
Hình Ls. Nguyễn Mạnh Tường hồi trẻ và 1952.
<!>
1. Trí thức NGUYỄN MẠNH TƯỜNG.
Nói tới tên ông, nhiều người Việt nghĩ ngay tới việc ông đỗ
hai bằng tiến sĩ, Văn và Luật tại Montpellier, Pháp trong một năm, lúc
mới 23 tuổi. Ngoài ra, người ta không nhớ ông đã làm được công nghiệp gì
tương xứng với tài năng và công lao học tập! Điều đó không có chi lạ.
Ông đã theo “Hồ tặc” đi kháng chiến, và kể từ lúc ấy, đời ông kể như đã
đi vào ngõ cụt. Đã có quá nhiều sách báo nói về ông Nguyễn Mạnh Tường và
những tháng ngày thê thảm của ông và gia đình ông, dù bản thân ông chưa
phải là trái chanh đã hết nước trong tay Cộng. Nếu không đọc cuốn sách
Un Excommunié do chính ông viết, chúng ta khó tưởng tượng ông “lưỡng
khoa tiến sĩ” này lại bị đau nhục dưới tay “vượn người” như thế! Nhưng
vì đâu nên nỗi?
Hoàn cảnh lịch sử? Lòng yêu nước, hay sự bịp bợm của cộng sản đã đưa ông vào thảm trạng?
Năm 1936, cậu thanh niên 27 tuổi, với hai bằng tiến sĩ từ mẫu quốc
hồi hương, tương lai sáng rỡ như mặt trăng mặt trời. Cậu trở thành giáo
sư trường Lycée du Protectorat tức trường Bưởi, rồi cậu mở văn phòng
luật sư tại hai biệt thự tại thủ đô Hà Nội. Khi cộng sản cướp chính
quyền, cậu hào hứng hiến luôn cả hai biệt thự cho nhà nước. Kháng chiến
bùng nổ, cậu không ngại gian lao, xách khăn gói vào Khu Tư, tức Thanh
Hóa theo “Bác.”
Chiến tranh tạm ngừng năm 1954, nhà trí thức lúc ấy đã mỏi mệt vì
những điều tai nghe, mắt thấy về Đảng và “bác”, nhưng cổ đã vướng tròng,
khó bề thoát ra. Trở về Hà Nội, ông được cộng sản ấn vào tay một lô
chức tước “phó”, vô danh và… vô thực luôn: Phó chủ tịch Hội Luật Gia
Việt Nam, phó Trưởng khoa Đại Học Sư Phạm, thành viên Hội Hữu Nghị
Việt-Xô, v…v..
“ Đó là các chức vụ hoàn toàn có tính cách lễ nghi, không hiệu năng
mà cũng chằng có thực quyền, đó là những chức vụ mà tôi chỉ là kẻ dư
thừa .”
Năm 1956, có phong trào Đòi tự do, dân chủ của các báo Nhân Văn, Giai
Phẩm. Báo Nhân Văn đăng bài phỏng vấn ông Nguyễn Mạnh Tường. Ông vạch
trần tính chất phản dân hại nước của cộng sản:
“Đảng Viên đảng Lao Động và cán bộ thi hành chính sách thiếu tính thần
dân chủ, xa lìa quần chúng, tạo ra tình trạng đối lập quần chúng với
mình… ”
Dĩ nhiên, ông cũng còn tin cộng sản có thể sửa đổi được, và ông đề
nghị những biện pháp sửa đổi! Ngày nay, dù đã có một tay cộng sản gộc,
chính tông, là Boris Yelsin bỏ đảng và tuyên bố
“Cộng Sản không thể sửa đổi ”, nhiều ông trí thức của ta vẫn tin rằng
có thể dùng kiến nghị, thư ngỏ… để thay đổi chính sách của Cộng sản.
Cộng sản dĩ nhiên không thèm đếm xỉa gì đến những đề nghị của ông Tường;
nhưng lãnh đạo Cộng sản lại dương những con mắt cú vọ quan sát, nhằm
“chiếu tướng” ông trí thức. Ngày 30 tháng 10 năm 1956, ông luật sư, giáo
sư, kiêm luôn bao nhiêu chức Phó và Thành viên các hội, đọc một bài
diễn văn tại cái gọi là Mặt Trận Tổ Quốc, phân tích những khốc hại đẫm
máu của việc Cải Cách Ruộng Đất, và đề ra phương hướng để tránh mắc lại!
Ông Trí thức lúc ấy chắc vẫn tin là cộng sản mắc “sai lầm”, chứ không
phải là chúng chủ tâm và tỉ mỉ hoạch định đủ phương kế để giết người và
cướp đất ruộng. Sau bài diễn văn với những đề nghị này, nọ của ông, dây
thừng quanh cổ ông được cộng sản xiết chặt lại. Bao nhiêu chức tước vớ
vẩn của ông được gỡ sạch. Ông bị đưa ra đấu tố tại trường Đại Học cho
học trò ông xỉ vả, mắng mỏ; ông bị ra trước Mặt Trận Tổ Quốc để các
“đồng chí” của ông đấu đá. Ông bị các đảng viên đảng Xã Hội, một đảng bù
nhìn do cộng sản nặn ra để trang trí cho chế độ, đấu tố ông lần chót.
Ông chống trả rất can trường, với lập luận sắc bén của một luật sư có
tài. Nhưng rồi ông đau khổ nhận rằng:
“Con cừu thì không thể lý luận với một con chó sói”.
Số phận ông đã được Cộng đảng quyết định: Bỏ cho chết đói giữa một sa mạc hận thù không lối thoát. Ông than thở
“Tôi đã là kẻ lữ hành trong chuyến đi qua sa mạc kéo dài từ năm 1958
đến năm 1990, hơn ba mươi năm dài đằng đẵng! Chìm trong vùng cát của sa
mạc tuyệt vọng làm cạn khô dòng nước mắt, tôi đã lê tấm thân bị tra tấn
bởi thiếu thốn cô đơn với quả tim rướm máu bởi nỗi buồn chua cay và vị
đắng của mật!” Trong ba mươi năm dài ấy, nhà trí thức sống ra sao?
Ông kể lại:
“Trước tiên, loại bỏ ngay buổi ăn sáng, một thói quen sa hoa của
những người tư sản. Tiếp đến, cá thịt từ từ biến mất trong những buổi ăn
trưa và tố́i. Khẩu phần cơm rau mỗi ngày một ít đi, và đến lúc mỗi ngày
chúng tôi chỉ có một bát cháo để ăn. Vợ và con gái tôi ốm đi trông
thấy. Bao nhiêu sáng láng đã biến mất trên khuôn mặt dài ra vì ốm đói.”
Trong cơn khốn cùng như thế, gia đình ông Tiến sĩ “may mắn” có được
một con gà mái “mắn đẻ một cách đáng ngạc nhiên ”. Mỗi ngày con gà cho
một trái trứng, và mỗi người trong gia đình thay phiên nhau hưởng. Muốn
cho gà đẻ trứng, thì phải cho nó ăn. Khốn nỗi người còn sắp chết đói,
lấy đâu gạo, bắp cho gà! Nhà trí thức ‘phát huy sáng kiến’:
“mỗi ngày, vào lúc hoàng hôn, khi chợ đã vắng người mua bán, tôi lượn
quanh để lén nhặt những mảnh rau vụn, tránh không để người qua đường
nhìn thấy, mang về nuôi nó”
Thê thảm không còn gì để nói! Nhưng con gà, dù mắn đẻ, tất cũng không
nuôi sống nổi cả gia đình của ông tiến sĩ. Ông phải đau khổ, năn nỉ
những kẻ có tiền để họ mua những thứ ông có thể vơ vét ở trong nhà: sách
vở, quần áo của ông, son phấn , tóc giả của bà, muỗng nĩa trong bếp…
Giống hệt tình cảnh của toàn dân miền Nam năm 1975 khi được cộng “giải
phóng.” Ba mươi năm vật lộn mỏi mòn, chỉ để khỏi chết đói!
Cộng sản đã trả công cho sự nhiệt thành và công lao hạn mã của ông
bằng cái đói và nhục. Nhiệt thành, say sưa, vì khi Cộng mới nổi lên, ông
đã đem tất cả nhà cửa hiến dâng cho đảng.
Công lao hãn mã, vì ông đã lặn lội sang tận thủ đô Bruxelles của Bỉ,
năm 1956, đem tài hùng biện, chứng minh với Hiệp Hội Luật Gia Dân Chủ
thế giới, là Bắc cộng có “chính nghĩa” khi dùng súng đạn để “giải phóng
miền Nam ” Nhưng xem tư cách và sự phản ứng can trường của ông trong
suốt 30 năm bị cộng mưu dìm cho chết, chúng ta ngậm ngùi thương ông hơn
là oán giận. Ông đã lạc đường vào lịch sử và bị vây bọc trong hoàn cảnh
khó khăn. Không khuất phục được ông, bọn cộng vô học ghen, tức, đầy đọa
và hạ nhục ông.
So sánh với những anh “trí thức” hải ngọai ngày nay, từng kinh hoàng
bỏ chạy khi cộng sản tới, lại được chứng kiến sự tan rã tận gốc của cái
chủ thuyết giết người tàn độc, mà vẫn xun xoe đưa đầu cho cộng sai
khiến, chúng ta phải kinh ngạc về sự “khả úy” của các “trí thức” hậu
sinh. Ông Nguyễn Mạnh Tường có lẽ đã trả được mối thù với bọn việt cộng
bằng cách mô tả sự tàn độc của chúng trong hai cuốn Hồi Ký mà ông để lại
cho đời.
Ông đã thảnh thơi từ giã cuộc đời ngày 13 tháng 6 năm 1997.
Hình Luật Sư Nguyễn Mạnh Tường và vợ, bà Tống Lệ Dung.






Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét