Người di cư miền Bắc lên tàu USS Litchfield County (LST 901) của Hải Quân Hoa Kỳ tại cảng Hải Phòng để di cư vào Nam. (Hình: Naval History and Heritage Command) Trong lịch sử cận đại Việt Nam, không có sự kiện di cư nào quy mô nào bằng sự kiện 1954. Nó chất chứa khối nặng tâm tình dân tộc. Nó là một trường ca vĩ đại trong số những trường ca ai oán nhất của dân tộc. Xét riêng về chính trị, cuộc di cư 1954 là một sỉ nhục lịch sử của chế độ cộng sản Bắc Việt, đặc biệt trong bối cảnh mà những tên tuổi Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp thời điểm đó đang vang danh toàn cầu.
<!>
Thế nhưng những nhân vật này đã không thể giữ được chân của khoảng một triệu đồng bào Bắc Việt. Họ đã không chọn đứng chung hàng ngũ cộng sản và sống với hào quang chiến thắng Điện Biên Phủ xóa sổ thực dân Pháp. Họ chạy về phía Tự Do…
Cho đến nay, sau 70 năm, Cộng Sản Việt Nam tiếp tục bóp méo ý nghĩa của sự kiện di cư 1954. Trang web Bảo Tàng Lịch Sử Quốc Gia hiện vẫn còn bài “Mỹ tổ chức cưỡng ép đồng bào miền Bắc di cư vào Nam.”
Bài báo viết: “Chính sách di cư của Mỹ-Diệm nhằm đạt ba mục đích cơ bản sau:
Một là, về mặt chính trị, đối với thế giới, Mỹ và tay sai cố tạo ra dư luận xấu về chế độ của Việt Nam ở miền Bắc nhằm ngăn chặn sự ủng hộ của nhân dân thế giới đối với cuộc đấu tranh thống nhất đất nước của nhân dân ta; tạo ra ảnh hưởng xấu của cách mạng Việt Nam đối với các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á.
Hai là, về kinh tế-xã hội, đối với miền Bắc, Mỹ-Diệm hy vọng rút được một số lượng trí thức, công nhân kỹ thuật vào Nam, tạo ra những xáo động lớn, phá hoại sản xuất, làm cho miền Bắc không ổn định về kinh tế, khiến cho lòng người ly tán, nội bộ lục đục, gây khó khăn cho ta trong cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà và hàn gắn vết thương sau chiến tranh. Đối với miền Nam, vùng bị tạm chiếm, dân di cư sẽ là nguồn cung cấp nhân công rẻ mạt cho các đồn điền cao su, cà phê, cây ăn quả và một số cây công nghiệp mới du nhập sau Chiến tranh thế giới thứ hai ở miền Nam.
Ba là, ở miền Nam, với số người di cư, Mỹ-Diệm nhằm “thăng bằng sự chênh lệch giữa dân số miền Bắc 12 triệu và dân số miền Nam 11 triệu.” Điều này có nghĩa là “tăng thêm hy vọng của thắng lợi tổng tuyển cử đối với những lãnh tụ quốc gia, đồng thời tạo ra cơ sở xã hội vững chắc cho chế độ Diệm. Đồng bào di cư là nguồn nhân lực quan trọng đáng kể để xây dựng ngụy quân, củng cố ngụy quyền.”
***
Đi về phía Tự Do, bằng mọi giá!
Luận cứ rằng đồng bào miền Bắc di cư vào Nam là bởi ảnh hưởng từ chiến dịch tâm lý chiến thành công Edward Lansdale (người thai nghén ý tưởng “Đức Mẹ vào Nam,” khiến người Công Giáo Bắc Việt gồng gánh đổ xô lên những con tàu há mồm vào Nam), trở nên phổ biến đến mức hễ đề cập đến sự kiện di cư 1954 thì mặc nhiên dư luận nghĩ đến “âm mưu” của Edward Lansdale. “Nguyên nhân lịch sử” này tất nhiên được hệ thống tuyên truyền cộng sản cổ xúy. Trong thực tế, ngay trước khi Hiệp Định Geneva ra đời, những cuộc di cư nhỏ lẻ đã hình thành, khi người dân Bắc Việt bắt đầu nhận ra diện mạo của chế độ Hồ Chí Minh.
Chính Edward Lansdale cũng nhấn mạnh rằng “con người không tự nhổ rễ mà đem mình đi nơi khác chỉ vì những khẩu hiệu. Họ thực sự lo sợ về những gì có thể xảy đến cho họ và cảm xúc của họ đủ mạnh để vượt lên sự quyến luyến đối với đất đai, nhà cửa và mồ mả tổ tiên họ. Vì vậy, sự chủ động phần nhiều thuộc về họ – và chúng tôi chủ yếu biến việc di cư thành khả thi” (Nguồn: Peter Hansen – “Bac Di Cu: Catholic Refugees from the North of Vietnam, and Their Role in the Southern Republic, 1954–1959”,Journal of Vietnamese Studies, Vol. 4, No. 3, 2009).
Một cách chính xác, không Edward Lansdale nào hoặc chiến dịch tâm lý chiến nào đủ mạnh để có thể khiến hàng triệu người vất bỏ tài sản, sự nghiệp, thân nhân, thậm chí vợ con… để đến vùng đất lạ trong khi không thể hình dung cuộc đời họ sẽ thay đổi như thế nào. Chỉ có sự sợ hãi chế độ cộng sản, sợ hãi tột cùng, thậm chí kinh tởm, mới có thể khiến người ta dứt áo lên đường. Cộng sản, chính sách cai trị cộng sản và chính cán bộ cộng sản mới là nguyên cớ thúc đẩy đồng bào Bắc Việt ra đi. Trước khi Hiệp Định Geneva ra đời, chính sách cai trị cộng sản đã trở thành nỗi ám ảnh của đồng bào Bắc Việt.
Nhiều giáo dân Công Giáo, với ảnh hưởng bao trùm của những giám mục như Pierre Phạm Ngọc Chi, đặc biệt Giám Mục Thaddeus Lê Hữu Từ ở Phát Diệm (Ninh Bình), đã chấp nhận bỏ quê nhà để lên đường theo “tiếng gọi của Chúa.” Điều này ít nhiều là sự thật; tuy nhiên, nếu cộng sản “tử tế” thì giáo dân hẳn đã không chạy về phía Tự Do. Nói cách khác, Hiệp định Geneva là giọt nước tràn ly, là khoảnh khắc quyết định, là giây phút của nhận thức lịch sử.
Số liệu chính thức của VNCH vào Tháng Mười, năm 195,5 cho biết, những người từ miền Bắc di cư vào Nam gồm 676,348 tín đồ Công Giáo (76.3% tổng số người Bắc di cư); 209,132 tín đồ Phật Giáo (23.5%) và 1,041 Tin Lành (0.2%). Nếu lịch sử lặp lại, con số di tản vào Nam thậm chí có thể cao hơn rất nhiều. Trong thực tế, dù tuyên truyền rằng “Mỹ-Diệm” đã sử dụng nhiều “thủ đoạn” lôi kéo đồng bào Bắc Việt vào Nam nhưng chính Việt Minh mới là những kẻ dùng đủ mánh khóe để ngăn chặn đồng bào tản cư.
Việt Minh phá rối cuộc di cư như thế nào?
Trong “Việt Nam 1945-1995,” Giáo Sư Lê Xuân Khoa thuật: Điều 14 (d) của Hiệp định Geneva không những cho phép dân chúng được tự do chọn lựa nơi cư trú trong thời hạn ấn định mà còn nói rõ rằng các nhà chức trách địa phương phải giúp đỡ họ di chuyển được dễ dàng. Trong thực tế, để ngăn chặn làn sóng người “bỏ phiếu bằng chân,” chính quyền VNDCCH đã áp dụng vô số biện pháp, từ thuyết phục đến cản trở, từ đe dọa đến sử dụng bạo lực.
Một bản tin của Linh Mục Patrick O’Connor từ Hà Nội điện về cho tổ chức National Catholic Welfare Conference ở Washington DC ngày 5 Tháng Mười, 1954 chép:
“Hai điều vi phạm hiển nhiên của Việt Minh mà ai cũng biết là: Giữ lại những người bị bắt giam mà họ đã thỏa thuận thả ra trong vòng 30 ngày (tức là đến 20 Tháng Tám, 1954), và ngăn chặn sự ra đi của những người Việt Nam muốn ra khỏi vùng Việt Minh kiểm soát… Thật ra, mãi đến tuần lễ thứ nhì của Tháng Chín (1954), Việt Minh mới thả một số tù binh. Trong khi những thường dân Việt Nam đầu tiên được thả vào ngày 15 Tháng Chín thì vẫn còn khoảng 30,000 người chưa được biết rõ số phận…”
Cũng theo Giáo Sư Lê Xuân Khoa, nhân chứng cho việc vi phạm Hiệp định Geneva của Việt Minh còn có Thượng Nghị Sĩ Mỹ Mike Mansfield khi ông thực hiện chuyến khảo sát Đông Dương vào Tháng Mười, 1954; các ký giả Robert Martin (U.S. News & World Report), Yves Desjacques (Le Figaro); những bài tường thuật trong các báo Christian Science Monitor, Journal d’Extrême-Orient, New York Herald Tribune, New York Times, Osservatore Romano; và những bản tin của Junior Chamber of Commerce từ Manila, U.S.I.S. và Vietnam Press từ Sài Gòn.
Cần nhắc lại, ngay khi mới “giải phóng” Phát Diệm, Việt Minh đã chiếm nhà dòng Công Giáo, tịch thu tài sản, ruộng đất của các tu viện và họ đạo. Linh mục bị bắt phải mặc quần áo nông dân và phải làm ruộng… Tại nhiều nơi, một thứ thuế quái đản ra đời, được áp dụng cho những ai đeo mề đay Công Giáo! Chưa hết, linh mục được làm lễ, nhưng mỗi người vào nhà thờ dự lễ phải trả 1,000 đồng tiền thuế… Việt Minh còn phát “Kinh Thánh Mới” được sửa đổi, trong đó có những câu như: “Chúa Giê-Su là một người lao động tranh đấu cho công cuộc giải phóng anh em của Người là các công nhân.”
Những thủ đoạn khó lường
Bài nghiên cứu “Bac Di Cu: Catholic Refugees from the North of Vietnam, and Their Role in the Southern Republic, 1954-1959” của Peter Hansen ghi rõ rằng, giữa năm 1955, có nhiều báo cáo về các trường hợp trong đó bộ đội Việt Minh và cán bộ hành chính VNDCCH đã chủ động cản trở hoặc ngăn chặn những người có khả năng di cư, không để họ tiếp cận các điểm xuất phát tại Hà Nội-Hải Phòng. Điều này được thực hiện thông qua một sự phối hợp giữa lực lượng quân đội và sự cản trở về mặt hành chính; thẩm quyền cấp phép di cư thuộc về các nhà chức trách cư ngụ tại các vùng tương ứng.
Trong “Cross and the Bo-tree: Catholics and Buddhists in Vietnam” (1970) của Piero Gheddo; hoặc Chương 5 (The Twin Tyrannies) trong “Vietnam: An Epic Tragedy, 1945-1975” (NXB Harper Collins 2018) của tác giả Max Hastings cũng có những chi tiết tương tự.
Một số thủ đoạn được Việt Minh áp dụng gồm:
-Gây hoang mang lo sợ cho người dân bằng cách phao tin đồn, chẳng hạn Pháp bắt dân vào làm phu đồn điền cao su, đàn bà bị hãm hiếp, trẻ con bị đem đi bán, giặc Pháp và Mỹ hung ác trả thù Việt Nam bằng cách đổ người xuống biển khi tàu ra ngoài khơi.
-Không cấp hoặc trì hoãn cấp giấy phép di chuyển cho những người ở trong vùng do Việt Minh kiểm soát.
-Ngăn cấm hoặc làm khó dễ việc bán nhà cửa, ruộng nương của những người chuẩn bị ra đi.
-Dọa bắt hay ngược đãi thân nhân của những người ra đi còn kẹt lại.
-Không cung cấp phương tiện vận chuyển và gây cản trở việc di chuyển của đồng bào di cư trên đường bộ cũng như đường thủy. Hành hung người ra đi ở các bến xe, nhà ga hay bến tàu.
-Kiếm cớ bắt chủ gia đình hay bắt cóc trẻ em khiến cả nhà phải ở lại.
-Giật mìn hay nổ súng vào xe cộ, bắn phá hoặc đánh chìm tàu thuyền chở người tị nạn
Hải Quân Mỹ trên tàu USS Estes (AGC-12) đưa người di cư đặt chân tới cảng Sài Gòn. (Hình: Naval History and Heritage Command)
Liều chết ra đi
Trong một điện văn gửi bộ trưởng các quốc gia liên kết ngày 29 Tháng Mười, 1954, Cao Ủy Pháp ở Sài Gòn cho biết:
“Từ đầu tuần vừa qua, các phi cơ thám sát của hải quân đã thấy trên những bãi cát dọc theo bờ biển có nhiều nhóm dân đánh cá ra dấu hiệu. Hải quân được tin đã cho tàu tuần tiễu tới cứu giúp. Khi tới gần duyên hải Bùi Chu và Phát Diệm, hải quân thấy hiện ra trên mặt biển đầy thuyền bè đủ loại. Các giới thạo tin ở Hải Phòng cho hay Việt Minh đã ngăn cấm thuyền đánh cá ra khỏi hải phận, tức là ba hải lý. Hơn nữa, tại hàng trăm địa điểm miền duyên hải, nhà cầm quyền cộng sản đã bắt dân chúng phải di cư lui vào nội địa nhiều cây số…” (nguồn: “Việt Nam 1945-1995” – Lê Xuân Khoa)
Một vụ cứu người tị nạn được thuật trên báo Journal d’Extrême-Orient ngày 25 Tháng Mười 1954 như sau:
“Với những lá cờ vàng và trắng của Vatican phấp phới trong gió, cả ngàn chiếc thuyền đánh cá, bè mảng và thuyền buồm, quá tải người tị nạn, đã ra đi vào ban đêm phó mặc cho số phận, tiến về phía những chiến hạm nhỏ của Pháp ở ngoài khơi Vạn Lý bên kia vùng hải phận của Việt Minh. Không may, có nhiều thuyền bè đóng vội đã bị sóng biển lật úp hay đánh vỡ làm thiệt hại rất nhiều sinh mạng và hàng hóa. Hàng trăm người tị nạn đã chết như vậy.
Tuy nhiên, giữa 6 và 8 giờ sáng hôm qua, chiếc Jules Vernes, vốn là một con tàu cũ dùng để tiếp tế cho tàu ngầm, đã vớt được 3,000 dân tị nạn; trong khi tàu Commandant de Pimodam, vớt khoảng 600, và hai chiếc LSM11 từ Hải Phòng tới tăng cường, mỗi chiếc vớt được khoảng 1,000 người… Thủy thủ đoàn người Pháp làm việc hết sức để chuyển người lên tàu, nhất là phải kéo lên những trẻ sơ sinh, người già hoặc người có bệnh. Có những chiếc bè bị ngập sóng chở cả những con trâu mà những người chạy trốn chế độ Hồ Chí Minh vội vã đem theo…”
Ngoài những vụ vượt thoát nguy hiểm, còn có những vụ xung đột đẫm máu giữa dân chúng và lực lượng công an, quân đội ở một số nơi, nhất là vụ 5,000 bộ đội Việt Minh xả súng vào ngót 20,000 thường dân ở Ba Làng (Thanh Hóa) vào ngày 8 Tháng Giêng 1955, và vụ 10,000 bộ đội, dân quân và công an hợp lực đàn áp và bắt giữ 3,000 dân Lưu Mỹ (Nghệ An) ngày 13 Tháng Giêng 1955 – chỉ vì dân chúng ở hai nơi này biểu tình đòi di cư và chống cự bằng giáo mác, gậy gộc…
Theo Phủ Tổng Ủy Di Cư của chính phủ Ngô Đình Diệm, tổng số dân rời Bắc vào Nam là 875,478 người – trong đó có 871,533 người đi trước ngày 19 Tháng Năm; và 3,945 người đi trong thời gian gia hạn. Nếu tính thêm số người vượt tuyến sau khi hết hạn, khoảng 76,000 người đi bằng thuyền hay đường bộ (xuyên rừng qua Lào), thì tổng số tị nạn lên tới gần 950,000 người. Trong 871,533 người đi đúng kỳ hạn, có 213,635 người được Pháp chở bằng máy bay (4,280 chuyến), số còn lại gồm 555,037 người được chở bằng tàu thủy; và 102,681 người đi bằng phương tiện riêng (Nguồn: “Việt Nam 1945-1995,” Lê Xuân Khoa).
Trong “Ngô Đình Diệm và chính nghĩa dân tộc,” tác giả Minh Võ viết: “Mẹ tôi kể lại, bốn mẹ con phải đi bốn lần mới có một lần thành công. Đường đi dài gần 200 cây số mà cứ gần đến Hải Phòng thì lại phải dẫn nhau quay về, vì lần nào cũng bị Việt Minh ngăn cản, dụ dỗ, đe dọa. Lần thứ bốn, may có một cán bộ địa phương thương tình cấp giấy tờ cho đi hợp pháp mới tới nơi. Bà đã gặp lại người cán bộ này tại miền Nam chỉ ít ngày sau đó. Anh ta nói khi cấp giấy cho gia đình tôi, là trong bụng đã ôm mộng bỏ đảng ra đi rồi.”.
Nếu lịch sử lặp lại, sẽ có bao nhiêu đồng bào Bắc Việt chọn đi về phía Tự Do?
***
Trích “Hai mươi năm qua, Việc từng ngày, 1945-1964” của Đoàn Thêm
26-5-1954: Tại Hội Nghị Genève, Pháp và VM đã thỏa hiệp: ngừng bắn, thu quân về những khu vực chỉ định. VM muốn sự chia khu vực được giản dị, nghĩa là cắt đôi VN. VM rút về Bắc, Pháp rút về Nam. Pháp chưa trả lời. Anh tán thành. Mỹ phản đối. VN giữ nguyên lập trường: chỉ có một VN thống nhất. Quốc dân Đại hội nhóm họp ở Saigon, phản đối kịch liệt dự định chia đôi đất nước.
6-7-1954: chánh phủ Ngô Đình Diệm thành lập (SL. 43/CP).
7-7-1954: chánh phủ Ngô Đình Diệm tựu chức.
21-7-1954 (22 tháng 6 Giáp Ngọ): Hội Nghị Genève nhóm họp phiên cuối cùng, để xác nhận những thỏa hiệp đã đạt, trong những văn kiện được gọi là Hiệp định Genève (Accords de Genève). Chủ Tịch phiên họp, là đại biểu Anh Anthony Eden. Trước khi ký kết, Chủ Tịch hỏi lại từng Phái đoàn xem có xác nhận không. Các Phái đoàn lần lượt tuyên bố xác nhận, ngoại trừ vài ý kiến dè dặt về một số điều khoản (Mên, Lào, Việt, Mỹ). Những ý kiến đó không làm thay đổi các dự thảo Hiệp định, song được ghi trong các phụ bản đính theo.
Hiệp định đình chiến tại VN, gồm 47 điều, với một Phụ lục. Các điều khoản chính:
1/Định một giới tuyến quân sự từ cửa sông Bến Hải, theo giòng sông đến làng Bồ-Hô Su (nguyên văn – MK) và biên giới Lào Việt (không thấy nói đến vỹ-tuyến 17).
2/Lập một khu phi quân sự 5 cây số bề rộng bên này và bên kia giới tuyến để làm “khu đệm” theo nguyên văn Hiệp định.
3/Thời hạn tối đa để rút quân hai bên, là 300 ngày, kể từ ngày Hiệp định có hiệu lực.
4/Ngày giờ ngừng bắn:
ở Bắc Việt: 8 giờ ngày 27-7-1954
ở Trung-Việt: 8 giờ ngày 1-8-1954
ở Nam Việt: 8 giờ ngày 11-8-1954
5/Trong khi chờ đợi tổng tuyển cử, mỗi bên sẽ phụ trách quản trị hành chánh ở khu tập hợp quân đội thuộc quyền.
6/Cấm phá hủy trước khi rút lui; không trả thù hoặc ngược đãi những người đã hợp tác bên đối phương.
7/Trong thời gian 300 ngày, dân chúng được tự do di cư từ khu này sang khu thuộc bên kia.
8/Cấm đem thêm quân đội, vũ khí đạn dược hoặc lập thêm căn cứ quân sự mới.
9/Tù-binh và thường dân bị giữ, được phóng thích trong hạn 30 ngày kể từ khi ngừng bắn thực sự.
10/Sự giám sát và kiểm soát thi hành hiệp định, sẽ giao cho một Ban Quốc Tế.
11/Thời hạn rút quân, định riêng cho từng khu, kể từ ngày ngừng bắn: Hà Nội (80 ngày), Hải Dương (100 ngày), Hải Phòng (300 ngày), miền Nam Trung Việt (80 ngày), Đồng Tháp Mười (100 ngày), Cà Mau (200 ngày). Đợt chót ở khu tập kết Trung Việt (300 ngày).
10-8-1954: Cầu hàng không chở dân di cư vào Nam. Mỗi ngày có năm bảy chục phi cơ của Quân đội Pháp tới Tân Sơn Nhứt; Bộ Xã Hội lo tiếp đón và giúp đỡ. Ở Bắc, hàng ngày có vài ngàn người về Hà Nội để chờ vô Nam; không được đi máy bay thì xuống Hải Phòng đáp tàu biển, của Pháp và cả của Hoa Kỳ.
1-7-1955 (12 tháng 5 Ất-Mùi):
Tổng số dân di cư:
533.868 người vào Nam bằng tàu biển.
243.657 người vào Nam bằng máy bay.
Số trại định cư:
122 trại ở 12 tỉnh Nam phần.
55 trại ở 8 tỉnh Trung phần.
9 trại ở 6 tỉnh Cao-Nguyên.
Số nhà đã dựng:
43.288 nhà chắc chắn, và 3.763 nhà tạm trú.
Ngân khoản được cấp: 1.058.000.000$
480 triệu để trợ cấp định cư; 300 triệu để cấp cho người định cư làm lấy nhà.
Mỗi người được cấp:
700$ trợ cấp tài chánh.
12$ tiền ăn mỗi ngày.
Số dụng cụ vật liệu đã phát:
124.813 dụng cụ canh nông.
681.585 kiện vải, 393.994 cân chỉ, 3.471 cân chì làm chài lưới.
(Tài liệu của Phủ Tổng ủy Di-cư)
11-7-1955:
-Vài trăm dân di cư biểu tình ở Saigon, đòi trục xuất các phần tử Cộng sản.
-Quân đội tiến về Rạch Giá, bao vây Trung Đoàn Lê Quang của Tướng Ba Cụt.
-Tại Bộ Xã Hội, trước mặt T.Tr. Vũ quốc Thông, một nhân-viên sinh quán tại Chợ Lớn tuyên bố: hiến 1/2 lít máu để vẽ chân dung Ngô Chí-Sĩ đem bày nhân dịp Triển Lãm Thông Tin ngày 20 tháng 7.
13-7-1955: Sinh-viên, học-Sinh biểu tình ở đường Champagne, đả đảo Ủy Hội Quốc Tế vì có ý bênh vực VM, đòi thả binh sĩ còn bị VM giam giữ. Ủy Hội hứa xét lại vấn đề.
16-7-1955: Th.T. Ngô đình-Diệm tuyên bố: VN không ký kết Hiệp-Định Genève, nên không bị ràng buộc, song vẫn trung thành với chánh sách hoà bình, và sẵn sàng tổ chức tổng tuyển cử nếu có thể bầu được tự do.
20-7-1955: Biểu tình khổng lồ chống Cộng và chống sự chia đôi đất nước. Dân chúng ập vào phá nhiều phòng của Khách sạn Majestic và khách-sạn đường Trần-Hưng-Đạo, nơi có sĩ quan VM lui tới với Ủy-Hội Quốc-Tế. Thiệt hại khá nhiều.
LTS: Nhật báo Người Việt mở mục “70 Năm Di Cư (1954-2024)” nhằm kỷ niệm biến cố sau khi Hiệp Định Genève có hiệu lực (21 Tháng Bảy, 1954) hàng triệu người từ miền Bắc di cư vào miền Nam theo tiếng gọi của Tự Do.
Mạnh Kim
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét