bảo thôi tôi không lấy, các anh làm gì thì làm, tụi mày nghĩ xem hắn phải làm sao đây . Ăn một cách quang minh trước mắt của những ăng ten , và từ đó cái tên Ara Phát được lan truyền .
Chuyện trung úy pháo binh Ngô Nghĩa bị tử hình
Ngô Nghĩa khác láng với tôi, biết được vụ xử bắn là do cán bộ tuyên bố trên hội trường. Ngô Nghĩa thuộc pháo binh sư đoàn 18, anh ta có gom góp được vài quả lựu đạn , còn sót lại trong các hầm phòng thủ tại Trảng Lớn và dùng những thứ này để phòng thân khi vượt trại .
Ngày giờ thì không nhớ nhưng biết là anh trốn ra khỏi trại vào ban đêm, lúc gần sáng anh mới tìm cách vượt qua khỏi hàng rào, không may cho anh ta có một toán vệ binh đi trên đường bắt gặp , truy đuổi , anh quăng lựu đạn lại làm hai vệ binh bị thương , lúc đó trại báo động và bắt được người hùng Ngô Nghĩa .
Những điều viết lại là do lời kể của nhân chứng đi dự cuộc hành quyết , ông Đinh tiến Lãng; khối trưởng, bị bắt đi xem kể lại.
Lời trình tội trạng và kết tội một phía của một phiên tòa mà bị cáo không được phép biện hộ, lúc đó Ngô Nghĩa bị trói giật cánh khuỷu, bị nhét quả chanh vào miệng, những người đi dự khán chỉ hiểu theo một chiều của lời buộc tội là trốn trại, có hành vi chống đối và làm bị thương bộ đội, phiên tòa chớp nhoáng, không lời biện hộ, phạm nhân không được nói, chỉ được biết như vậy trên hội trường lúc đó tên chính trị viên tiểu đoàn L3T2 bắt lên hội trường để nghe và thảo luận vấn đề này , đó là những điều nói ra để có tính cách răn đe, cũng hết 1 ngày thảo luận chuyện trên.
Chính trị viên báo cáo chuyện này tên là Liên ,mang cấp bậc thượng úy, được anh em gọi là Thượng liên, mỗi lần phải lên hội trường nghe hắn nói , anh em bảo là lên nghe thượng liên nổ , trạc 40 tuổi nói chuyện hay khoe, là học sinh « trường tây Hà Nội », giác ngộ đi theo cách mạng, thỉnh thoảng bày trò một vài tiếng tây bồi ra vẻ là biết tiếng tây mà là tiếng tây như kiểu báo cáo của những « bầy tôi » hay bồi tây » me sừ , đơ cu li ma lát, cát cu li hàng rào/lủy bớp, mè lủi bá bớp ,lủi đớp me xừ , lủy xực luôn moa » , có lần hắn xuống trại thấy tôi đang đập tôn cho phẳng để Hoàng Lộc gò mấy cái thùng tưới cây có vòi sen, Hoàng Lộc gò khéo lắm ; Thượng Liên sán lại vờ nói dăm ba câu chuyện, xong nhờ gò cho hắn 1 thùng tưới cây giống như cái đang gò :
» Anh này, anh làm hộ đoàn một cái vô -loa nhé « .
Tôi đố mọi người biết cái vô-loa là cái gì nào…hàhà ; thì ra hắn bắt chước ai nói chữ AROSOIR, chắc là nhẩm đi nhẩm lại trong đầu cho nhớ rồi nói cho HL với tôi nghe loại tiếng »Tây Vàm cỏ đông » của hắn . HL nín cười trả lời đểu .
» Anh à , cái vô loa không tốt lắm đâu để tôi gò cho anh cái vô- lum (volume) cho nó to » , hắn hỏi lại
» Thế vô lum khác vô loa như thế nào »
« – Dạ thưa anh vô loa không có nắp còn vô lum có nắp ». Bấm bụng nín cười , hắn đi rồi hai thằng tối về quán cà phê kể lại chuyện , anh em được dịp biết thêm 1 câu chuyện khôi hài đen về « cái vô lum ».
Đinh tiến Lãng là khối trưởng, trước ông cũng là giáo sư toán khá nổi tiếng ở Sài gòn, không là học sinh của ông nhưng cũng biết, ông sinh cuối thập niên 30 không học ông toán mà lại là đệ tử ông môn « mà chược » nhờ vậy cũng biết chút ít .
Ông Lãng trong trại được nhiều người quý mến, bài báo cáo của ông tại hội trường được anh em tán thưởng, phát biểu không xu nịnh, có chút tự hào cho anh em cải tạo, có thể nói những bài viết, phát biểu của ông trình bày trong những dịp lễ, lý luận chắc chắn ,hợp lý, chẳng khác nào chứng minh một bài toán hình học, tụi chính trị viên tiểu đoàn cũng cũng nể phục .
Đi chứng kiến vụ xử tử này về, sẵn trớn ông giả điên luôn, nói năng linh tinh, nhưng xét tận cùng thật khôn ngoan, giả điên khéo đến nỗi ông đi lang thang khắp trại, cầm cái xe điêu thuốc lào múa may, khi thì xưng là con của Phạm văn Đồng lúc chỉ vào mặt người khác mà nói mày là con của Trường Chinh, Lê Duẩn , mắt cứ như ngây như dại, điên chắc cũng không thua gì Bùi Giáng. Có lần đoàn cử chị y tá xuống chích thuốc cho ông ta vì lúc đó ông la hét quậy phá, bà này vừa vào đến phòng thì thấy ông ta trần truồng như nhộng nằm trên giường đòi làm nhục bà này nếu bà bước vào, sau đoàn để kệ ông ta ,ông đi lang thang trong trại ngày đêm nói năng lung tung, làm nhiều người hoảng, nhất là ban đêm ông bước vào bất cứ phòng nào cầm xe điếu vụt lung tung, giựt mùng màn của người khác rồi xin lửa hút thuốc lào , nhiều thằng kéo ông vào cho hút rồi đẩy ông qua phòng khác, có hôm đến nửa đêm ông còn lang thang.
Lúc đó trưởng trại là một thiếu tá gọi là Bảy Đức, dân lục tỉnh ,tay này chắc cũng thuộc loại chịu chơi, lần đầu thấy vệ binh đè ông ra nện cho một trận vêu mõm, thông cảm người tâm thần cấm vệ binh đánh ông ta, nếu ông không bước ra khỏi hàng rào ngăn cách, dặn các khối trưởng để mặc ông ta, được thể ban đêm đi lung tung xin lửa, anh em gọi ông ta là » Độc Cô Cầu Hỏa », có ở trại này mới thấy, nếu ở trại khác chắc ông đã bị tụi nó bầm dập hoặc bị chết rồi, mà ở trại khác chắc sư phụ cũng không dại chơi trò « Tôn Tẩn giả điên » một thời gian sau ông Lãng được cho về, không rõ theo diện nào.Trước khi về ông nháy mắt cười vói Ara và dúi vào tay hắn một gói thuốc lào, Không biết có phải thầy giả điên qua ải hay không nữa ,hình như thầy cũng đang ở Cali . Khi nhập thêm nhóm anh em từ Phú Quốc về hộp thơ đổi là L1T5 , vẫn là 6 dãy nhưng do nhập lại hai khu nên mỗi dãy 20 nhà.
Thủ kho kiêm bếp trưởng
Lúc họ giao cho Ara công việc thủ kho và nhà bếp, tối đó tụ tập nói láo với nhau, hắn cầm quyển Kiều của một người bạn, đùa với cả đám « Tao bói thử xem công việc làm ăn này có khá không . »
Cầm quyển Kiều nhại giọng mấy thầy bói « Lạy vua Từ Hải , lạy vãi Giác Duyên , lạy tiên Thúy Kiều cho Ara một quẻ « . Quẻ ứng với câu
Đã mang lấy nghiệp vào thân
Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa
Thiện căn ở tại lòng ta
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài .
Chỉ là xin quẻ trong lúc đi tù, ai ngờ lại ứng cho đến năm 60 tuổi với cái nghiệp « nhà hàng » .
Người ta bảo là » giàu nhà kho no nhà bếp » Ara vừa thủ kho vừa là bếp trưởng, họ lấy 1 căn nhà để làm nhà kho, mà có gì trong kho đâu mà giàu, lương thực và thực phẩm cứ 3 hay bốn ngày phân phối một lần, rau anh em trồng thu hoạch rồi đem chia đều cho các bếp, như vậy tiền rau không phải trả, tụi nó lấy phần tiền rau này chia làm ba : một phần dùng để tái sản xuất , một phần anh em cải tạo hưởng , phần còn lại làm quỹ phúc lợi , đấy là nguyên tắc kế toán của XHCN, rau được tính theo giá mua quốc doanh , mỗi tháng tiền tiêu chuẩn cho một cải tạo là 15 đồng , trừ 9 ký gạo theo giá quốc doanh hết khoảng đâu 4 đồng gì đó ,nếu rau mình nộp đủ không phải mua thêm ở ngoài thì dùng số tiền còn lại mua thực phẩm, nếu rau nộp dư thì tụi nó điều phối đi chỗ khác trong doanh trại và được tính thành tiền sinh hoạt mỗi tháng, mỗi tháng được cấp 2,40 đồng gọi là tiền nhu yếu phẩm bao gồm đường, sữa, kem đánh răng, thuốc lào, thuốc lá có khi có cả dầu hôi đốt đèn…
Cứ mỗi tháng phải tổng kết số chi thu và báo cáo, chỉ là số liệu mỗi lần đi lãnh hàng và đơn giá, còn bên trong như thế nào thì chịu, ba cái vụ kế toán này dễ nhập nhèm lắm ; giữa kế toán, thủ quỹ và thủ trưởng đồng thuận là mọi việc êm xuôi, có thằng cải tạo nào biết mà dám chất vấn đâu. Chính họ còn có câu « Thủ kho to hơn thủ trưởng , nhưng tới nhà thủ trưởng tưởng là cái nhà kho » ừ mà thôi cái chuyện này đem ra nói thì tới tết Congo cũng chưa hết.
Cái sướng của tổ nhà bếp là học tập chính trị đại khái thôi, thời gian cả đoàn lên lớp nghe tụi nó » nói giăng nói cuội » thì tổ nhà bếp chỉ phải ngồi chịu trận tới 9 giờ, sau đó phải bảo đảm bữa ăn nên được ra về để đến 11.30 anh em học tập xong về có cơm nóng ăn để còn kịp lên lớp buổi chiều hay còn phải thảo luận tổ…hà hà anh nuôi mà. Cũng phải thảo luận mà chỉ có tính cách đối phó mà thôi .
Đi lãnh hàng một thời gian ngắn hắn tìm ra cái yếu điểm của đám hậu cần ; Khi gạo nhập về chúng bắt anh em xổ bao ra hết , đổ gạo vào một cái cót lớn hình như miền nam gọi là cái lẫm gạo, cũng không rành cái tên gọi lắm; lý do là phải trả bao cho nơi cung cấp , tránh gạo mốc và phát chính xác cho từng đội, trong khi bao gạo có trọng lượng ghi rõ ràng, rồi sau đó kêu lên cân, lãnh gạo đem về cho từng bếp, mà cân là loại cân xách, có quả cân kéo để đọc trọng lượng, cái loại cân kiểu này dễ nhập nhèm, các bếp lãnh gạo về nấu cơm lúc nào cũng thiếu, anh em ăn không no, kêu ca , tụi nó cho người đứng ra kiểm soát cũng vậy mà thôi, nhà bếp đâu có bớt phần gạo nào đâu, tại sao không kiểm soát thủ kho lúc cân gạo. Biết đó là thủ thuật của giặc, mà mình thì thấp cổ bé miệng nói ra có thể bị vạ lây . Nhẩm lại trong đầu cái kiến thức về cân, đong, đo, đếm của tụi nó và đã tìm ra đòn » gậy ông đập lưng ông « .
Về sau mỗi khi cân gạo đi kèm với tên Điều , thằng này là quân cảnh, cao lớn hơn hắn gần 1 cái đầu, hai thằng ngang nhau thì dễ cân, dễ gánh nhưng thằng cao thằng thấp, lại dùng cây đòn ngắn lúc đó bao gạo có khuynh huóng nghiêng sát vào người thằng thấp, thằng này chỉ việc dùng chân nhích bao gạo lên chút xíu là có dư từ 3 đến 5 kg, chỉ khổ cái là khi gánh gạo đem về cây đòn ngắn hai thằng đi không đều Ara thấp người chịu hơi nặng, lần nào lãnh gạo về đong lại bằng lít lúc nào cũng nhỉnh hơn thực tế , thế là bếp không thiếu cơm , mấy bếp khác thắc mắc tại sao tụi nó thiếu ,mình chỉ cười mà trả lời là anh em bếp 3 khéo nấu.
Gạo thóc được xếp vào « mặt hàng chiến lược », nói cho anh em thì cũng tốt, nhưng có ai bảo đảm là không đến tai tụi cán bộ không ,tôi không dám, chỉ trong phạm vi đội hơn 250 con người là được, bếp của tôi còn được biểu dương làm tốt công việc , dư gạo cũng không dám nấu thêm nhiều, mỗi chảo chỉ thêm vài ba kg , vậy mà tới khi chuyển trại đi Đồng Ban trong kho còn dư hơn 500 ký gạo , tụi nó kêu lên lãnh gạo cho 3 ngày đi đường để nơi đến tổ chức bũa ăn làm rối trí sợ bị bể, anh em vừa được nhận quà thăm nuôi ai cũng nặng chịch đồ đạc, không ai chịu mang thêm ngoài tiêu chuẩn, chỉ những người ít đồ đạc là nhận thêm để riêng cho mình, còn hơn 500 ký tại kho của hậu cần phát vẫn chưa nhận, không biết làm sao, lật bài ngửa với thẳng với thằng hậu cần . Nói là anh em vừa nhận quà đợt thăm nuôi nên đồ đạc còn nhiều, đến nơi mới anh em tự túc , vậy số gạo này anh giải quyết, tôi ký sổ nhận gạo. Hắn vui vẻ nhận lời ngay, cũng yên tâm coi như phủi xong việc, đến chiều thằng hậu cần ghé đưa tặng một can 4 lít đế ,2 bánh thuốc lào, một cái võng và một tấm đắp, kể ra là thoát nạn . Hú vía chúng mà truy ra chắc mập mình. Năm 2012 có ghé DC gặp lại « Đức gà » và cái đám 500 thằng lưòi ở Cây Cày tại nhà Đức gà ở Arlington nhắc lai chuyện này thật là vui.
Hoàng Lộc
Rời khỏi Trảng Lớn nhớ lại những vui buồn nơi đây, những khuôn mặt đang ngồi trầm ngâm cho số phận,một thằng ngâm lên
Lũ chúng ta đầu thai lầm thế kỷ ,
Bị quê hương ruồng bỏ giống nòi khinh
Lũ chúng ta lạc loài năm bảy đứa
Ngồi quanh đây mà nghĩ chuyện xa vời
Hắn ngâm chắc cũng không hẳn đúng với bài thơ của Vũ hoàng Chương nhưng nghe thật não nuột. Hắn là Hoàng Lộc, là bác sĩ trẻ mới ra trường năm 74, đầy nhiệt huyết,Không biết có ai còn nhớ vào nhũng đầu thập niên 70,tại trung tâm sinh hoạt thanh niên ở đường Duy Tân gần trường Luật , nổi lên phong trào CPS, trong đó có ban hợp ca Tiên Rồng nổi đình nổi đám do hai nhạc sĩ Hoàng Phúc và Hoàng Lộc (là hai anh em)đảm nhiệm. Hoàng Lộc đa tài, điều khiển một dàn hợp xướng xuất sắc , chỉ trong thoáng chốc có thể sắp đặt cho một bản họp ca ,điều này là do bác sĩ cùng khóa anh gởi cho tôi bức ảnh với vài lời viết về Hoàng Lộc . Ở khu nhà 2 đối diện nhà tôi, cũng lớn con, tối tối hay tụ vào sau cái bếp của Ara mà phê, pháo cười đùa đàn địch để vơi nỗi buồn, sau những người chung nhà có vẻ sợ bị cán bộ trại để ý, bọn tôi dọn xuống khu nhà 6, nhà này do Nguyễn đức Cường, dân hải quân,làm tổ trưởng,Cường cũng người tầm thước, có chút râu quai nón,nếu hắn cầm thêm cái roi cá đuối là y chang thủ lãnh của Vikings, Cường ,một kẻ mã thượng, một tay chơi có phong độ dám đứng mũi chịu sào cho các cuộc tụ tập, mọi người tụ về đây mỗi tối, nơi đây được nghe Hoàng Lộc hát,giọng thật ấm,truyền cảm thêm tiếng hát nghệ sĩ của Nguyễn Hữu Đức,tên này là bạn Ara từ thủa nhỏ, vẫn thường bắn bi đánh đáo với nhau, hồi còn học tiểu học thầy giáo còn tưởng hai đứa là hai anh em , vì hai thằng đều là Bắc kỳ đều là Nguyễn Hữu, tôi là Phát nó là Đức , nhà nó ở đường Bùi Chu,,lên trung học hai thằng học khác trường, sau đó mỗi thằng mỗi ngã nó dạy toán ở Tây Ninh cũng động viên và biệt phái về dạy học lại, gập nhau tại nơi này ,còn có thêm một Trần quang Kỳ trẻ tuổi nổi đình nổi đám cho buổi văn nghệ, là cảnh sát đặc biệt hiện đang sống tại nam Cali .
Gọi là mất tự do nhưng ở L3T2 hay L1T5 tương dối dễ thở hơn các trại khác rất nhiều, quản giáo cũng ít xăm xoi .
Sống với nhau nơi đây đến đầu năm 1977,sau khi ăn Tết Đinh Tỵ chúng tôi bị đưa lên Đồng Ban và từ nơi này lại di chuyển các trại khác nhau.
Tại đây Nguyễn Đức Cường đứng ra tổ chức vượt trại nghe đâu cũng hơn 70 người vượt trại , họ là những anh hùng, trong đó có một số ngưòi tôi quen biết, có Nguyễn Hữu Đức, dược sĩ Nguyễn văn Hào có Văng công Định , tôi có ghé nhà Đức vài lần hỏi thăm,nhưng không có tin tức gì cả, giã biệt tác giả bản nhạc » Tình lữ thứ « . Hoàng Lộc chuyển qua trại khác Hàm Tân hay Long Giao gì đó tôi không rõ và cũng từ nơi này anh đã anh dũng hy sinh. Khi được thả về gặp lại những người ở chung với Hoàng Lộc kể lại cho nghe việc anh bị bắn chết trong trại , nghe thật đau xót cho con người tài hoa . Ngày còn ở chung có lần Hoàng Lộc hát cho nghe bài nhạc của anh bài » Chờ thư » , tôi không nhớ hết,đại khái như
« Sao không viết cho anh
Những giòng thư êm ái
Sao không viết cho anh
Những giòng chữ mến thương
Sao không viết cho anh
Những trang thư ngày trước
Sao không viết cho anh
Những giòng chữ mến yêu
Em ơi viết cho anh , để gợi nhớ cuộc tình
Nhiều hôm,thư về trước sân nhà
Giữa bao tiếng reo hò
Anh lại ngồi ngóng trông
Nhưng thư kia , từng chiếc cứ bay dần , từng chiếc cứ vơi dần… »
(Tấm hình của Hoàng Lộc do người bạn cùng khóa y khoa với anh gửi cho tôi ,1947-1977 )
Nói chuyện tâm linh một chút.
Khi tôi đem bức ảnh chân dung của Hoàng Lộc lên bài viết này, đã làm lớn bức ảnh và ,photo shop lại cho đẹp đẽ , hình như Hoàng Lộc không muốn , làm cách nào cũng không thành , hoặc thành thì chỉ vài ngày sau bị xóa mất dù đã hiện lên trên blog
Xin lỗi anh, anh không muốn , tôi cũng lầm thầm nói chuyện với anh là « sao khó quá vậy Hoàng Lộc , không muốn làm lớn thì Ara để lại nguyên gốc , lần này hình hiện lại « làm tôi cũng giật mình.
(Hôm nay 3/5/2022 ngồi sửa lại bài viết này, tìm lại mãi trong máy mới có lại tấm hình của Hoàng Lộc, cũng lẩm nhẩm xin phép anh vài lời và cũng vừa bỏ vào blog.
H. Lộc, mày đừng làm khó tao nữa nhe !
Cám ơn mày Hoàng Lộc)
Và Hoàng Lộc đã mãi mãi bay xa chúng tôi…!!!
Lộc hay viết nhật ký, cũng vì chuyện này mà anh ta bị chết thảm khi dấu quyển nhật ký vào trong một cái gối để gởi cho người yêu lên thăm trong đó có đoạn là » Làm đầy tớ người khôn còn hơn làm thầy kẻ dại, bây giờ mình lại còn làm đầy tớ cho kẻ dại », cũng vì những tư tưởng này mà bị cho là phản động, tụi công an đánh anh, giận, anh chống trả, Hoàng Lộc cũng là một tay nhu đạo có hạng, tụi nó cho anh về anh vừa ra đến cổng thì nó bắn và bị vu cho là vượt trại, « version » này là do nghe kể lại , có đúng như vậy hay không, tôi không rõ,nhưng tôi thích version này, cho thấy chất hào hùng của Hoàng Lộc.
Đồng Ban và Cây Cày
Giã từ Trảng Lớn; lần thứ hai trong đời phải leo lên chiếc Molotova này,hy vọng đây là lần chót, xe bít bùng, chạy vào ban đêm, chắc là xa dần ngọn núi Bà Đen mà chiều chiều đứng dòm,sao mà số dính dáng nhiều đến mấy bà đến thế, được Bà Rá vuốt ve đâu cũng 3 năm, lúc đi lính cũng đóng ở Bà Đen, Tây Ninh,cũng biết một số địa danh,nào là Kiêm Hanh, Suối sâu, Bến Sỏi, cho đến Cần Đăng, Xa Mát giờ thì được Bà Đen ôm ấp, nhìn hai bà ngán quá rồi,bây giờ lại thấy mặt Bà Đen, thật là mích lòng,không biết ai ở Trảng Lớn có nghe câu sấm này không
« Bao giờ cọc sắt nở hoa
Bà Đen hết đá thì ta mới về. »
Thế mà cọc sắt cũng có lúc nở hoa, anh em gieo trồng mướp, lợi dụng mấy cọc sắt,kẽm gai,rồi đến khi ra hoa,cả đống hoa vàng nở trên cọc sắt, chỉ có núi Bà Đen là trơ gan cùng tuế nguyệt.
Đã đi thì cũng phải đến, chúng tôi đến một nơi có tên gọi là Đồng Ban, vừa đến nơi thì nghe tiếng nheo nhéo của thằng Nguyễn Hữu Đức( Đức Cớp), đám nó đến trước một ngày,tụi tôi cũng được đẩy vào đây, anh em gặp lại nhau lại hứa hẹn mở quán cà phê xập xình.
Vệ binh ngày hôm sau dắt chúng tôi ra ngoài làm việc,trên đường đi , đi ngang một khu kinh tế mới , nhìn những người dân ở đây sống nheo nhóc khổ sở , thấy tội họ quá , chạy ăn từng bữa , nhưng nhìn lại có cảm tưởng họ đang tội cho bọn tù đày này thì đúng hơn , dù gì họ cũng được tự do đi lại , không có người kè kè vũ khí bên cạnh . Đang đi có một cô bé chạy theo nói « chú ơi , con có con chó con , chú mua dùm con đi chú « ,thấy đứa bé lam lũ cũng động lòng,hỏi cháu bán bao nhiêu,cô bé muốn bán 4 đồng để đi mua gạo, sẵn có 5 đồng trong túi,để có dịp thì mua những gì cần thiết,đưa luôn cô bé 5 đồng và nhét con chó con vào bụng,chỉ để thò cái đầu ra ngoài,cũng chưa biết lấy gì mà nuôi,thây kệ nhìn con bé thấy giống học sinh của mình thì mua giúp nó .
Đồng Ban là trại chuyển tiếp, chỉ ở tạm, hơn 50 người ở chung một cái láng, chẳng có giường chiếu gì cả cũng chẳng ai phân công lao động, tự túc nấu ăn, lúc này còn bận thêm con chó, lấy nước cơm cho chút đường vào cho nó ăn, cột sợi dây hai cha con dắt dìu nhau mà sống, là chó cái,đang định chọn cho nó cái tên làm sao cho phạm húy mới vui,lại ngại ở chỗ mới ăng ten báo cáo thêm bớt thì gay go,thằng « Đức Cốp » chọn tên , con của AraPhat thì lấy tên là Ara Tô, lớn lên cho học nghề chôm chĩa của Tía nó, và tụi nó gọi là Ara Tô . Có lúc tôi gọi nó là Bê đê , bi đông hay Bù Đốp những tiếng chúng tôi gọi mã hóa của « bộ đội ».Vừa chạy vừa « chóc chóc » gọi Bi đông , con chó chạy theo , cả đám tù đều cười khi nghe Ara gọi đểu .
Cũng ở trại này tôi có biết biết Hoàng văn Quý, ai ở đây còn nhớ lúc bộ đội (bi đông) có bắn chết một chiến hữu của mình không, tên là Hiểu, Ngô hay là Nguyễn nhớ không chính xác lắm, à đúng rồi lúc có phụ làm mộ bia cho nó, là Ngô nhật Hiểu,là thiếu úy, sĩ quan trợ y , Hiểu bị bắn chết tại hàng rào ngăn cách giữa hai tiểu đoàn, nó cùng tiểu đoàn với tôi.
Lúc chiều lúc tập hop điểm danh, cán bộ trại nhắc nhở không được quan hệ linh tinh với tiểu đoàn bên cạnh, hắn cũng cho biết là trại bên cạnh nghiêm khắc lắm, thằng Hiểu có cảm tình với một thằng bên trại đó, tối đó Hiểu đem quà qua mừng sinh nhật thằng nọ, thằng gác nó để cho qua đến khi trở về nghe hô lên một tiếng và tiếp theo là tiếng nổ của một tràng đạn AK, Hiểu la lớn và xin tha, nhưng lại thêm một loạt đạn thứ hai và im tiếng, chúng tôi nằm trong láng nghe rõ mồn một vì cách chỗ Hiểu bị bắn chưa đầy 20 thước, xác để nằm đó, không ai dám làm gì cả đến sáng hôm sau trại bên cạnh mới giao cho trại bên này, cán bộ trại bảo chúng tôi đi qua đem xác về, Hiểu nằm cong queo trên mặt đất , một mô đất cách khoảng 10m còn vương đầy nhũng vỏ đạn AK, một viên trúng tay của Hiểu vài viên nữa vào ngực,có nghĩa là viên đầu tiên Hiểu sau khi nghe tiếng hô nó dơ tay lên,bị bắn trúng tay,lúc đó Hiểu xin tha và nhận được loạt đạn sau.
Tẩm liệm cho Hiểu là Nguyễn Đức Cường, thi thể Hiểu đã cứng, Cường phun rượu cho mềm cái xác và tẩm liệm ngay ngắn.Trại cho vài tấm ván, anh em cố gắng lo phần hậu sự . Bốn tấm dài, hai tấm ngắn bao phủ xác của Ngô nhật Hiểu, được chôn ở gần đấy; Nguyễn Đức Cường có làm dấu chỗ chôn xác , ghi lại địa chỉ nạn nhân, không biết có còn ai ghi lại không, lúc dó chỉ có 6 người làm việc này . Ngày hôm sau ở bìa rừng Hoàng văn Quý có soạn bài hát cho Ngô nhật Hiểu và hát cho nhiều người nghe, tôi chỉ nhớ có đoạn « Anh dơ tay hàng ,nhưng không được hàng,viên đạn căm thù giết chết đời anh » ; đây là phần điệp khúc của bài hát còn những phần khác trí nhớ kém cõi không không nhớ được hết, không biết sau này ở Cây Cày A , Quý có hát lại bài này không.
Độ hai ngày sau thì điểm danh, và 500 thằng có tên đã được đưa vào trường Quản huấn Cây Cày A.
Cường và một số anh em còn ở lại để đi trại khác, trong khi chờ di chuyển, nhóm của Cường khoảng 70 người đã tổ chức trốn trại ở đây, và không ai biết được tin tức của họ
(Còn tiếp)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét