Nhân ngày Từ Phụ - Father's Day (Chúa nhựt 20.6.2021),
tôi viết về Ba tôi một số kỷ niệm khó quên để kính nhớ tưởng niệm đến người Cha
yêu qúy của các con - một ông cha thương con vô bờ bến như những ông cha khác đều
thể hiện tình cảm thương yêu con cũng giống như "Bố tôi" . Đúng với câu:
Công Cha như núi Thái Sơn -
Nghĩa Mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Tôi là đứa con trai trong gia đình 11 anh chị em (hệ
chánh quy và hệ phụ trội, Ba tôi có thêm 5 con), Ba tôi cưng tôi nhứt trong đám
anh chị em chúng tôi kể cả 2 hệ. Ba tôi sanh năm 1898, đã qua đời khi ông bị đột
quỵ lúc 74 tuổi , mất tại nhà ở Châu Đốc.
<!>
Khi tôi mới lên 5, 6 cho đến 12 tuổi khi còn ở ấp Bài
Bài chưa tản cư ra tỉnh ly Châu Đốc (1947), Ba tôi đi đâu cũng thường dẫn tôi đi
theo ông, khi đi thăm ruộng bạt ngàn, ông cỡi ngựa cũng cho tôi lên lưng ngựa,
ngồi trước mặt ông. Những lần đi chợ Châu Đốc, chợ Núi Sam, chợ Tịnh Biên hay đi
cúng đình cách nhà hơn 10 cây số, thường đi bằng ghe lườn có mui, hai hoặc bốn
người chèo, ông thường cho tôi "tháp tùng" như là thư ký riêng hay là
"cận vệ" nhí của ông.
Người dân quê ấp Bà Bài, được đi chợ Châu Đốc hồi xa xưa
70 - 80 năm trước, như bây giờ ở Việt
Nam, người dân quê được đi du lịch Mỹ - oai, hách lắm. Có người cả đời chỉ biết
ấp Bà Bài, không biết "mặt mũi" chợ quận Tịnh Biên hay chợ Núi Sam cách
5 - 6 cây số, nói chi đến chợ tỉnh lỵ Châu Đốc, rất tội nghiệp!. Vì vậy, có người
làm gì biết ăn hủ tíu hay uống cà phê có kèm theo giò chéo quẫy, uống cà phê (mà
người Việt cũng gọi bằng tiếng Tàu vì chủ quán là người Tàu nào là xây chừng -
tài chừng - bạc tẩy xíu phé, phé nại...). Đặc biệt, thời bấy giờ cho tới 1957,
tôi sống ở Sài Gòn, giới bình dân uống cà phê ở các tiệm Tàu, khu lao động vẫn
còn cách uống cà phê, dù có sữa, thường xớt một ít ra dĩa đựng ly cà phê cho cà
phê mau nguội uống liền. Nếu uống cà phê tiệm sang (theo kiểu cách của Tây) như
La Pagode ở đường Lê Thánh Tôn, cà phê đổ ra dĩa mà húp, mấy "ông tây bà đầm"
thấy cách uống cà phe kiểu đó, chắc chúng chạy gắp xuống tàu về Pháp...
Ba Má tôi luôn dạy con chảu làm lành lánh dữ, tích đức
cho mai sau. Ba Má tôi nêu gương tốt cho chúng tôi noi theo với phương châm "mình
vì mọi người", sống sao cho phải đạo làm người lương thiện. Đến kẻ cướp, kẻ
trộm bắt bò của ông, Ba tôi tha vì nói họ quá nghèo làm bậy, ông còn cho tiền,
cho gạo bảo họ cố gắng làm lành lánh dữ, Trời Phật sẽ ngó xuống giúp đở thoát
nghèo khổ...
Trước
năm 1945, khi chưa có phong trào Việt Minh (VM), Ba tôi thích vận xà rong, y phục
truyền thống của người Miên, Ba tôi ở trại ruộng, thường tiếp xúc với họ, muốn
hòa đồng sinh hoạt nên vận y phục như họ, dùng chiêu "chinh tâm vi thượng
sách". (người Miên còn gọi là người Cao Miên - dân tộc Khơ Me - Cam Bốt)
Trại ruộng cách nhà tôi (ấp Bà Bài) tính theo đường chim bay, trên 10 cây số và đường thủy phải đi vòng trên 30 cây số. Trại ruộng và đất canh tác mấy ngàn mẫu ta của Ba tôi và của thầy Năm Khải (thông phán tòa án tỉnh Châu Đốc, Ba tôi hợp tác) hoàn toàn ở trên đất Miên. Ba tôi có nuôi một đàn bò trên 100 con kể bò con, vừa có bò đực để cày bừa ruộng vừa có bò cái để phát triển sanh sản thêm...có 4 con trâu "cồ" để bừa ruộng bùn sình và vài con trâu cái dùng nhân giống, lại có một con ngựa để cho người chăn bò có phương tiện chận đuổi bò đi xa bầy và Ba tôi dùng ngựa đi xa thăm ruộng củng như đi kiểm soát đất có cày bừa đàng hoàng không trước khi sạ lúa...
Hầu hết xà rong Ba tôi có đều là quà tặng của ông
quận hay các ông sếp phum, sóc.
Chuyện
mặc xà rong tạm gọi là y phục đa hiệu tiện lợi của người Miên, cởi ra mặc vào nhanh
như gió, vừa mát mẻ, "gió lồng lộng thổi lòn hang dế" vừa mần
"việc nước" cũng nhanh - dân quê thường ví von ý nghĩa vui vui đó cho
giới phụ nữ, tôi thêm cho luôn giới "liền ông". Tiện lợi khi đi tắm sông,
xuống cầu "banh xà rong" cái rột, tuột nhanh xuống nước cho thằng nhỏ
tắm trước, người ta trên bờ không kịp thấy của quý, rồi mới vắt xà rong trên đầu
cột của cây cầu, xuống nước tắm xong lên, choàng xà rong xong còn lấy phần dưới
xà rong đưa lên lau mình, mặt mũi sơ sơ, một chút xíu người khô, xà rong cũng
khô.
Nhưng
mà, mặc xà rong có nhiều sự cố cười lộn ruột, xà rong tuột xuống bất thình lình
vì không có dây buộc chặt. Người ta còn dùng sợi dây nịt có bản lớn thắt chặt xà
rong vào người cho nên dù có múa may quay cuồng, hay chạy nhảy xà rong vẫn không
bị tuột xuống.
Chuyện
vui về mặc xà rong, Ba tôi dạy võ cho những những làm ở trại ruộng để phòng thân
cho cá nhân và anh em cùng sống chung nhau tại trại ruộng vắng vẻ, đơn độc. Hôm,
đó trời có trăng sáng vằng vặc, ông gọi, đánh thức các người làm trên dưới 20
người thanh niên, ông dạy tiếp các thế võ. Ông chỉ cách đá "song phi"
cho có hiệu quả để hạ đồi phương. Ông nhảy cao đá song phi, chân trước chân sau
đều trúng mục tiêu. Chắng may cái xà rong ông đang mặc là để ngủ, không có dây
nịt, nó tuột ra khỏi hai chân ông, thằng nhỏ của ông cũng đá song phi luôn, làm
cho mọi cười bò lăn bò càng, thật vui và ông cũng cười vui nữa.
Cái
xà rong vô cùng tiện lợi đối với dân quê (Khơ Me), đàn ông đàn bà ngoài che thân,
còn là y phục ngủ rất tiện lợi như cái chăn đắp và "mần việc nước" lại
nhanh, còn nhiều cái lợi khác, chúng ta không chối cãi. Nhưng, sử dụng xà rong
trong trường hợp đột biến dễ bị "tai họa - sự cố" hay làm trò cười như Ba tôi dạy võ, cách
đá song phi.
Một
lần khác, mùa nước nổi, Ba tôi ở nhà không lên trại ruộng. Khuya chừng 11 giờ,
bổng có tiếng gõ thùng thiếc, gõ mõ tre báo động có ghe bán hàng xén bị cướp đến
viếng ăn hàng. Tiếng kêu cứu đó với tiếng la cướp cướp cứ lan truyền từ nhà này
đến nhà khác. Nhà tôi cách chỗ có tiếng thùng thiếc đầu tiên, chừng một cây số.
Ba tôi, tốc dậy, vận chặt xà rong ông lấy ngay cây xà mâu dài gần 2 thước trên
đầu cây có bốn năm mũi sắt nhọn. Ông đánh thức, ra lệnh nhân công đang ở trong
nhà, chúng bây lấy 2 chiếc ghe lườn nhỏ, cầm theo đao kiếm và tầm vông vạt nhọn.
một chiếc ghe lườn có 4 chèo, Ba tôi đứng ở đầu mũi ghe chèo nhanh đi trước,
chiếc thứ hai nối đuôi theo. Có trăng sáng, ghe hàng xén đậu gần chùa Bồng Lai.
Chiếc xuồng của ba tên ăn cướp lại có súng dài mút - ca - tông, chúng đang lục
tìm tiền bac của chủ ghe, bổng thấy có ghe xuồng tiến tới rất nhanh. Ba tên cướp
nhảy nhanh xuống xuồng định bơi về hướng Núi Sam tẩu thoát. Ba tôi la lớn bảo
chiếc ghe sau, chèo nhanh "khóa đít" không cho xuồng cướp đi thoát.
Chiếc ghe lườn của ông còn cách chiếc xuồng chừng 10 thước, ông la lớn:
"Đồ
ăn cướp, đừng hòng chạy thoát (trốn?)". Ông quơ cây xà mâu, chân nhún mạnh
xuống làm chiếc ghe lườn chòng chành. Ông còn la lớn bắt lấy nó - bắt lấy nó. Một
tên cướp kéo cu lát cho đạn lên nòng, định bắn. Ông la lớn cướp tinh thần chúng,
quơ xà mâu lia lịa và "xuống tấn" nhúng mạnh quá làm chiếc xà rong ông
đang mặc sút mối buộc, tuột xuống chân. Trong khi ấy một tiếng súng nổ vang không
trúng ai cả. Nói cho vui, có lẽ tên cướp thấy Ba tôi cũng có súng lục nên nó sợ
rung tay làm rớt cây súng, đạn nổ. Ghe của Ba tôi đã cặp vào xuồng của ba tên
cướp, ba thanh niên bên ghe Ba tôi nhảy qua bắt trói gọn.Tên có súng là một tên
lính mã tà cùng đồng bọn thua cờ bạc rủ nhau đi gở gạc ghe bán hàng xén. Cả ba tên
cướp bị bắt giải giao cho xã.
Cả
vùng Bà Bài kể luôn 2 xã Vĩnh Nguơn - Vĩnh Tế và dân các xã lân cận nghe danh ông
đều kiêng nể.
Tên
ông Hương Tuần nổi như cồn, ông bà Quận Trưởng Gòi Tà Lập còn đến tận ấp Ấp Bà
Bài thăm viếng Ba tôi, quận lỵ Gòi Tà Lập cách ấp Bà Bài chừng 14 - 15 cây số
(băng đường ruộng). Phái đoàn của ông Quận đi nhiều thớt voi và bốn năm chiếc xe
bò đưa dân Miên xuống ấp Bà Bài thăm xã giao. Ba tôi làm 3 con bò và một con
heo đãi ăn linh đình, nhậu "múc chỉ cà tha" suốt 3 ngày như là một Hội
Chợ. Ngày đầu đãi phái đoàn Miên và quan khách Việt Nam ở xa, tỉnh, quận và các
Hội Đồng Xã. Ngày thứ hai và ba đải "đại trà" cho hàng trăm người tham dự vui chơi đều ăn uống thoải mái.
Ba tôi còn tổ chức những trận đá gà "quốc tế", đua xe bò, thi chạy bộ
ăn tiền, kể cả có nhiều người Miên ở lại qua đêm chơi cờ bạc nữa... hai dân tộc
vùng biên giới Miên Việt có dịp bày tỏ tình láng giềng "hữu hảo". Đây
có thể nói là một sự kiện lớn (lịch sử), cả quận Châu Phú và Tỉnh đường Châu Đốc
cũng đều biết và có nhiều công chức tỉnh, các Ban Hội Tề xã lân cận cũng đến
tham dự...Kỷ niệm này sâu sắc nhứt trong đời tôi khi nhớ đến Ba tôi.
Người
dân sinh sống trên 2 bờ
kinh Vỉnh Tế đều nghe biết tên Ba tôi diệt trừ cướp, kể cá cướp người Miên đến
vây trại ruộng cả chục tên, Ba tôi cùng dân cày đánh cho chúng một trận tơi bời,
bắt được mấy tên trói lại, cho muỗi đốt một đêm. Sáng ông nói với chúng cái gì
không ai hiểu, chúng quỳ sụp lạy. Ba tôi ra lệnh, làm gà vịt, nấu cháo và đãi
rượu đế nữa (do gia đình cất rượu dùng riêng) cho bọn cướp ăn uống no say. Lúc ấy
tôi còn
quá nhỏ, hình như ông còn cho mỗi đứa một vài đồng. Từ đó bọn cướp Miên nghe
danh nể sợ ông, không dám bén mảng đến quấy phá nữa.
Đến
năm 1945, các cán bộ VM khuyên Ba tôi hớt tóc, ông mới giã từ củ xi nhông
"yêu quý" theo ông mấy chục năm. Thời bấy giờ, đàn ông có tuổi đều để
tóc. Đặc biệt, tỉnh Châu Đốc có nhiều tín đồ Bửu Sơn Kỳ Hương và Tứ Ân Hiếu Nghĩa,
nam nữ đều búi tóc.
Đến
năm 1947, Ba tôi "bồng bế" cả đại gia đình kể cả gia đình cô chú của
tôi cùng tản cư ra tỉnh lỵ Châu Đốc trốn lánh VM và tránh chiến tranh.
Ba
tôi là cột trụ của gia đình, đã thoát ly bưng biền tránh xa VM, một điều nghịch
lý trớ trêu lại đến với Ba tôi, một người dân trốn chạy Việt minh lại bị mật
thám quốc gia bắt, chụp mũ, gán ghép là có hoạt động cho VM. Gia đình chúng tôi
đang trú ngụ trong châu vi đạo Cao Đài - một thành trì chống cộng (VM) vững chắc
nhứt lúc bấy giờ (thời Quốc Trưởng Bảo Đại), mà Ba tôi vẫn bị phe ta bắt giam mới là đau. Ba tôi nhắn tin, gia đình phải liên lạc
gấp với chức sắc cao cấp đạo Cao Đài bảo lãnh, Ba
tôi sẽ đựơc thả ra. Khi có đơn xin của chức sắc Cao Đài tỉnh Châu Đốc (Khâm
Châu Đạo), Ba tôi được thả ra ngay.
Ba tôi rất bén nhạy, ông có bao nhiêu tiền
trong túi đều lần lượt đưa hết cho những công an tiếp xúc điều tra, trách nhiệm
giam giữ cũng như hỏi cung. Đúng với câu, đồng tiền đi trước là đồng tiền khôn. Ra khỏi nhà giam của Ty Công An tỉnh, có công xa đưa về tới
tận nhà.
Sau một vài ngày hoàn hồn, Ba tôi tổ chức một
bữa tiệc khá lớn có rượu tây, rượu chát đỏ của Pháp mời nhiều chức sắc Đạo Cao
Đài, đa số lại ăn chay trường chỉ có mấy ông sĩ quan Cao Đài là ăn mặn. Ba tôi
còn mời những người của ngành cảnh sát và công an mà Ba tôi quen hay họ tự nhận
làm con nuôi vì Ba tôi rất rộng rãi về tiền bạc, giúp bất cứ ai. Đúng là dân Cậu,
dân chơi không coi trọng đồng tiền.
Cả nhà bàn tính, đồng ý để Ba tôi ra đi về sống
tạm nhà bà con ở trong Thánh Địa Cao Đài (Tòa Thánh Tây Ninh). Ở Tây Ninh một
thời gian mấy tháng, ăn chay tối thiểu 10 ngày một tháng, cùng với ăn mặn kham
khổ, Ba tôi chịu không nổi nên phải ra đi nơi khác để có cuộc sống tự do, không
bị ràng buộc vụ ăn chay. Ông đi xuống Sài Gòn tìm nhà bà con ở đậu và lo đi làm
ăn, Ba tôi lân la làm quen với chủ vựa lu và lẹo tẹo dính với bà này thành lập
phòng nhì chánh thức và cả hai ông bà có đứa con mới sanh mấy tháng. Cả hai ông
bà lại về quê của bà ở Sóc Trăng sanh sống rất lâu có đến năm mặt con và Ba tôi
ít khi trở lại Châu Đốc. (Hình chụp giữa năm 1972 tại Sài Gòn - Ba Má
tôi và vợ chồng tôi & 4 con). Mỗi khi muốn liên lạc với gia đình
hay gởi tiền về giúp mẹ con chúng tôi, ông thường nhắn hay gởi thơ về nhà Châu
Đốc gọi đích danh tôi (đang học lớp nhì - lớp 4) đi xuống Sóc Trăng gặp ông
cũng như nhận tiền mang về Châu Đốc. Lúc bấy giờ, tôi chừng 13 - 14 tuổi, những ngày lễ lớn được nghỉ học nhiều
ngày, tôi thường xuống thăm Ba tôi, nhà làm bún ở vùng Kho Dầu của tỉnh lỵ Sóc
Trăng. Có hai cái Tết, Ba tôi xin phép tỉnh tổ chức mở "trường" đá
gà, trên bãi đất trống, gần một cái cầu, xéo ngang với ty Bưu Điện và cũng trước
Tòa Hành Chánh Tỉnh. Tôi cũng khá lanh, nói được tiếng Miên chút chút đủ nói
chuyện thông thường nên lo thu tiền độ gà phải đóng cho chủ trường gà. Tôi
"cầm chịch", thường trực tại bàn phụ trách có đốt một cây nhang, chia
ra làm 3, buộc một sợi chỉ, có đồng xu tòng teng ở dưới. Khi nhang cháy tới sợi
chỉ đứt, đồng xu rớt xuống cái dĩa nghe tiếng "keng", tôi hô lớn là
ngưng trận đấu để hai bên bắt gà ra chăm sóc gà, gọi là vô nước làm cho con gà
nòi tươi rói trở lại, tỏ vẽ khỏe khoắn, hăng hái để còn tái đấu. Nhiều trận gà
đá rất lâu đến hết hai cây nhang, nghĩa là đến sáu hiệp mới có một con bị
thương tích nằm một chỗ,
đành chịu thua...
BA
TÔI CÓ BIỆT TÀI TÍNH SỐ LƯỢNG LÚA TRÊN SÂN - ĐÚNG TRÊN 90%
Con
xin phép hương linh ông già, cho thằng con trai thứ mười này ca tụng tài ông
già tính hàng ngàn giạ lúa trên sân giữa đồng nội như là một nhà toán học.
Tại
trại ruộng của Ba tôi gần Vàm Vung Thăng (mật khu Cả Hàng thời VC sau này, trước
năm 1975), bên lãnh thổ Miên. Ba tôi trình độ học chữ Việt chỉ học lóm không
có thầy
như cách học
sau này. Và trình độ học và hiểu biết chữ Nho cũng rất xoàng, nhưng võ nghệ thì
lại vô địch ở cái ấp nhỏ Bà Bài nên Ban Hội Tề làng Vĩnh Nguơn (Hội đồng xã) cử
Ba tôi giữ chức Hương Tuần của làng, không chỉ của ấp Bà Bài mà của cả làng
Vĩnh Nguơn. Chỗ nào có trộm cướp khuấy phá nhiều, Ban Hội Tề thường mời Ba tôi
tới phối hợp với dân đinh địa phương dạy họ cách sử dụng tầm vông, đao kiếm và
côn quyền sơ sơ vài ngày tạo cho dân làng thêm tự tin để diệt trộm cướp. Tiếng
tăm của ông già tôi vang dội cả làng có chiều dài trên dưới 15 cây số, giáp với
lãnh thổ Miên. Và các làng ấp lân cận kể cả trên đất Miên cũng đều nghe danh ông Hương Tuần Bà Bài.
Những đám cướp cạn - cướp nhỏ vài ba tên Khờ Me nghe ông Cụ đến là chúng co giò
chạy xa hết. Ông già tôi nói tiếng Miên rất giỏi, những cái tài đó cũng không
có gì lớn lắm và nhiều người bái phục ông, cái tài tính đúng phóc hàng trăm,
hàng ngàn gịa lúa của một đống lúa to, vun cao như đỉnh núi, đỉnh đồi, mới đáng
ca tụng.
Chủ lúa tính sai biệt lúa lớn quá thì phải bồi
thường một số phí nào đó cho chủ chành lúa. Vì vậy phải có tính trước số lượng
lúa bán ra càng chính xác càng có uy tín, dòng họ bà con của Ba tôi đều nhờ ông
giúp việc này đều trót lọt, gần như đúng phóc, chỉ sai biệt vài giạ lúa thôi đối
với các đống lúa vài trăm giạ. Có nhiều chủ luá tính không ra số lượng thì đong
từng thùng lúa chuyển sang làm đống lúa mới. Cách tính này rất chính xác, cũng
mất công và thì giờ. Ở nhà quê, ít học có thể nói là dốt như Ba tôi mà tính số
lượng lúa rất siêu, xin lỗi các ông có Tú Tài, Cử Nhân cũng phải chào thua cho
nên ông được mọi dân làng tâng bốc như bậc đại sư phụ. Ông già tôi khi tính số lượng đống lúa to lớn, thường
không cho ai đến gần, ông có thể bị phân tâm? ông đi chậm đếm bước lầm thầm
trong miệng, coi xem cái vòng tròn bao nhiêu, rồi ông đứng ngấm từ bìa đống lúa
đến đỉnh vun của lúa, rồi ông tính nhẩm xong, ông viết vào một mảnh giấy nhỏ.
Ông lại đi đếm từng bước và đứng lại một chỗ khác lúc ban đầu, cũng tính nhẩm,
viết lên giấy, bỏ vào tuí, đi vào nhà. Ông già chậm rãi uống trà xong mới đem
hai lần tính số lượng lúa quá lớn so sánh sự khác biệt xong. Khi ông uống trà
tách thứ hai cũng với suy tư và đầu óc luôn tính toán, ông phán một câu cho mọi
người chung quanh nghe, đống lúa đó 3 ngàn giạ, người nhà ghi vô sổ đóng lúa 3
ngàn giạ và lần lượt còn nhiều đống lúa nhỏ hơn, ông tính nhanh hơn và thường
tính một lần. Một đống lúa như cái hòn núi nhỏ đến mấy ngàn giạ mà ông già tính
đúng, sai biệt rất nhỏ, năm mười giạ, quả
thật không được phong thần hay khiêm nhường một chút - người chột làm vua của xứ
người mù.! Hình như mỗi đống lúa lớn có cắm một cây tầm vông gần cả chục thước,
để cho các xe bò chở lúa đến đổ chung quanh cái mốc cây tầm vông, có người cào
lúa vô chỗ cắm cây tầm vông và xung quanh, vòng tròn phải tính bao nhiều bước.
Tôi nghĩ, nhờ có hai yếu tố này, độ cao của cây sào ở giữa đống lúa và chu vi
bãi lúa, Ba tôi chỉ dùng phép tính rợ mà tính đúng số lượng lúa của cái đống
lúa to sù đó, mới khiếp chớ! Còn các người có học cao, họ mất nhiều thì giờ
tính toán, diện tích, chu vi với độ cao mới có thể biết được số lượng cả đống
to đùng đó. Đàng này, ông già tôi chỉ tính rợ thôi vì thiếu chữ nghĩa mà trúng
phóc, tới bây giờ, tôi vẫn còn bái phục ông già tôi sát đất.
Con của Ba luôn kinh nhớ và bái phục Ba của
con nhiều vấn đề kể cả vấn đề tình ái có nhiều đào mà Ba luôn quý trọng đào nhà
là đào ruột, quý trọng nhứt - Lá rụng về cội. Ngày nay chuyện này không còn nữa
đã đi vào dĩ vãng, không còn cảnh trai năm thê bảy thiếp, gái chính chuyên chỉ
có một chồng.
Tôi còn nhớ rõ, một đống lúa để chuẩn bị chuyển
xuống ghe, ghe phải đậu gần bờ sông, bờ kinh. Tại đây có một "cầu
tàu" dã chiến, từ cầu tàu bắc qua ghe phải có hai tấm ván mỏng và chắc, một
tấm để mang lúa lên ghe, một tấm khác để người đội lúa đi lên bờ (như là chạy
lúp xúp cho nhanh). Tấm ván cũng có độ nhún nhịp lên xuống làm cho người đội
lúa dễ đi và nhanh hơn tấm ván dày cứng không có độ nhún. Tại mỗi đống lúa có
vài người xúc lúa đổ vô thùng, thùng có quai hai bên, người khác đổ vô thúng, mỗi
thúng đựng được hai thùng lúa. Tại khâu này, có thêm hai người nữa, đưa thúng
lúa lên đầu người đội, họ cứ thoăn thắt đi cho thật nhanh, ngang qua hai người
đại diện bên bán bên mua lúa, gần nhau. Khi một người đội lúa đi ngang qua hai
đại diện, bên bán lúa xướng lên "thẻ" đưa một cái thẻ nhỏ bằng tre
(tượng trưng cho một giạ lúa), bên mua lúa bỏ tấm thẻ vào một cái thùng hay cái
thúng cũng xướng lên "thẻ". Hình như,
mỗi người đội lúa tối đa một trăm lần đem xuống ghe thì đã mệt phờ rồi,
nên được tạm nghỉ giài lao, uống nước, hút thuốc, chừng mười phút rồi tiếp tục
cho đến nắng lên khoảng 9 giờ sáng mọi người nghỉ, ăn cơm trưa, còn ngủ dưỡng sức
cho sự làm việc buổi chiều cũng mất thêm vài giờ nữa, kể như hết một ngày làm
việc quá vất vả. Mọi người lo tắm - nhảy ùm xuống nước, lên thay quần áo. Đến
giờ ăn cơm, có người phục vụ, thường ở trại ruộng ăn rất ngon, cá, lươn thì ê hề,
có khi Ba tôi còn làm heo hay giết bò để cho mọi người ăn no nê và còn uống rượu
đế nữa để có giấc ngủ say qua đêm. Sáng tờ mờ là bắt đầu công việc như hôm
qua... Nhiều khi lúa nhiều quá, chở một
đợt như vậy mất cả tuần hay hơn, đem lúa xuống ghe phải đầy ghe, chiếc này lui
bến thì có chiếc ghe kế thay vào...
Ai có chứng kiến, cảnh huyên náo lúc đem lúa
hàng ngàn, chục ngàn gịa lúa xuống ghe chài tổ chảng mới thấy ông bà mình quá
thông minh, dù dốt, không học cao. Nhưng cách làm việc rất khoa học, bài bản và
luôn tạo niềm vui cho những người làm công vất vả, ăn uống nhậu nhẹt phủ phê,
nhưng phải có giờ giấc đàng hoàng để năng xuất làm việc được tăng cao.
Chỉ riêng chỗ xúc lúa đổ vô thúng, tối thiểu
phải có bốn người trở lên - hai người xúc lúa đổ vô thùng, có hai người kế tiếp
đổ vô thúng và giúp đưa thúng lúa lên đầu cho người đội lúa mang xuống ghe. Người
đội lúa phải đi nhanh cho đỡ mệt và đổ lúa xuống một chỗ trong ghe, lại có người
cào lúa đều khắp ra tới tận đuôi ghe. Như vậy vụ cào lúa trong ghe tối thiểu
cũng hai người, còn người đội luá phải có hàng chục người, gồm toàn thanh niên
trai tráng khỏe mạnh mới đội nổi thúng lúa nặng gần 40 ký lô. Những người lao động
đội lúa này thường mướn dân làng tính tiền công hàng ngày. Còn những người cào
lúa, đổ lúa vào thúng của chủ trại lúa, còn cào lúa trong ghe do nhân công của
chủ ghe, chủ vựa. Còn miếng thẻ (hay gọi là tấm thẻ) tính số lượng lúa bằng giạ
mang xuống ghe, làm bằng thanh tre được chuốt vót kỹ, mỏng có hình dáng đẹp nữa,
ngang chừng gần một phân, dài gần một tấc, rất mỏng, cái thẻ được dùng nhiều lần,
năm này sang năm khác nên nó lên nước màu vàng nhạt, bóng láng trơn, còn mát
tay nữa.
Hồi xưa, mua bán lúa nhiều hàng chục ngàn gịa
lúa cũng chỉ bằng sức người, tay chân, không phải như sau này, người ta thường
cho vô bao chỉ xanh đưa lên cân rồi chuyển xuống ghe có hệ thống chạy bằng máy
lên hoặc xuống ghe hay có cần cẩu câu móc vào tấm lưới chứa đựng hàng chục bao
lúa đưa lên hoặc đưa xuống ghe. Mọi thứ đều dùng máy móc thay sức người. Có được
hạt lúa, hồi xửa hồi xưa, đều phải làm bằng tay, cắt lúa, cho bò đạp lúa, lúa
cũng dùng sức người đưa lên cao đổ từ từ xuống gọi là "giê lúa" cho bụi
và lúa lép bay ra khỏi lúa chắc...Nhiều công đoạn rất vất vả mệt nhọc, rất tội
nghiệp cho dân quê mình khổ từ đời ông đời cha qua tới đời con cháu và còn nối tiếp mà vẫn nghèo vẫn khổ vẫn thiếu thốn.
Nhưng, họ không chịu xa lìa chỗ
nghèo khổ ở đồng
quê, chôn nhau cắt rốn của mình. Còn ngày nay, gặt lúa (suốt lúa), lúa được
tách ra khỏi rơm rạ hay giê lúa cho bay ra lúa lép bà bụi bặm đều dùng cơ giới.
Dù vậy, nông dân
Việt Nam cũng vẫn cực hơn nông dân ở Mỹ. Nhưng, họ sướng hơn
ông bà tổ tiên mình gấp chục trăm lần về cách làm nông nghiệp mà năng xuất lại
cao hơn xưa nhiều lắm.
Chúng ta chỉ còn biết ngậm ngùi, nhớ lại và
vô cùng khâm phục công khó của ông cha mình xây dựng nên nền nông nghiệp vững
chắc nuôi sống người dân cho mãi trường tồn...
Từ hồi thời còn con nít, tôi có cuộc sống đầy
thơ mộng - một công tử bé tí nhà quê, rất vô tư an vui ở quê nhà - ấp Bà Bài -
bên bờ kinh Vĩnh Tế. Đến tuổi 12 bắt đầu nhuốm mùi khổ lụy chiến tranh, cùng tản
cư với gia đình ra tỉnh lỵ Châu Đốc, năm 1947. Nhớ lại, khi tôi ra đồng chơi đến
bầy bỏ đang gặm cỏ, có người theo canh chừng sợ bò đi xa bầy hay vào phá ruộng
rẫy của người khác. Đặc biệt, người chăn không nhanh và hiệu quả bằng một con
ngựa đực, loại thấp nhỏ con mà tôi rất thích cỡi đi dạo quanh đàn bò. Con ngựa
này rất khôn cũng đi ăn cỏ như bò mà hễ thấy có con bò tách xa bầy thi nó chạy
đến chận đầu và "dí" bò trở lại nhập vô bầy. Mỗi lần, tôi đến chơi với
anh chăn bò thì anh này biết tôi thích cỡi ngựa mà con ngựa này rất dễ cỡi, tôi
thót lên lưng ngựa như người lớn không được, anh phải bồng đưa tôi lên ngồi
ngay ngắn, cầm dây cương rồi, anh mới để ngựa đi để cho công tử hay dân cậu cỡi
ngựa "ngắm trời không phải ngắm hoa". Có một lần, tôi lên cỡi đi được
một vòng khá lớn, gặp một vũng nước còn đọng lại, nổi hứng, tôi muốn ngựa nhãy
qua vũng nước chiều ngang bằng chiếc đệm cho vui, bèn dùng hai gót chân thúc mạnh
vô bụng ngựa, giật dây cương như bảo ngựa chạy nhanh lấy trớn nhảy qua vũng nước,
ngựa nhảy qua dễ dàng chỉ có chàng công tử bị ngựa sãi sốc mạnh, sút dây cương,
chới với té xuống vũng nước, may không bị thương tích. Chiều, Ba tôi hay tin thằng
con trai yêu quý của ông cỡi ngựa bị té, ông rầy la anh chăn bò, anh nhin tôi
tiu nghỉu rất tội nghiệp.
Sau 10 năm sinh sống ở tỉnh lỵ Châu Đốc cùng
với 12 năm ở nhà quê, trải qua nhiều cuộc đổi đời, bề dâu của đất nước, chứng
kiến biết bao cuộc giết chóc đẫm máu người Việt
giết người Việt không chút đắn đo thương tiếc tại vùng bưng biền, vùng
sâu, vùng xa và ngoại vi tỉnh lỵ Châu Đốc. Đâu đâu cũng thường xảy ra những sự
bất an của cuộc sống, ngày vui chưa trọn ngày buồn đổ ập đến trên mạng sống của
người dân thường bất cứ lúc nào và bất cứ ở đâu trong cả tỉnh, cả nước.
Suốt thời điểm bể dâu chiến tranh đó, tôi may
mắn sống ở tỉnh lỵ Châu Đốc, Thị xã Cần Thơ, Thủ đô Sài Gòn dù ngắn ngủi nhưng
bằng an. Sự chết chóc không còn thường xuyên đeo đuổi bám theo tôi nữa, không
còn sự lao đao, lận đận nhiều đau khổ.
Đến hết chiến tranh, từ năm 1975, cứ tưởng
hòa bình lập lại người dân Miền Nam thua cuộc hiền hòa an phận sẽ được đối xử
nhân ái vì cùng chủng tộc dòng giống Việt Nam - da vàng mũi xẹp. Nhưng, ác hại
thay, người dân miền Nam lại còn bị vướng
thêm bi thảm khổ lụy hơn hồi thời còn chiến tranh, bị người ta - kẻ thắng cuộc
thẳng tay đày đọa xuống đáy vực, muốn mọi người của chế độ cũ phải chết hay bị
lầm than khốn khổ, bị đày ải trong các ngục tù tủi nhục khắp cả đất nước Việt
Nam
Thật trớ trêu, khổ nhục quá, lúc ở tù khổ sai
miền núi non Sơn La, tôi muốn chết càng sớm càng thoát nợ trần ai. Nhưng, có lẽ
ông Trời bắt tôi, và những chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã buông súng chịu
nhục hình không được chết phải sống để làm lại cuộc đời mới nơi xứ lạ quê người,
để ngày nhắm mắt xuôi tay có dịp về gặp lại ông bà cha mẹ đang ở quê hương yêu
dấu của mình. Tôi sẽ bay về ấp Bà Bài nhà quê đang chờ đón tôi, con sẽ gặp
lại Ba Má!!!
Cái ấp Bà Bài, cư dân chỉ ở dọc bờ kinh Vinh
Tế, dài dưới ba cây số, cách tỉnh lỵ không xa, trên dưới 10 cây số đường chim
bay. Dân chúng gần 100 phần trăm mù chữ Quốc Ngữ, chữ nho cũng có người biết
lõm bõm - một thiểu số, trong số đó có
Ba tôi. Ông hơn người trong ấp, chữ quốc ngữ chỉ học lóm ông cũng đọc được nhựt
trình - báo giấy khi có người ở tỉnh mang vào, biết ký tên, biết cộng trừ, ghi
chép số lúa bán ra và thu tiền vào...Cái hơn người nữa của ông là ông biết võ
nghệ thuộc loại cao thủ võ lâm của địa phương, ông lại can đảm không bao giờ sợ
trộm cướp, sợ "khơ me cáp duồn" vì nhà ở của gia đình tôi chỉ cách đất
Miên chừng hơn một cây số. Còn nói tiếng Miên, ông nói thao thao, ở nhà thường
vận xà rông lọai sang tơ lụa, đắt tiền mà giới chức sắc, giới điền chủ nhà giàu
Miên mới mua sắm. Còn nông dân Miên thường vận xà rong vải thô, mặc đến cũ mèm
trông nhếch nhác. Ở trong đám đông có cả người Miên và người Việt, người ta thấy
ngay sự khác biệt, nhận ra ông ngay, ông có nước da trắng, to con như Tây, dù
ông nói tiếng Miên có giọng như người Miên. Tất cả người Miên gần trại ruộng của
ông đều trân trọng quý mến ông, có món ngon vật lạ đều đem đến trại ruộng biếu
ông và cùng ông nhậu quắc cần câu luôn, có khi ngủ cả buổi trưa, thức dậy, giã
rượu mới từ giã ra về hay nếu nhậu buổi chiều thì ở lại đến sáng...
Để kết thúc bài này, một đứa con cưng của ông, sau hơn
80 năm, viết lại cuộc đời kiệt hiệt đầy ấn tượng của Cha mình như là một nén
hương tưởng niệm, kính yêu Cha và hình ảnh Cha Già luôn mãi trong trái tim con.
Sacramento,
nhân ngày Lễ Từ Phụ - Father's Day tại Huê Kỳ 20.6.2021
Anh Phương Trần Văn Ngà
(10.6.2021)


Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét