-
Alo
!
Tôi nghe đây.
- Cháu
là Thư đây chú.
- Chào cháu. Có gì gọi cho chú đó?
- Chú ơi!
Bác Minh mất rồi.
- Bác Minh nào vậy cháu?
- Bác Minh ở El Monte đó chú.
-
Trời
ơi!
Cháu có biết Bác Minh chết bao giờ không?
- Bác chết hôm nay. Con gái của Bác Minh vừa gọi cho cháu biết.
- Cảm ơn cháu, để chú gọi báo tin cho bạn bè biết.
<!>
Tôi gọi cho bạn bè ở xa cũng như ở gần báo tin anh Minh đã qua
đời. Có đứa nói biết rồi, có đứa nói chưa biết. Tôi gục đầu
xuống bàn suy nghĩ mông lung. Cách đây ba tuần tôi có nhận được
hồi báo của anh Minh, anh sẽ đi dự đám cưới của con gái tôi. Hôm
đám cưới con gái không thấy anh đi dự, tôi hỏi Nguyễn Anh Tuấn
mới biết anh Minh đã vào bệnh viện. Tôi nghĩ, tuổi già thường
hay đau ốm vào nằm bệnh viện chắc cũng không có gì trầm trọng.
Không ngờ, bây giờ anh lại vĩnh viễn ra đi không về.
Tôi buồn thở dài. Tháng
10
trời đã vào
Thu.
Những chiếc lá vàng từ từ rơi rụng trước hiên nhà. Nhìn lá
vàng rơi, tôi liên tưởng con người tuổi về già rồi cũng thế. Sinh
lão bệnh tử là lẽ thường tình không ai tránh khỏi. Tôi cũng đã
thường nói với anh em bạn bè là lớp tuổi già như anh em chúng
mình, tuổi đời đã leo lên tới đỉnh và xuống dốc bên kia như
chiếc lá úa vàng dính trên cành cây, một cơn gió nhè nhẹ đi qua,
những chiếc lá úa vàng sẽ từ từ rơi rụng. Sự ra đi của anh
Nguyễn Tấn Minh cũng không ai ngờ. Mới ngày nào đây, anh còn đi
dự Họp mặt Hè của Đồng hương và Thân hữu Quảng Ngãi tại nhà
hàng Majesty ở đường Edinger, anh vui vẻ, mạnh khỏe đùa dỡn cùng
anh em bạn bè. Chúng tôi cứ tưởng anh sẽ còn sinh hoạt với chúng
tôi dài dài. Và cũng mới ngày nào, anh hứa là anh sẽ đi uống
rượu mừng khi con gái tôi đi lấy chồng. Nhưng rồi, mọi việc không
như mình tưởng.
Anh Nguyễn Tấn Minh sinh năm
1931, mất
năm
2017,
hưởng thượng thọ
86
tuổi. Quãng
đường thật dài mà anh đã đi qua không phải bằng phẳng dễ đi mà
phải vượt qua nhiều chông gai khó khăn gian khổ. Anh sinh ra tại
quận Sơn Tịnh Quảng Ngãi và lớn lên trong thời kỳ đất nước chìm
trong cảnh chiến tranh chống Pháp
1945- 1954.
Quảng Ngãi hồi này nghèo khổ lắm vì nằm trong vùng kháng chiến
chống Pháp của Việt Minh, bị máy bay của Pháp đánh phá liên
tục. Ngày
20 Tháng
7 năm
1954
Hiệp định Genève ký kết
giữa
Việt Minh
(tức
cộng sản
ngày
nay)
và thực dân Pháp. Đất nước Việt Nam bị chia đôi lấy vĩ tuyến
17
chia cắt đôi bờ Bắc Nam. Nước Việt Nam
Cộng
Hòa
ra đời ở miền Nam và có tên trên bản đồ thế giới sau ngày Hiệp
định Genève ký kết.
Buổi giao thời của nước Việt Nam
Cộng
Hòa
mới được thành lập, anh Nguyễn Tấn Minh, người thanh niên
24
tuổi ý thức được bổn phận của người trai đối với đất nước, anh
tình nguyện gia nhập Quân đội năm
1955, ra
đi bảo vệ Quê hương
Tổ
quốc.
Vào Quân trường phải vượt qua bao nhiêu khổ cực thử thách. Tập
bắn súng, tập chiến thuật, tập bò, tập vượt qua đoạn đường
chiến binh, đi di hành dã trại v.v... sống khắt
khe theo kỷ
luật Quân đội, giãi
nắng dầm mưa. Ngày nào cũng thế. Mệt lả
người. Anh cố gắng vượt qua mọi khó khăn vất vả
để trở thành người lính tốt.
Lần đầu tiên xa gia đình bước chân vào quân ngũ, anh thấy nhớ
nhà, nhớ cha nhớ mẹ, nhớ người yêu. Nhưng rồi anh phấn đấu với
bản thân để làm tròn bổn phận người lính chờ ngày ra trường sẽ
xin phép về thăm. Tình “Huynh đệ chi binh” đã làm cho anh sống
trong quân trường cảm thấy như anh em trong một đại gia đình. Anh
Minh quyết tâm rèn luyện bản thân, vui vẻ sống đời lính xa nhà.
Mãn khóa học ra trường anh là người lính
Binh
nhì. Lần theo thời gian anh cố gắng rèn luyện bản thân, học hỏi
để tiến thân trên đường binh nghiệp. Anh xin đi học khóa Hạ Sĩ
Quan Đồng Đế. Mấy năm sau anh lại làm đơn xin đi học khóa Sĩ Quan
đặc biệt. Anh trở thành người Sĩ Quan trong Quân lực Việt Nam
Cộng
Hòa.
Hai mươi năm trên đường binh nghiệp, từ binh nhì anh lên Hạ Sĩ ,
Trung Sĩ rồi Chuẩn uý, Thiếu úy và cấp bậc cuối cùng là Trung
Tá. Anh nắm giữ những chức vụ quan trọng trong Quân đội. Làm
Trưởng ban An ninh Tỉnh đoàn Địa Phương Quân Quảng Ngãi, Chỉ huy
Lực lượng Thám Sát Tỉnh Quảng Nam, Tỉnh đoàn trưởng Xây dựng
Nông thôn Quảng Nam và cuối cùng là Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn
121
ĐPQ
Tiểu Khu Quảng Trị. Anh phục vụ trên phắp vùng I chiến thuật
thuộc Quân khu I từ Quảng Ngãi ra đến Quảng Trị.
Anh là người Sĩ Quan tận tụy làm việc, luôn luôn hoàn thành
nhiệm vụ khi làm việc ở văn phòng. Khi ra đơn vị tác chiến, anh
luôn luôn gần gũi với lính, thương yêu lính và đối xử với thuộc
hạ như anh em một nhà. Khi ra chiến trường anh là người chỉ huy
giỏi, lính trong đơn vị đều nể phục, nhất là khi anh làm Tiểu
đoàn trưởng Tiểu đoàn
121
đóng ở vùng địa đầu giới tuyến Quảng Trị.
Tiểu
đoàn
anh
ngày đêm
luôn
đối diện
với
giặc thù xua quân xâm lược miền Nam trong những năm chiến trường
dầu sôi lửa bỏng
cho
đến ngày mất nước
30 tháng
4 năm
1975.
Là người Sĩ Quan luôn luôn đặt “Tổ Quốc Danh Dự Trách Nhiệm”
lên trên hết. Dù ở cương vị nào anh cũng hoàn thành nhiệm vụ vì
thế anh được Quân đội ban thưởng nhiều huy chương trong đó có Bảo
Quốc Huân chương, là huân chương cao quý của Quân đội dành ban
thưởng cho những người đóng góp nhiều công sức lớn lao, hoàn
thành nhiệm vụ trong công cuộc bảo vệ, phục vụ đất nước.
Vận nước không may, “Đồng minh tháo chạy”
bỏ ta một mình, Quân đội VNCH bị “Gãy sũng”
nửa đường, nước mất nhà tan. Sau ngày oan nghiệt
30 tháng
4 năm
1975,
miền Nam bị công sản cưỡng chiếm, anh Minh bị cộng sản bắt và
đưa đi tù. Vợ anh, chị Minh một mình lặn lội tảo tần nuôi đàn
con nhỏ ở quê nhà, chờ chồng đi ở tù trở về. Chị Minh cũng như
bao chị em phụ nữ khác có chồng bị cộng sản bắt đi tù phải
gánh chịu bao cảnh đắng cay bất hạnh nghiệt ngã. Các chị đã
trở thành những người vợ oan nghiệt nhất của thời đại ngày nay
mà cộng sản luôn luôn ức chế và kỳ thị gọi là vợ của “ngụy
quân ngụy quyền Sài Gòn”.
Sau bao nhiêu lần dời trại, đi từ trại tù này sang trại tù khác,
cuối cùng tôi và anh Minh cũng ở tù chung một trại, đó là trại
tù ác nghiệt Tiên Lãnh thuộc Tỉnh Quảng Nam,
Đà Nẵng. Cùng là anh em một đại gia đình Quân đội, gặp cảnh
quốc biến gia vong đi vào chốn lao tù nên anh em thương nhau
nhiều
lắm. Ở trại tù ác nghiệt Tiên Lãnh, tôi với anh Minh không cùng
ở chung một nhà, anh em chỉ gặp nhau lúc đi lao động ở ngoài
đồng ruộng hay đi phát rẫy trên núi. Gặp nhau mừng lắm. Anh tâm
sự với tôi: “Cố gắng giữ gìn sức khỏe để về với gia đình nghe
em. Thấy tụi em còn trẻ anh thương lắm”.
Trong trại tù, anh Minh rất thương anh em. Dù đói rách thiếu ăn
thiếu mặc, anh vẫn giữ tư cách của một vị Sĩ Quan cao cấp của
Quân đội VNCH, không bon chen, không hạ mình khi đứng trước bọn cai
tù. Lao động khổ sai, lần theo năm tháng, anh em tù càng ngày
càng ốm, xanh xao, anh thường nhường cơm xẻ áo, giúp đỡ anh em khi
ốm đau.
Đã mấy ngày qua không thấy anh Minh đi lao động và cũng không thấy
bóng anh lảng vảng quanh quẩn trong sân trại tù. Một hôm đi lao
động gặp người tù cùng nhà với anh Minh, tôi hỏi: “Mấy ngày nay
sao không thấy anh Nguyễn Tấn Minh đi lao động”.
Người đó trả lời thật nhanh rồi bỏ đi: “Anh Minh đi trại Đồng Mộ
rồi”.
Trại Đồng Mộ là nơi biệt giam những người tù mà bọn cai tù cho
là nguy hiểm. Ở trong trại tù cấm những người tù ở khác nhà
quan hệ với nhau. Nếu bắt gặp thì bị kỷ
luật. Vì thế nghe người bạn tù trả lời, tôi chỉ biết vậy thôi,
không dám hỏi thêm.
Ở trại tù Tiên Lãnh dù có đói rách nhưng đi lao động cũng bắt
được con rắn, bắt được con cua, con nhái, hái được cộng rau ăn cho
đỡ đói, cũng thấy được anh em tù, cũng nhìn được bầu trời,
cũng nhìn thấy được ánh sáng, cũng hít được cái không khí trong
lành hơn ở trong nhà tù ngột ngạt.
Nghĩ thương anh Minh vào nhà biệt giam, khổ gấp ngàn lần ở ngoài
đi lao động. Đói khát bệnh tật. Khi mãn hạn biệt giam được ra
ngoài, anh em tù xanh như tàu lá vì thiếu ánh sáng, thiếu dinh
dưỡng, đi đứng không được vì đôi chân bị cùm, đôi chân tê bại.
Phải mất thời gian dài lâu thuốc men, bồi dưỡng mới mong đi đứng
bình thường. Anh em tù ở trong hoàn cảnh này thật đắng cay tội
nghiệp.
Năm
1983
tôi được ra trại về đoàn tụ với gia đình. Kể từ năm ấy tôi không
biết anh Minh như thế nào. Tôi về Quê hương bị quản chế
5 năm
và không có cơ hội đi đây đi đó nên không biết tin tức gì về anh
Minh cũng như anh em cùng ở chung trại tù Tiên Lãnh. Hơn
10
năm sau,
năm
1994
tôi và gia đình đi định cư tại Hoa Kỳ, ở Nam California mới gặp
anh Minh nhân ngày Họp mặt Đồng hương Quảng Ngãi nhân dịp Xuân về.
Hai anh em ôm nhau mừng vui thật lâu. Anh ra tù năm
1988.
Như thế là anh ở trong lao tù cộng sản
13
năm.
13
năm với bao xương máu mồ hôi và nước mắt mới cầm được miếng
giấy về đoàn tụ với gia đình vợ con. Giờ đây anh và tôi cùng
bạn bè như đàn chim sổ lồng tung cánh bay xa trên bầu trời Tự do
nơi đất khách quê người. Từ đó anh em chúng tôi thường gặp nhau
trong những lần sinh hoạt của Hội Đồng hương và Thân hữu Quảng
Ngãi cũng như những lần họp mặt Xuân Hè và Hội Cựu tù nhân
chính trị Quảng Nam Đà Nẵng trong những lần sinh hoạt và Hội
ngộ. Anh là cố vấn của Hội Đồng hương và Thân hữu Quảng Ngãi
và Hội Cựu tù nhân chính trị Quảng Nam Đà Nẵng. Anh đã hăng hái
đóng góp nhiều công sức và tiền bạc xây dựng hội Đồng hương và
Thân hữu Quảng Ngãi và hội Cựu tù nhân chính trị Quảng Nam Đà
Nẵng trong thời gian lâu dài. Anh cũng tích cực đóng góp tiền
bạc, góp bàn tay giúp đỡ anh em Thương phế binh khốn khổ ở Quê
nhà.
Anh Minh thật xứng đáng là người anh cả trong gia đình Đồng hương
và Thân hữu Quảng Ngãi và trong gia đình Cựu tù nhân chính trị
Quảng Nam Đà Nẵng. Anh là người anh gương mẫu của anh em chúng tôi
trên bước đường lưu vong tị nạn. Anh đã được Hội Đồng hương và
Thân hữu Quang Ngãi vinh danh là người đóng góp nhiều công sức xây
dựng Hội trong ngày Hội Xuân Đinh Dậu năm
2017.
Vợ anh Minh đã ra đi về cõi Vĩnh hằng mấy năm rồi, giờ tới lượt
anh Minh ra đi. Ngày
30 tháng
9 năm
2017
được tin sét đánh, anh Nguyễn Tấn Minh qua đời, tôi bàng hoàng,
thế là một người anh, một người bạn tù, một chiến hữu nữa đã
ra đi về miền miên viễn.
Sự ra đi của anh không những là sự mất mát to lớn của các con
các cháu của anh, của gia đình tang quyến và của bà con thân
thuộc mà còn là sự mất mát lớn lao của Hội Đồng hương và Thân
hữu Quảng Ngãi và của Hội Cựu tù nhân Chính trị Quảng Nam Đà
Nẵng cũng như các Hội đoàn Đồng Đế, Hội cựu tù nhân chính trị
Los Angeles.
Với quá trình
20
năm trong đời quân ngũ, sự đóng góp to lớn của anh cho đất nước
trong công cuộc chống cộng sản xâm lược bảo vệ đất nước để rồi
anh phải lãnh án
13 năm
tù khổ sai trong lao tù ác nghiệt có một không hai Tiên Lãnh và
Đồng Mộ sau ngày mất nước
30 tháng
4 năm
1975.
Ở Hải ngoại, ngoài sự đóng góp công sức và tiền bạc xây dựng
cho các Hội đoàn, giúp đỡ anh em Thương Phế binh ở quê nhà, anh
còn góp bàn tay cùng người Việt tị nạn cộng sản tranh đấu cho
Tự do Dân chủ Nhân quyền Việt Nam. Một số anh em chiến hữu các
Hội đoàn họp lại với nhau đồng ý phủ cờ VNCH cho anh. Anh em
trong Hội Đồng Đế phụ trách phủ cờ.
Buổi phủ cờ rất trang nghiêm và cảm động. Ngoài gia đình tang
quyến, bà con thân thuộc, có rất nhiều anh em Hội ĐH/TH/ QN và
Hội CTNCT/QNĐN. Đặc biệt có sự tham dự của Cựu Đại tá Lê Bá
Khiếu và Cựu Đại tá Nguyễn Văn Quý. Sau phần phủ cờ, anh Nguyễn
Tấn Đồng đọc tiểu sử của cố Trung Tá Nguyễn Tấn Minh. Tiếp theo
là phát biểu cảm tưởng của các vị quan khách,
trong
đó có cựu Đại tá Lê Bá Khiếu, là người đã quen biết cố Trung
Tá Nguyễn Tấn Minh hồi còn ở trong Quân đội trước năm
1975.
Đại Tá Lê Bá Khiếu trình bày rất chi tiết về cuộc đời của cố
Trung Tá Nguyễn Tấn Minh trong cuộc đời quân ngũ phục vụ đất
nước, hoàn thành trách nhiệm của người Sĩ quan VNCH, đồng thời
ông cũng chia xẻ nỗi đau thương mất mát lớn lao và chia buồn cùng
gia đình tang quyến.
Buổi sáng hôm sau
21 tháng
10 năm
2017,
hàng trăm người đến để tiễn anh Minh đi về cõi Vĩnh hằng. Mùa
Thu
trời se lạnh, hàng cây hai bên đường lá úa vàng lác đác rơi.
Đoàn người im lặng, cúi đầu lặng lẽ đưa tiễn anh Minh đến nhà
hỏa thiêu. Những vầng khăn tang trắng của con cháu theo sau quan
tài với những dòng nước mắt chảy dài trên đôi má, đau lòng
thương tiếc Cha, ông Nội ông Ngoại vĩnh viễn ra đi không về. Lát
nữa đây anh Nguyễn Tấn Minh sẽ từ biệt dương thế để đi về thế
giới bên kia. Thế là hết một đời người.
Cố Trung Tá Nguyễn Tấn Minh với
86
tuổi đời,
20
năm ra đi phục vụ Tổ quốc chống cộng sản xâm lược bảo vệ đất
nước VNCH, bảo vệ Tự do,
26
năm bỏ Quê hương Tổ quốc ra đi tị nạn cộng sản. Giờ đây anh gởi
lại thân xác trên Quê hương thứ hai bằng một nắm tro tàn. “Ta nay
ở trọ trần gian, Trăm năm về chốn xa xăm cuối trời”.
Xin vĩnh biệt anh. Vĩnh biệt người anh muôn đời kính mến. Vĩnh
biệt.
Tôi ngồi viết những dòng này giữa đêm khuya để nhớ về cố Trung
Tá Nguyễn Tấn Minh. Anh Minh vừa là một người anh, một người bạn
và một chiến hữu của anh em chúng tôi. Ngoài trời sương khuya
trĩu nặng lá vàng và gió se lạnh. Nghĩ lại những chuyện xảy ra
trong cuộc đời, sinh lão bệnh tử rồi cũng sẽ đến phiên mình.
Đời là vô thường ai biết trước việc gì sẽ xảy ra”.
Cụ Nguyễn Công Trứ cũng đã nói: “Thoạt
sinh ra miệng đà khóc chóe, Trần có vui sao chẳng cười khì.” Quả
thật đời là không vui. Ta sinh ra với hai bàn tay trắng, khi ta
chết cũng hai bàn trắng tay, ta chẳng đem theo được thứ gì. Vì
thế sống trên đời này phải biết yêu thương mình và yêu thương mọi
người, phải có tấm lòng bao dung và vị tha. Sống được như vậy,
cuộc sống của mình mới có ý nghĩa, mới an vui và thanh thản.”
Yêu thương xin nở nụ cười, Vị tha là để lòng người thanh cao”.
“Đường về khép bóng trần gian,
Lợi danh gói một hành trang vô thường”.
Xin thành tâm chia buồn cùng gia đình và tang quyến. Cầu nguyện
cho anh Nguyễn Tấn Minh ra đi được thanh thản và sớm về Phật
Quốc.
Mãi mãi nhớ anh...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét