Bộ Chỉ Huy /HQ Liên Đoàn 12 BĐQ tại Xã Đức Lương, Quận Mộ Đức (Quảng Ngãi) tháng 4/1974. Từ trái qua phải: Đại úy Hòe (Ban 3) Đại úy Vũ (ban 2) Đại úy BS Nguyễn Trung Tín , Đại úy Châu (Truyền Tin), Đại tá Trần Kim Đại và Thiếu tá Nguyễn Văn Gio, Tiểu Đoàn Trưởng TĐ 37/LĐ12BĐQ
Tôi gặp ông lần đầu vào giữa tháng 2 năm 1974. Hôm đó là một buổi chiều bình yên mang màu nắng thật hiền hòa trải lên khoảng sân bóng chuyền của căn cứ Hương An, nằm trong quận Thăng Bình thuộc tỉnh Quảng Tín, nơi có trận đấu giao hữu giữa Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn 12 BĐQ và quân nhân các cấp thuộc Tiểu Đoàn 37 BĐQ- là đơn vị đang làm trừ bị- đóng chung với Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn để bảo vệ cho căn cứ. Lúc đó, Liên Đoàn 12 BĐQ đang chịu trách nhiệm an ninh lãnh thổ tại vùng cực bắc của tỉnh Quảng Tín.
<!>
Trận thư hùng tuy không quyết liệt nhưng rất hào hứng cho dù không có ai trong những người ra sân đã từng là một đấu thủ bóng chuyền. Kết quả sau 2 trận đấu là đôi bên huề nhau 1-1, mặc dù bên Liên Đoàn có ông là người nâng và đập bóng cừ khôi nhứt. Nếu không được Đại Đội Trưởng của tôi nói trước, thì tôi không thể biết ông là vị Liên Đoàn Trưởng của một đơn vị tổng trừ bị trong toàn lãnh thổ của Quân Khu I.
Với khổ người dong dỏng cao, nước da sậm màu, nụ cười thật hồn nhiên mỗi lần đón hụt banh hay đập hư một quả khi lên lưới, cộng thêm giọng nói Sài Gòn chánh hiệu, ông có vẻ như một công chức nghiêm nghị, nhưng bình dị và thân thiện. Chiều hôm đó là một ngày khó quên, với không khí thoải mái và thân tình của một buổi thể thao, để hưởng tạm phút giây yên bình rất hiếm hoi của đời lính trận.
Dù lần đầu gặp ông chỉ là những nụ cười và cái bắt tay lịch sự sau trận đấu giao hữu, nhưng cũng đủ để cho một Cọp "nhí" như tôi thấy lời kể về ông trong đơn vị quả không sai! Ông từ tốn và đơn giản nhưng cân nhắc trong ngôn từ, thái độ, lẫn hành động. Cái "duyên" gặp ông lúc còn trong đơn vị chỉ có lần đó và lần thứ nhì, khi trình diện ông ở Chi Khu Đại Lộc, trước khi về Sài Gòn học khóa Tiếp Liệu Binh Đoàn cuối tháng 10/1974. Đầu tháng 2/1975, khi tôi trở về đơn vị thì ông đã rời Liên Đoàn, để theo học khóa Chỉ Huy Tham Mưu Cao Cấp ở Long Bình.
Gần 40 năm sau, tháng 7/ 2014, tại nam Cali, tôi mới gặp lại ông trong một buổi tối hàn huyên cùng với các niên trưởng và huynh trưởng đã từng phục vụ trong Liên Đoàn 1&12BĐQ. Trong những năm sau đó, tôi có dịp gặp ông đều đặn hơn, khi gia đình tôi thường xuyên qua quận Cam thăm viếng và săn sóc cho nhạc phụ của tôi tại một Viện Dưỡng Lão trong vùng Garden Grove.
Tình thân ngày càng thêm thắm thiết, khi ông và gia đình người con gái út "mở rộng cửa thiền" đón tôi về ở tạm (cho đỡ tốn kém, khi tôi qua Nam Cali nuôi bệnh nhạc phụ năm 2018) lúc đầu dự tính là chỉ vài tuần, không ngờ lại kéo dài đúng 8 tháng! Mấy Niên Trưởng và Huynh trưởng Mũ Nâu bên Cali luôn miệng bảo là tôi... có phước! Vì ông rất ít khi tiếp xúc với ai. Họa hoằn lắm mới đến với anh em Biệt Động Quân vào dịp kỷ niệm của Binh Chủng, hay họp mặt đón Xuân do Cộng Đoàn Nam Cali tổ chức.
Chỉ khi được hỏi thì ông mới trả lời. Có thắc mắc thì ông mới giải bày cho nghe. Tuyệt nhiên, không bao giờ ông bắt chuyện trước, để nói về chính mình hay những sự việc mà ông có liên quan. Do đó, những gì ông tâm tình đều chỉ để nói tới thú điền viên ngày nay và thời gian phục vụ trong quân ngũ, trong đó có những mẫu chuyện liên quan đến công việc huấn luyện tại các quân trường ở Thủ Đức, Nha Trang và Đà Lạt.
Bằng vào thời gian huấn luyện cỡ... lão làng (Huấn Luyện Viên các Khóa Địa Hình, Trưởng Phòng Kế Hoạch và Chương Trình khi còn ở Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức, được cải danh thành Liên Trường Võ Khoa Thủ Đức từ 1957), ông là quân nhân đầu tiên được nhận Huấn Vụ Bội Tinh (mà ông gọi đùa là "Huy Chương Huấn Nhục") của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.
Chí cả bị đóng khung suốt 14 năm trong bốn bức tường thành có lô cốt của các quân trường. Tài thao lược chỉ loay hoay trên các sa bàn trợ huấn của môn Địa Hình khi huấn luyện, nên có thể nói là ông không gặp thời trên bước đường binh nghiệp. Lúc ông vào Lính (Khóa 3 Phụ- Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức, tháng 9/1953) thì chiến tranh chưa tràn lan. Trong 9 năm "thanh bình" của nền Đệ I Cộng Hòa, thì việc thăng cấp cho các quân nhân thường rất chậm chạp.
Ông lên trung úy năm 1954, nhưng mãi tới 1963 mới mang cấp bậc đại úy. Thêm 3 năm nữa, nhờ vào sự can thiệp và đề nghị của chính các đồng khóa đang tùng sự tại Phòng Tổng Quản Trị / Bộ Tổng Tham Mưu, ông mới rời Thủ Đức để về Lực Lượng Đặc Biệt, bản doanh đặt tại Nha Trang và phục vụ trong đơn vị Mike Force, khi thăng cấp Thiếu Tá sau đó không lâu.
Kể từ năm đó (1966) trở về sau, dấu giày của ông lần lượt in trên khắp 4 Vùng Chiến Thuật. Từ những lần giải vây cho các trại LLĐB tại Thất Sơn, Katum, Đức Lập, Cồn Tiên, Khe Sanh...v/v.... đến lúc làm phụ tá Hành Quân cho Chỉ Huy Trưởng BĐQ/QK4 (thời của Đại Tá Phạm Duy Tất) rồi Liên Đoàn Trưởng Liên Đoàn 42 Chiến Thuật (Vùng 4 Chiến Thuật, năm 1970-1972). Nơi đâu ông cũng làm tròn bổn phận một cách xuất sắc.
Vì vậy, vào tháng 4/1972 khi tướng Ngô Quang Trưởng cấp tốc rời Quân Đoàn IV và Quân Khu IV, để thay thế trung tướng Hoàng Xuân Lãm làm Tư Lệnh Quân Đoàn I và Quân Khu I; thì tướng Trưởng- ngoài Ban Tham Mưu thân cận của mình- chỉ đưa vị sĩ quan tác chiến duy nhứt là Trung tá Trần Kim Đại theo ra Đà Nẵng, để giao nhiệm vụ làm Liên Đoàn Trưởng Liên Đoàn 1 BĐQ và góp phần phản công tái chiếm Cổ Thành Quảng Trị.
Trung Tá Trần Kim Đại đã không phụ lòng kỳ vọng của tướng Trưởng! Liên Đoàn 1 BĐQ lấy lại ngay "phong độ" và khí thế sau thời gian bị "lu mờ" vì cuộc hành quân Lam Sơn 719. Sự thành công trong việc tái chiếm cổ thành Quảng Trị đã có sự góp phần không nhỏ của LĐ1 BĐQ, sau khi lần lượt tăng phái cho các đại đơn vị Nhảy Dù, rồi Thủy Quân Luc Chiến suốt từ tháng 5/1972 đến tháng 9 năm đó.
Ông thăng cấp Đại Tá sau trận Quảng Trị và chỉ vài tháng sau, khi Hiệp Định Paris vừa có hiệu lực vào ngày 27/1/1973; thì ông đã cùng Liên Đoàn 1 BĐQ nhập trận tại Sa Huỳnh (quận Đức Phổ- tỉnh Quảng Ngãi) để, một lần nữa, khẳng định khả năng điều binh thần tốc và hiệu quả của ông trong việc tái chiếm phần đất ven biển; đồng thời bẻ gãy âm mưu lấn đất, dành dân cũng như chia cắt lãnh thổ của Cộng Sản, ngay ranh giới QKI và QKII (Quảng Ngãi- Bình Định) tại vùng duyên hải.
Mặc dù lúc bấy giờ, vai trò chính yếu của LĐ1 BĐQ bị bỏ quên trên mặt truyền thông và báo chí, nhưng trong lòng dân chúng Quảng Ngãi và nhứt là trong phần đánh giá của vị tướng Tư Lệnh Quân Đoàn I và Quân Khu I; cũng như của chính vị tư lệnh SĐ 2 BB lúc đó, đã không thể phủ nhận công lao của các chiến sĩ Mũ Nâu tại mặt trận Sa Huỳnh.
Qua năm 1974, Liên Đoàn 1 BĐQ (lúc đó đã cải danh thành LĐ12 BĐQ) còn được thêm hai lần tuyên dương công trạng trước Quân Đội sau khi cầm chân, rồi đẩy lui các đại đơn vị CSBV tại Tiên Phước, tỉnh Quảng Tín (tháng 5/1974) rồi Nông Sơn- Đức Dục, tỉnh Quảng Nam (lần đầu là tháng 7 và lần thứ nhì là vào tháng 10/1974)
Quà của ông để lại cho Quân Sử của Quân Đoàn I và Quân Khu I (cũng như của Binh chủng Biệt Động Quân) trước khi về Sài Gòn theo học khóa Chỉ Huy Tham Mưu Cao Cấp (như đã nói trên) là một quận Đức Dục còn nguyên vẹn và khu Kỹ Nghệ An Hòa (đã đổ nát và hoang phế từ 1965) vững vàng như một thành trì sau khi đã quyết liệt cự địch dù với quân số chỉ bằng 1/3 so với CSBV trong suốt 4 tháng trường và sau những đợt xa luân chiến của địch quân.
Nếu như có thể hình dung và so sánh được, thì cuộc đời binh nghiệp của Phong Châu Trần Kim Đại là sự tổng hợp về một khả năng thiên bẩm trong tài điều binh, bố trận của Đinh Bộ Lĩnh, cộng với uy tín và sự ẩn nhẫn của La Sơn Phu Tử khi tiết tháo có tính cách mẫu mực của ông- người Trung úy thâm niên bị "đóng khung" suốt 9 năm, trong các bức tường có tháp canh tại Đà Lạt và Thủ Đức- được thể hiện qua việc ung dung và chịu đựng mọi tình huống vốn rất vô thường của đời người trong quân ngũ.
Ngoài ra bản lãnh của ông- khi có quân trong tay để vẫy vùng, có đất nơi chiến trường để dụng võ sau thời gian dài chịu bó gối- cho thấy ông rất gần với tướng quân Hy Văn Nguyễn Công Trứ- cũng như danh tướng từng phục vụ suốt 4 đời Nhà Nguyễn- khi Phong Châu Trần Kim Đại cũng đã không nản chí mà vẫn luôn kiên nhẫn chờ thời. Nếu Uy Viễn Tướng Công đầy khí phách ngất ngưởng với:
"Trời đất cho ta một cái tàiGiắt lưng dành để tháng ngày chơi."
Thì anh Cả Trần Kim Đại cũng bình thản chấp nhận:
Cuộn mình trong mịt mờ Đông giá
Chờ qua Xuân ngẩng mặt với ánh quang
9 năm ôm chí lớn nén sa bàn
Tư Nguy lúc Cư An cùng binh pháp!
Ngoài tính cách bình dân trong phong thái, cương nghị trong khi điều hành quân lệnh, ông cũng khá sâu sắc trong việc làm gạch nối giữa thượng cấp với thuộc cấp và giữa đồng liêu với đồng liêu. Không dễ gì bắt được nhịp cầu cảm thông giữa những thanh niên tràn trề nhiệt huyết và sinh động của thời chiến!
Ông đã mang mọi người đến gần nhau, qua thái độ ôn tồn nhưng cương nghị, bình tâm và chân chất của một cấp chỉ huy. Nhưng trên hết, ông là hình ảnh của một người bạn vai anh, chí tình, chí nghĩa và chí thân sau hơn 1/2 thế kỷ. Dù đơn vị đã tan hàng từ lâu lắm, nhưng Tình huynh đệ, Nghĩa chi binh vẫn keo sơn như thuở nào!
Chắc chắn trong lòng thuộc cấp cũ ở Liên Đoàn 42 BĐQ Chiến Thuật, tại miền châu thổ sông Cửu Long, không ai có thể quên "ông già Nam Bộ, trong bộ đồ tác chiến" với biệt danh "Ông 5 Ruộng"! Một biệt danh để đời, bao hàm vẻ bình dị của "khí phách nông thôn", khi chính ông vốn xuất thân từ một xứ quê nghèo (Vũng Liêm) nhưng khi công thành, danh toại vẫn không màng quà cáp hay bổng lộc phi nghĩa.
Vui thú điền viên ở quận Cam- California (Ảnh chụp tháng 6/2017)
Sau cùng, ngoài việc thong dong, tự tại và âm thầm tập trận trên sa bàn lúc chờ thời, ông còn để lại cho đời một dấu hiệu của lòng hoài cổ, có thể nói là khá sâu sắc và đầy dân tộc tính. Đó là danh hiệu truyền Tin của ông: Phong Châu! Kinh đô khởi thủy của dân tộc ta cách nay đã gần 5000 năm.
Trong tất cả các danh hiệu truyền tin được lưu truyền trong giới quân nhân của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, không thấy ai có (hoặc nói đến) danh hiệu hết sức cao quý này! Anh Cả Trần Kim Đại đã hoàn tất hành trình của tấm thân tứ đại, đã về với Phong Châu, đã hòa làm một với cội nguồn Văn Lang của dân tộc Việt.
Đời binh nghiệp của ông và của toàn thể quân nhân QLVNCH chấm dứt khi toàn miền Nam Việt Nam rơi vào tay bạo quyền Hà Nội. Những gì xảy ra sau đó là hệ lụy tất yếu của một định phận oan nghiệt. Tuy nhiên, cảnh khổ sai, dằn vặt trong cái gọi là "trại cải tạo" đã không làm ông nhục chí, mà hạnh phúc nội tại chính là được cùng các đồng liêu và đồng cảnh chia nhau phần khốn khó khi bị kẻ thắng cuộc đọa đày về cả thể xác lẫn tinh thần.
Một trong những niềm vui và cũng là liều thuốc mang lại hạnh phúc dẫu muộn màng nhưng cũng đủ ấm lòng đó, là nguồn tin nhận được từ một bạn tù. Vị sĩ quan này làm ở phòng Tổng Quản Trị của Quân Đoàn I & Quân Khu I nên đã thấy Quyết Định bổ nhiệm ông vào chức vụ Chỉ Huy Trưởng BĐQ / QĐI & QKI, một chức vụ tuy nặng về hành chánh và tham mưu, nhưng lại là nấc thang tất yếu trên đà thăng tiến của một sĩ quan cao cấp trong binh chủng Biệt Động Quân. Rất tiếc, sự đề bạt của tướng Ngô Quang Trưởng đã đến quá trễ, bằng không thì chỉ sau một thời gian ngắn nữa thôi, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa sẽ có thêm một vị tướng mẫn cán và hết lòng vì Quân Đội và Tổ Quốc.
Trong quân sử hào hùng, ông là một đại tá như hàng trăm Đại Tá khác của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, nhưng trong lòng người Lính của đơn vị sau cùng là Liên Đoàn 1 BĐQ ( trước 1973, tức Liên Đoàn 12 BĐQ sau này ), ông mãi mãi là Đại Tá Trần Kim Đại, là Phong Châu, mãnh hổ đầu đàn của chúng tôi thuở xưa!
HUY VĂN ( HUỲNH VĂN CỦA )
(Để tưởng nhớ Đại Tá Trần Kim Đại, 6/9/1933-15/10/ 2022)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét