Nhìn Ra Bốn Phương

Thứ Tư, 24 tháng 1, 2024

Tịch Dương Hồng - Tác giả Đoàn Dự

                           Photo Ara
Hắn cũng thích hình ảnh ánh nắng chiều, nhạc sĩ Lê trọng Nguyễn để đời ca khúc "nắng chiều", nó lôi cuốn khiến nhiều người mê đắm. Những ánh tà dương khiến bao thi nhân sáng tạo, nếu gom chép lại chắc có đến hàng vạn dậm đường.Hắn lại thích nhìn ánh nắng chiều rơi dần xuống biển, những lần đi ra biển thế nào cũng phải ra ngắm ánh tà dương được biển ôm ấp từ từ. Ngày bắt đầu học thể thơ Đường luật, hình như lớp đệ ngũ thì phải, bài thơ Đường đầu tiên hắn được học là bài "Qua đèo ngang" của Bà huyện thanh Quan, biết bao nhiêu luật lệ thơ Đường được thày giáo giảng nào là Niêm, luật, đối... nào là "nhất tam ngũ bất luật, nhị tứ lục phân minh" và một bài Đường thi khác ""Phong kiều dạ bạc",, thầy bắt nghiền ngẫm cho dù một học sinh 14,15 tuổi một chữ Hán bẻ làm tư cũng không biết, nhưng cứ đọc cứ thuộc rồi tự nó lộ diện cho hiểu.
<!>
Hắn chỉ thích đọc thơ Đường của cụ Tú Vị Xuyên hay của cô Hồ, tuy bỡn cợt đến độ lộ liẽu nhưng không bao giờ trật niêm luật đối. Nghe cô làm bài thơ vần "om"

Trời đất sinh ra đá một chòm,
Nứt làm hai mảnh hõm hòm hom.
Kẽ hầm rêu mọc trơ hoen hoẻn,
Luồng gió thông reo vỗ phập phòm.
...
Cụ Tú Xương cũng "siêu" không kém đàn chị

Một trà một rượu một đàn bà
Ba cái lăng nhăng nó quấy ta
Chừa được thứ nào hay thứ ấy
Họa chăng chừa rượu với chừa trà

Trong bài có một đoạn nói người Quảng Đông không gả con gái cho người Việt, câu chuyện này có viết trong tác phẩm "Xô ngã bức tường rêu" của Bình nguyên Lộc, quan niệm cổ xưa của họ không muốn dòng giống Tàu bị mất, nhưng con trai lấy gái Việt lại được ủng hộ vì đem thêm người vào gióng nòi Tàu; ích kỷ và kỳ thị ; điều đó họ cho là gia phong của người Quảng đã nghìn năm qua, tuy là bức tường rêu nhưng phá vỡ nó không dễ.
Tác giả Đoàn Dự viết bài này kiến thức uyên bác, rành rẽ Hán tự, mời các bác nghiên cứu với nhà văn.
Hắn gởi tặng bác nào thích Đường thi .

Photo Ara

Tịch dương hồng là ánh hồng của mặt trời khi sắp lặn. Người Trung Quốc thời cổ cho là đẹp lắm. Vâng, tôi cũng thấy đẹp, và từ cảm hứng đó tôi dùng để đặt tên cho một nhân vật trong truyện: Tịch Dương Hồng.

Nắng đã tàn rồi em biết không
Ta yêu mãi mãi tịch dương hồng
ĐD

Những ngày dạy học ở tỉnh trước năm 75, Hoàng và vài người bạn độc thân thuê chung một ngôi biệt thự cổ kiểu Pháp. Mỗi người ở một căn phòng phía đằng trước. Gia đình bác chủ gồm hai vợ chồng và một cô con gái còn nhỏ khoảng chín mười tuổi ở phía đằng sau.
Đặc biệt, từ chiếc cổng sắt có hai cây dừa đi vô, trên chiếc sân gạch đặt hòn giả sơn và các chậu cây cảnh, nếu không bước lên các bậc thềm cao mà quẹo tay mặt, đi về phía đầu nhà thì sẽ có một lối đi khá rộng, lót những hòn gạch Tàu hình vuông – loại gạch hơi giống với gạch Bát Tràng ngoài Bắc nhưng mỏng hơn – lâu quá nay đã long lay. Một dãy lu lớn đựng nước mưa quanh năm có nắp đậy kín, chạy dọc thành một hàng dài sát với chân tường đầu nhà. Ở khoảng giữa hàng lu đó là một chiếc giá bằng gỗ có gương soi, dùng làm chỗ đặt chậu rửa mặt, và bên cạnh chiếc giá có cụm cây dạ lý hương khá cao, lúc nào cũng thấy trổ hoa, ban đêm thì thơm, ban ngày không thơm, đầu các ngọn hoa hình ống màu đỏ sậm cụp lại, trông giống như những chiếc vòi xấu xí. Cái này người ta gọi là dạ lý hương thơm, hoa đỏ và lớn, rất thơm, khác với dạ lý hương đẹp, hoa màu trắng và nhỏ, ít thơm. Rồi đến một căn “nhà kho” hơi hẹp, cũng lợp ngói và chạy dọc theo bức tường ở phía bên kia, đối diện hàng lu. Cửa chính của cái “kho” mở ở đằng đầu, tức phía những hòn gạch bát đi vào.

Dạ lý hương hoa đỏ và hoa trắng


Phòng Hoàng ở ngay phía trên chiếc giá, cửa sổ đóng lưới muỗi sát với những ngọn cây dạ lý hương. Ban đêm, nhất là những đêm có ánh trăng sáng, ngồi viết phía sau chiếc bàn kế cận cửa sổ, ngửi mùi hoa dạ lý hương ngan ngát, Hoàng nghe đâu đây như có cả một quá khứ lẫn hồn Lý Bạch hiện về:

Sàng tiền khán nguyệt quang
Nghi thị địa thượng sương
Cử đầu vọng minh nguyệt
Đê đầu tư cố hương

Trước giường chợt thấy ánh trăng
Giật mình bỗng tự hỏi rằng sương rơi?
Ngửng đầu, trăng sáng trên trời
Cúi đầu, chạnh tưởng tới nơi quê nhà...
(Phạm Huy Kỳ dịch)

Hoàng là thầy giáo dạy học, nhưng không kiếm ăn thêm nhờ các giờ trường tư như các bạn đồng nghiệp trong trường mà là nhờ việc viết tiểu thuyết. Cứ hai hay ba tuần, viết được một xấp thật dầy khoảng vài chục trang thì cho vào bao, dán kín lại, đề địa chỉ tòa báo bên ngoài rồi bốn giờ sáng đem ra bến xe đò, nhờ chú lơ xe quen đem về Sài Gòn giùm. Tòa soạn sẽ trả tiền công cho chú lơ khá hậu, chú rất thích. Hàng ngày ở tỉnh Hoàng mua báo, đăng xong, cắt ra, sửa chữa, khi nào có dịp về Sài Gòn thì giao cả cuốn cho nhà xuất bản, tự họ đem đi kiểm duyệt rồi trả nhuận bút cho Hoàng trước khi xuất bản thành sách, số tiền cũng khá. Hàng tháng, tiền viết fơi-ơ-tông cho các tờ báo thường lớn gấp đôi tiền lương dạy học.
Những lúc rảnh rang Hoàng thường giải trí bằng cách lang thang ra các tiệm tạp hóa người Việt gốc Hoa, mua một vài món đồ lặt vặt, gặp các ông già hoặc các cô gái vui vẻ, có học, chàng thường chuyện trò làm quen rồi viết những câu thơ Đường ra giấy, nhờ họ đọc theo tiếng Quảng, anh phiên âm lại theo tiếng Việt, đem về nhà đọc chơi cho vui. Hoàng dạy văn chương, thuộc nhiều thơ Đường nên học như vậy rất dễ. Học chơi thôi, chẳng để làm gì cả. Thỉnh thoảng, ngâm nga những câu tiếng Quảng anh thấy vui vui, thích thú:

Duỵt loọc ú thì xướng mản thín
Coóng phống dùy phỏ tùi sầu mìn
Cu Xu xình ngoài Hàn Xán xừ
Dề pun chúng xéng tui hạc xuỳn

Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên
Giang phong ngư hỏa đối sầu miên
Cô Tô thành ngoại Hàn Sơn tự
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền

Ngày trước ông Tản Đà dịch:

Trăng tà tiếng quạ kêu sương
Lửa chài cây bến còn vương giấc hồ
Thuyền ai đậu bến Cô Tô
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn Sơn

Một điều Hoàng hơi lấy làm lạ là căn nhà kho vẫn cứ bỏ không, cửa đóng im ỉm, lâu lâu bác chủ mới mở ra quét dọn một lần cho đỡ ẩm mốc. Ban đêm, nhiều khi Hoàng đã đi ngủ, từ trên mái ngói có tiếng cú rúc hay tiếng dơi quạ lạt xạt ở mấy ngọn cau, hoặc tiếng mèo gào nghe cũng ơn ớn.
- Nghe nói căn nhà đó có ma đấy mày ạ. Mày thức đêm viết lách đã thấy ma hiện ra lần nào chưa?
- Chưa. Ma gì, đàn ông hay đàn bà?
- Đàn bà. Một cô gái áo trắng, xõa tóc. Thân hình cổ trôi nổi, hai chơn bước hổng lên khỏi mặt đất, cứ chập chờn đi đi lại lại từ căn nhà kho ra tới chỗ chiếc giá rửa mặt thì không thấy nữa, có lẽ cổ biến vô đám dạ lý hương.
- Tiếc nhỉ, phiền là phòng tao chỗ đó lại đóng lưới muỗi mới khổ, cổ khó chung vô được. Phải chi cổ chung vô, tao sẽ tiếp đãi cổ như một bậc thượng khách y hệt các thư sinh ngày trước tiếp đãi các cô gái hồ ly trong truyện Liêu trai.
- Mày ngu lắm, bộ tưởng lưới muỗi mà cổ không chung vô được hay sao? Vô là cái chắc. Hồi tao mới xuống bác chủ cũng cho ở đấy nhưng sau thấy ghê quá nên bèn dông luôn, kiếm chỗ ở khác.
- Ghê thế nào?
- Có khi mấy đứa đang ngồi chơi trong phòng, chẳng có ai bên ngoài cả mà quả nắm bỗng tự nhiên kêu cái cạch rồi quay tròn trông ma quái không thể tưởng tượng được. Cũng có lần tụi tao đang nằm chuyện trò, bỗng cuốn lịch treo trên tường cứ chao đi chao lại, đứa nào cũng nổi da gà. Từ đấy tao sợ quá, dông luôn.
- Tụi bay không để ý, có khi tại gió.
- Cửa sổ đóng lưới muỗi làm gì có gió? Mà dù có gió cũng không quay được quả nắm sứ. Mày ở một mình đầu đàng đó là mày ngu, lỡ cổ vô hun lên mặt mày.
- Thì tao sẽ hun lại, lên môi lên miệng đàng hoàng chớ không phải lên mặt. Dại mà hun lên mặt? Tao không sợ ma, nhất là ma một...người đẹp!
- Vậy thì mày cứ tiếp tục ở đàng đó một mình đi thằng chó con. Cả tỉnh này đều biết căn nhà kho đó có ma, chẳng ai thèm mướn đâu.
- Cũng hơi buồn đấy, tao muốn có người mướn cho vui.
***
Thế rồi có hai cha con một ông cụ dọn đến. Ông cụ thân hình gầy guộc, mái tóc đã bạc, mặc áo xá xẩu màu xám thụng tay, các khuy bằng vải cài tới cổ. Cô con gái khoảng chừng mười sáu hay mười bảy tuổi, gương mặt rất đẹp, mặc chiếc áo lụa màu hồng, có vẻ ít nói. Họ trao đổi với nhau bằng những câu tiếng Quảng xí xố, Hoàng nghe hiểu đại khái cô gái gọi ông chu bằng “pá” (bố): “Pá pá, nỉ hủ xánh fúa la, dzẩm dược chẩu ngổ cửi pón nỉ? “ (Bố, bố mệt lắm rồi đấy, có muốn uống rượu thuốc con lấy cho bố uống?). - “Mụ. Mụ cánh dỉu. Nỉ ổn xấm.”. (Không. Không sao đâu. Con cứ yên tâm). Và ông cụ gọi nàng là A Húng (cô Hồng): “A Húng, nỉ co chúng hầy, kỉ tố tỉm?”. (Cô Hồng, con coi đồng hồ xem mấy giờ rồi?”. - “Cá chành hầy, xám tỉm xây xập ửng fánh”. (Dạ, ba giờ bốn mươi lăm), “Cá hạ ngổ huôi cái xị dách chành. Pá pá xánh fủ, dẩu xức huôi pá a !” (Bây giờ con chạy ra chợ một lát. Bố mệt, đi nằm nghỉ đi bố à !”. “Hầy, tắc la, nỉ huôi la” (Ừ được, con cứ đi đi).
Hoàng thấy thắc mắc. Cô gái cực kỳ xinh đẹp nhưng còn ít tuổi, ông cụ thì lại có vẻ đau yếu, họ làm gì để sống trong căn nhà kho mà mọi người cho là có ma đó?
Chàng và bác chủ đi vòng lối ngang lên phía đằng trước. Bác ở trần, bận quần xà lỏn, tay xách xô nước. Họ dừng lại trên bậc thềm:
- Ông cụ người Quảng phải không bác? Cô Húng xinh quá. Tỉnh này đa số đều là người Việt gốc Hoa, cháu dạy học trò nhiều, họ cũng đẹp mà chưa thấy ai đẹp như vậy.
- Cổ tên Húng tức tên Hồng, người Tiều kêu “A Hính”.
- Họ nói tiếng Quảng chắc bác hiểu?
- Không, cũng sơ sơ chút ít như giáo sư vậy thôi. Tại ông già bà già bác ngày trước gốc Tiều (Triều Châu), hổng phải gốc Quảng.
- Tội nghiệp, trông ông cụ với cô Húng có vẻ hơi nghèo, cổ còn ít tuổi mà ông cụ trông dường như đau yếu, không hiểu họ sống bằng gì?
Bác chủ cười:
- Giáo sư đừng lo, coi vậy chớ họ hổng có nghèo đâu. Người ta nói ở đâu có lửa là có người Tàu. Mà hễ người Tàu là họ sống được, hổng khó. Các bang Quảng Đông lớn lắm, giàu hơn các bang Triều Châu. Người nào trong bang nghèo khó, chưa có công việc mần ăn buôn bán, bang sẽ giúp đỡ. Ai muốn buôn bán thì ông bang giúp vốn cho buôn bán. Giúp hoài, giúp hoài, thua thiệt kỳ nầy họ giúp kỳ khác, cho tới khi nào thành đạt mới thôi. Bởi vậy người ta nói người hổng có bang hoặc bị bang đuổi mới sợ chớ người có bang không sợ.
Bác kể cho Hoàng nghe tổ chức của các bang Quảng Đông rất chặt chẽ. Trên hết có ông Bang lớn, dưới đó có ông Bang nhỏ rồi dần dần, mỗi tỉnh hoặc địa phận lại có một ông Bang nhỏ hơn hoặc người đại diện.
- Thế ông Bang “lớn nhứt” bây giờ ở đâu hả bác?
- Không thể biết được. Ngay ông Bang nhỏ như ở tỉnh này cũng không ai biết. Dân chúng người Quảng trong tỉnh muốn cần điều gì thì tới trình bày với người đại diện, rồi người đại diện sẽ nói lợi với ổng hình như ở trên Chợ Lớn chớ hổng ai biết ổng ở đâu.
- Rồi Bang lấy tiền đâu mà giúp người nghèo?
- Họ hổng cần tiền. Ví dụ ngày trước một gia đình nào đó đang nghèo, được ông Bang ra lịnh cho một người khác giúp đỡ. Bây giờ gia đình đó đã giàu thì ông Bang lại ra lịnh cho người đó giúp đỡ người khác dầu quen hay hổng quen. Họ cứ giúp mãi, giúp hoài giúp hủy khi nào ông Bang biểu thôi mới thôi. Số tiền “trả nợ” nầy ông Bang xét theo năng lực từng người chớ không phải theo số “vốn” ngày trước họ đã mượn. Nhiều người đời trước đã trả, đời sau con cháu nếu giàu vẫn phải trả tiếp một khi ông Bang ra lịnh mà không cần biết cha ông mình ngày trước đã “mượn” bao nhiêu.
- Nếu họ không nghe lời?
- Hổng ai dám trái lịnh. Nói chung, ông Bang biểu gì thì mần nấy, nếu trái lịnh, bị đuổi khỏi bang thì dù giàu cách mấy hổng ai giao dịch với nữa rồi cũng hóa nghèo.
Trước khi vô trong cất xô, bác tiếp:
- Nói vậy chớ nghe đâu ổng – ý bác muốn nói ông già – còn một người con trai kêu “Tài có” (anh Cả) ở trên Chợ Lớn, giàu lắm. Cha con xích mích gì đó nên ổng giận, đem cô con út tránh đi tỉnh khác ít lâu rồi từ trển xuống dưới nầy mướn nhà ở riêng, hổng cho ai biết.
- Dạ, gia đình lộn xộn hèn chi cháu thấy nét mặt cổ trông hơi buồn buồn.
Bác vô. Còn lại một mình, Hoàng móc túi lấy gói Philip Morris rút một điếu đặt lên môi, bật quẹt hút. Anh dụ dự, theo bác chủ đi vào thì cũng hỏng vì sẽ không được trông thấy cô gái lần nữa – gương mặt thật đẹp, thân hình nhỏ nhắn với chiếc áo hồng – mà ở cũng hỏng, sợ cô ta biết mình cố tình nấn ná, chờ đợi để ngó mặt cô ta. Khổ quá, mà cũng chẳng biết có nói được tiếng Việt không nữa đây hay chỉ xí xô tiếng Quảng thì hư hết. Hoàng không biết nói tiếng Quảng. Anh thèm được nghe giọng nói líu lo trong như tiếng chim: “Cá hạ huôi cái xị dách chành, pá pá xánh fủ dẩu xức huôi pá a!”. Ta cũng mệt muốn chết, chờ đợi sốt cả ruột, bao giờ thì nị mới...huôi cái xị trở về cho ta được nhìn thấy mặt?
May sao bác chủ đem kéo ra cắt các lá cây vàng. Hoàng đi theo, đứng bên cạnh chuyện trò cho có lý do chờ đợi. Mải nói chuyện rồi anh cũng quên, lúc nghe tiếng động, quay lại thì cô gái cũng vừa đi tới. Thấy Hoàng nhìn mình, cô lúng túng khẽ cúi đầu chào. Hoàng cũng lịch sự chào lại trong khi nàng lễ phép đi vòng sang bên cạnh bước tránh rồi đi tiếp. Dáng nàng nhẹ nhàng, thanh thoát, chỉ còn hai bím tóc ở phía sau lưng trên tà áo hồng.
- Cái nầy là cây nguyệt quế đó giáo sư, bác trồng hơn ba chục năm nay rồi. Hoa nó thơm lắm, dễ thương hơn hoa dạ lý hương.
Hoàng ngẩn ngơ không hiểu bác chủ nói chuyện gì, chỉ nghe thấy hai tiếng “dễ thương”:
- Dạ, cháu cũng thấy cổ dễ thương, vừa xinh lại vừa ngoan ngoãn.
Bác chủ chăm chú cắt xén:
- Ờ, hoa nguyệt quế thì nó nho nhỏ, xinh xắn nên trông dễ thương.
- Cháu đoán cổ cỡ chừng mười sáu hay mười bảy tuổi...
- Không, hơn ba chục năm rồi đó. Bác trồng từ khi nó còn nhỏ xíu.
Những buổi trưa nắng, cái nắng miền Tây oi ả khó chịu vì đất thấp, không khí tù hãm, nghẹt ngụa, không thoáng như trên Sài Gòn.
Trưa nào Hoàng cũng thấy cô gái không ngủ, ngồi phía trước cửa chăm chỉ thêu những bộ quần áo nho nhỏ rất xinh, đều tăm tắp, có lẽ nàng thêu để bán. Dáng nàng âm thầm, lặng lẽ gần như chịu đựng.
Hoàng có cái tật hễ ngồi viết lách là hút thuốc lá liên tiếp. Thuốc lá Philip Morris anh mua cả cây, mỗi cây 10 gói, có hút thì mới viết được. Nàng thoáng ngửi thấy mùi thuốc thơm tan loãng trong không khí, ngửng lên, bắt chợt ánh mắt của Hoàng phía sau chiếc lưới muỗi của khung cửa sổ, nàng hơi nhíu mày suy nghĩ rồi lại cúi xuống tiếp tục làm việc. Buổi chiều, nàng vô lo nấu cơm, rất nhanh, sau đó lại ra ngồi thêu tiếp cho tới sẩm tối. Nàng thường mặc áo mỏng màu trắng hay màu hồng, thân hình thanh thoát, mái tóc dài óng chuốt kết thành hai cái đuôi sam cột hai giải nơ đỏ thả xuống ngang lưng. Áo nàng may kiểu cổ đứng, các nút cũng bọc bằng vải cùng màu với áo. Trông nàng đúng là một cô gái Tàu nho nhỏ, cần cù, xinh xắn.
Khi ánh nắng chiều của miền tỉnh nhỏ đang hấp hối tắt dần trên các ngọn cây, chỉ còn lại thứ ánh sáng màu hồng ửng lên như cố ngắc ngoái chiếu rạng, trong sáng như ngọc lưu ly để rồi tắt lịm ở phía đằng tây, tự dưng Hoàng nhớ tới câu văn bất hủ của Vương Bột đời Đường: “Lạc hà dữ cô vụ tề phi, thu thủy cộng trường thiên nhất sắc”. – “Ráng chiều sa xuống, cùng với cánh cò đơn chiếc đều bay; làn nước sông thu, hợp với bầu trời kéo dài một sắc”. (Trần Trọng San dịch).
Cũng có khi Hoàng cao hứng, tinh nghịch muốn đọc thử xem cô gái có biết tiếng Quan Thoại không – dù là người Tàu nhưng phải có học mới biết tiếng Quan Thoại - chàng cất cao giọng bắt chước theo kiểu “ngâm thơ”:

Tchí niển chin rở xỉ mẩn chúng
Rản miển thảo hoa trang dính hủng
Rản miển bu trư hờ xuý tchí
Thảo hoa dzi chiêu xẻo tung phơng

Cửa này, năm ngoái, hôm nay
Người, hoa đối diện má hây sắc đào
Bây giờ người ấy nơi nao?
Hoa xưa còn đó vẫn chào gió đông
(Thái Phương dịch)

Nàng có vẻ hiểu, đỏ mặt mỉm cười khe khẽ lắc đầu dường như tội nghiệp cho cái tài “xổ tiếng Bắc Kinh” khủng khiếp của Hoàng.
Nhìn nét mặt tươi tắn với nụ cười hóm hỉnh “Nhân diện đào hoa tương ánh hồng” của người con gái, Hoàng nghĩ thầm: “Trời đất ơi, sao mà em đẹp quá vậy. Ta yêu em lắm. Ta say mê em. Hồn ta vất vưởng, cô đơn, quanh năm làm bạn với con ma cô gái áo trắng tóc dài đi đi lại lại bên cạnh bụi hoa dạ lý hương. Ta chỉ mơ ước được ngồi bên em, được quỳ xuống dưới chân em, áp mặt ta vào bàn chân em và nói rằng ta yêu em, giống như anh chàng Du Thản Chi áp mặt vào chân cô nàng A Tử nhỏ nhoi áo tím!”.
Tính Hoàng lãng mạn. Cái nghề viết lách lại càng lãng mạn. Anh mong muốn cứ ngồi đây, được nhìn thấy nàng và nàng hiểu rằng anh thầm yêu nàng đến chết đi được, chỉ có vậy thôi, không mong gì hơn.
- Ta đợi em từ ba mươi năm
Uổng hoa phong nhụy, hoài trăng rằm
- Thơ của ai vậy tụi bay?
- Vũ Hoàng Chương.
- Hì hì... vậy mà tao lại tưởng của cái thằng đại đại thi sĩ lãng mạn này nó mần để tặng con bé đẹp “ngổ tả nỉ xỉ”.
- Thơ tao đơn giản, không trau chuốt như vậy.
- Ê tụi bay, cái thằng chó chết này nó đặt tên con bé đẹp là Tịch Dương Hồng đấy tụi mày ạ.
Nguyễn Trần Gia cũng dạy Việt văn, ngạc nhiên:
- Sao, đứa nào đặt tên con bé “ngổ tả nỉ xỉ” là Tịch Dương Hồng?
- Bản chức!
- Vậy thì “bản chức” là một thằng ngu!
- Tại sao ta ngu?
- Mày chẳng để ý gì cả. “Tịch dương” là mặt trời lặn. “Tịch dương hồng” là ánh sáng của mặt trời sắp lặn. Mặt trời đã lặn thì xui thấy mẹ chứ còn tương cháo thế quái nào được? Mày nên chuẩn bị ra sông Cầu Quay đâm đầu xuống sông đi là vừa!
- Tại sao ta phải tự tử?
- Tại vì mày ngu chứ còn sao nữa. Người Quảng Đông họ không gả con gái cho người Việt. Con trai họ lấy con gái người Việt thì được, còn con gái của họ không được quyền lấy con trai người Việt.
- Tại sao lại vô lý như thế?
- Ông Sơn Nam ông ấy giải thích là tại họ kỳ thị. Người Triều Châu thì không kỳ thị, con gái của họ muốn lấy ai cũng được.
Nguyễn Trọng Vinh nheo mắt:
- Hơi đau đấy nhé, bao giờ thằng Hoàng ra sông Cầu Quay cho tao theo với. Tao cũng thấy mê con bé “ngổ tả nỉ xỉ” đó.
- Lại thêm một thằng ngu nữa!
- Mày là bạn với hai thằng ngu tụi tao vậy thì mày cũng là một thằng ngu luôn.
- Tất nhiên, có ngu thì mới đi làm nghề dạy học chứ.
Cả bọn đi ăn cơm câu lạc bộ Công chức về tới nhà. Đèn phòng khách đã bật, riêng căn nhà kho ở phía đằng sau vẫn tối thui thui. Hoàng ra phía bên rửa tay rửa miệng.
Bác chủ mừng rỡ:
- Ủa, mấy ổng dìa rồi nè! Nhờ mấy ổng sửa giùm!...
Đoạn, bác trao chiếc tuộc nơ vít, cuộn băng keo và sợi dây chì cho Hoàng.
- Đèn nhà ông cụ bị hư. Nhờ giáo sư...
- Vâng ạ.
Ông cụ cũng nói thêm vô, giọng lơ lớ nhưng dùng tiếng Việt khá rõ:
- Hổng có liểng, nhờ thầy giáo mần ơn giúp giùm.
- Dạ được, để cháu chạy lên lấy cây bút thử điện.
Cô gái cũng đứng gần đấy, hai tay bưng cây đèn lớn, giọng nói đúng giọng miền Nam:
- Dạ có, nhà có viết thử điện, để em vô lấy.
- Vậy thì tốt.
Lát sau nàng đem ra, lễ phép trao cho chàng rồi hai tay đỡ lấy cây đèn. Hoàng liếc nhìn nàng trước khi leo lên ghế. Chao ôi, gương mặt nhìn gần sao mà đẹp thế, chỉ có ánh mắt sáng long lanh.
Nàng một tay giữ ghế, một tay giơ cao cây đèn cho Hoàng tìm chỗ sửa.
“Phải chi dây có chỗ hở, điện giựt cái bốp, mình té lăn đùng xuống đất, chết ngắc. Cô ta đỡ lên, thưởng cho mình một cái hun thì sướng quá, mình sống lại liền!...”
Bọn quỷ con cũng đã xuống. Vinh đứng hai tay chống nạnh, ngửa mặt nhìn lên, mỉm cười hỏi đùa:
- Đứng gần thấy rõ, ngon lành chưa thầy giáo?
- Tất nhiên là thấy rõ và rất ngon lành. Người mi cao, nếu mi làm ơn leo lên vài bậc soi cho ta sửa thì càng tốt hơn.
Tên bạn cười, đưa tay đỡ cây đèn trên tay người con gái:
- Đâu, cú niềng đưa đây tôi cầm giùm kẻo ổng sợ cô nương mệt!
Và hắn bám tay, bước lên vài bậc, chiếu ánh sáng vào chỗ Hoàng đang cởi mối dây điện cũ, thân mật mắng mỏ:
- Mẹ, cái thằng thầy giáo này chiều cô quá! Vừa mới chút xíu đã lo người ta mệt!
Người con gái mắc cỡ đỏ mặt, lúng túng định nói gì song lại thôi, bèn vào nhà trong thắp cây đèn khác.
- Có cần dao không?
- Cần, đưa lên đây cho ta cắt nối. Ta thử rồi, thấy dây điện bị đứt ở chỗ này.
Vinh quay vào trong:
- Cô Hồng ơi, làm ơn kiếm cho mượn con dao nho nhỏ.
Không có tiếng trả lời. Ông cụ quay vô kêu “A Húng”, xí xố một tràng dài, lát sau Hồng đem dao ra. Vinh đưa lên. Hoàng cắt nối, xem lại và dán băng keo.
- Rồi, xong. Ở dưới ấy bật thử xem sao!
- Dạ, để em vô bật!
Tách, ngọn đèn nê ông có điện, bật sáng.
- Chà, tốt quá!
- Mời các thầy giáo vô dùng liếc chà!
- Dạ, thưa để cháu đi rửa tay cái đã.
Hoàng tới chỗ chiếc giá, múc nước vào chậu. Lúc chàng trở vô thì cô gái đã cất ghế và các đồ dùng.
Bạn bè ngồi với gia chủ trong bộ xa lông bằng gỗ. Nàng đứng phía sau lưng cha, rót ấm nước sôi vào trong bình thủy để cha pha trà. Thân hình nàng nghiêng nghiêng, tà áo lụa hồng và mái tóc gọn ghẽ kết hai đuôi sam, ở cuối đuôi tóc cột hai sợi nơ đỏ. Gương mặt nàng sáng rỡ và đẹp như một bức tranh.
- Dạ thưa xin lỗi, hồi nãy các thầy kêu lấy dao nhưng em nghe tên “Hồng” hổng quen, không biết các thầy kêu ai nên không trả lời.
Vinh ngạc nhiên:
- Ủa, thế sao ông Hoàng này ổng nói cô tên Hồng?
Cô gái mỉm cười e lệ, khe khẽ gật đầu:
- Dạ, em tên Hồng thiệt nhưng hồi trước đi học trên trường Tàu Chợ Lớn, mọi người đều kêu tên “Húng”. Hồng là tiếng Việt, em nghe hổng quen.
Anh chàng ba trợn “tiết lộ bí mật”
- Hì hì... ổng còn đặt cô tên “Tịch Dương Hồng” nữa đấy. Ổng khen cô đẹp...
Hoàng sợ hắn “ruột ngựa”, tuôn ra hết ráo nên khẽ giậm chân lên chân hắn. Hắn vẫn làm lơ, miệng bô bô:
- Lúc nào chỉ có hai người với nhau cô phải mắng cho đương sự mấy mắng mới được. Đương sự...
- Dạ, em họ Trịnh, không phải họ Tịch. Nếu kêu nguyên tên tiếng Việt là Trịnh Dương Hồng, hổng phải Tịch Dương Hồng. Người Tàu họ Trịnh, ít khi họ Tịch.
Ông cụ nói thêm:
- Họ Trịnh tiếng Quảng là Chèng, còn Tịch là Tchịch, đọc hơi khác nhau. Thầy giáo cũng biết tiếng Quảng?
- Dạ không, cháu biết sơ sơ chút đỉnh nhờ thuộc mấy bài thơ Đường.
- Thầy thích thơ Đường?
- Dạ.
- Ây cha, ngổ với con gái ngổ cũng thích thơ Đường. Vậy lúc nào rảnh thầy giáo xuống đây ngổ chỉ cách đọc tiếng Quảng. Cả A Húng nữa, hồi trước đi học thuộc nhiều thơ Đường, nó sẽ chỉ thêm cho thầy.
Thật đúng chó ngáp phải ruồi, đặt mò không ngờ tên người con gái lại là “Trịnh” Dương Hồng. Hoàng mỉm cười nhìn lên đúng lúc thấy “Tịch” Dương Hồng đang mỉm cười nhìn mình, gò má ửng hồng. Thấy chàng ngó, nàng e lệ cúi xuống, đâu đây vẫn còn lẩn khuất nụ cười.

- Fù thù mị chẩu dề coóng búi
Dục dzẩm xì pà mạ xường sối
Chối ngạo xa xường quấn mạt chíu
Cú lồi chứng chín kỉ dàn ùi
Tiếng Việt đọc thế nào?
- Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi
Dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi
Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu
Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi

- Hay quá ta, nghe như tiếng chim hót
- Tôi thì lại thấy tiếng Quảng líu lo, lạ lạ, vui vui, âm trầm bình thanh có khi đổi thành thượng bình thanh khác hẳn tiếng Việt.
- Tại vì chữ Hán không có dấu, rất khó phân biệt
Hoàng đưa mắt nhìn quanh, biết “sư phụ” vừa đi khỏi, mới ra ngoài quán uống cà phê với bác chủ – nhà rất vắng, bèn tủm tỉm cười:
- Thế tiếng Quảng: “Ngổ ái nỉ, dục sổi nỉ, nỉ khược sì, ngổ tả nỉ xỉ, nỉ kêu ... ui da đau quá!” là gì?
- “Tôi yêu cô, muốn cưới cô, cô từ chối, tôi đánh cô chết, cô kêu...”. Ủa, mà ui da đau quá đâu phải tiếng Quảng? Tiếng Việt đấy chớ?
- Kệ, tiếng Quảng cũng được, tiếng Việt cũng được, tôi không cần biết. Tôi chỉ biết có một điều...
- Điều gì?
- “Ngổ ái nỉ, nỉ khược sì, ngổ tả nỉ xỉ”.
- Trời đất thiên địa ơi, không được đâu!...
- Sao lại không được?
- Người Quảng không gả con gái cho người Việt.
- Không gả tôi cũng cứ lấy, chẳng ai ngăn cấm được tôi. Tôi cần một mình em thôi. Đã bao nhiêu lần tôi ngồi viết lách, nhìn em ngồi thêu bên ngoài. Em có biết là tôi yêu em không?
- Biết.
- Rồi em có yêu anh không?
Nàng khẽ gật đầu:
- Có.
Chàng cầm hai bàn tay nhỏ nhắn của nàng áp vào mặt mình:
- Khốn khổ, đã bao nhiêu lần anh mơ ước được quỳ dưới chân em, được nói với em rằng anh yêu em...
- Em biết, ngay từ lần đầu tiên thầy làm bộ coi bác Hai ngắt lá cây, chờ em đi ngang qua...
- Rồi sao em chỉ cúi đầu chào, đi thẳng, không nói với anh một tiếng nào cả?
Nàng ứa nước mắt, giọng rưng rưng như muốn khóc:
- Biết nói cái gì bây giờ? Em chỉ muốn chết. Nếu không có pá chắc em đã treo cổ tự sát từ hai năm trước, lúc em mới mười lăm tuổi. Em không sợ chết. Má má cũng treo cổ tự sát. Em căm hờn, uất hận...
Hoàng giựt mình, hai tay nắm chặt tay nàng:
- Cái gì kinh khủng vậy em? Chuyện gì làm em đau đớn?
Nàng lắc đầu, khe khẽ thở dài:
- Thầy không hiểu được đâu. Không thể hiểu được. Khi nào sắp chết em sẽ nói cho thầy hiểu. Ui da, thầy nắm tay em đau quá.
- Ấy chết, xin lỗi cô bé của tôi! Xin lỗi cô bé của tôi!
Và chàng ôm thân hình bé nhỏ với chiếc áo lụa mỏng màu hồng của nàng, kéo nàng vào sát ngực mình. Nàng nhắm mắt nhưng nghiêng đầu tránh, hai cái đuôi sam cột nơ đỏ chạm nhẹ trên cánh tay chàng.
- Nhà đi vắng hết, cho anh hôn em một cái, đừng tiếc với anh làm gì.
- Em đâu có tiếc? Nhưng đừng nói thương em, đừng nghĩ tới chuyện cưới em làm vợ. Em hổng có phước được như thế đâu. Còn ngoài ra muốn làm gì thì làm, muốn hun bao nhiêu thì hun em hổng có giữ.
- Tại sao kỳ vậy? Anh lớn hơn bảy tám tuổi, yêu nhau cũng được, lấy nhau cũng được chứ đâu có sao? Con trai lớn hơn con gái vài tuổi là một việc thường.
- Hổng phải chuyện đó. Em đã nói em sẽ tự sát, chúng mình không thể lấy nhau.
- Thôi được, việc đó tính sau. Bây giờ em quay lại đây.
Nàng quay lại. Nhắm mắt. Môi nàng ngọt mềm và đẫm nước mắt.
- Ui da, hun gì mà tham lam dữ vậy, làm em ngộp thở muốn chết!
- Được được, anh không tham nữa...
- Thôi mà, cứ làm vậy hoài, đứt áo em hết trơn bây giờ!
- Không có đứt đâu. Nếu đứt anh may áo khác đền cho em mười chiếc!
- Đã biểu thôi mà, trời đất ơi... ! Ủa, pá pá! Pá pá mới dìa hồi nào?
Hoàng hoảng hồn vội vàng buông nàng ra và ngồi thẳng lại trên ghế xa lông. Không thấy ai hết. Chàng bật cười:
- Nói xạo hoài!
Nàng phụng phịu:
- Hổng xạo vậy chớ để “Tài cáo xứ” (Đại giáo sư) hun chết em sao?
Hoàng nhìn nàng, mỉm cười khe khẽ lắc đầu:
- Dễ thương thế này mà bảo không được quyền yêu thì chịu sao nổi?
Nàng nghiêng mặt, thì thầm:
- Ai kêu đặt em tên Tịch Dương Hồng làm chi? “Tchịch Dường Húng” là ánh sáng mặt trời sắp lặn, em chết, bỏ lại một mình thầy trên đời, nhớ em cho thầy chết luôn!
Hoàng rùng mình. Anh không thể tưởng tượng được cảnh đó mà cũng không hiểu lý do tại sao Tịch Dương Hồng nhỏ nhoi xinh đẹp của anh chỉ nghĩ tới chuyện chết chóc, tự sát. Cho dù người Việt người Hoa, yêu nhau, lấy nhau, rồi anh vẫn tiếp tục làm nghề dạy học, viết lách kiếm ăn một cách đơn giản, chung sống với nhau suốt đời chẳng tốt hơn sao?
***
Một hôm Hoàng bị đau, cảm sốt, người gây gây lạnh, đi bác sĩ mãi không khỏi.
Buổi chiều, bé Bạch Vân bưng cháo lên. Nó đứng ngoài cửa, để khay cháo trên bộ ván lớn phía ngoài, khoanh tay cúi đầu:
- Thưa giáo sư, má nói giáo sư bịnh, biểu em đem cháo lên giáo sư dùng.
Hoàng nhíu mày, suy nghĩ:
- Thôi được, Vân nói thầy cám ơn má.
Một chiếc liễn Giang Tây đậy nắp. Một chiếc muỗng sứ. Một đôi đũa ngà ở nửa thân đũa hình vuông có khắc những hàng chữ Hán. Hai chiếc hột vịt muối để nguyên cả vỏ đã bổ đôi sẵn. Hoàng bưng vô để lên trên bàn nhưng cô bé vẫn đứng ở cửa:
- Thưa giáo sư, chế Húng nói xin phép lên thăm giáo sư.
Hoàng mừng rỡ mặc dầu đang bệnh. Tội nghiệp, em có biết kể từ bữa hôm ấy lúc nào ta cũng nghĩ tới em? Ta yêu em cháy ruột cháy gan. Ban đêm nằm ngủ ta cũng mơ thấy em. Trong giấc mơ, ta hôn em. Đôi môi mềm, nóng hổi, ướt át, dịu ngọt. Ta say mê em và ta mê ánh mắt, giọng nói, tiếng cười cùng với bờ môi ngọt ngào như có linh hồn. Đã bao lần ta đứng bên cửa sổ ngắm gương mặt nghiêng nghiêng hiền dịu của em chăm chú ngồi thêu. Mái tóc kết đuôi sam cột giải nơ đỏ lắt lẻo trên lưng. Em biết ta nhìn, ngửng lên tinh nghịch cầm chiếc áo con nít lên che trên môi. Ta nuốt nước miếng đánh ực giống như con mèo muốn nuốt con chuột mà không nuốt được. Ta thèm khát em cháy bỏng ruột gan. Ta muốn quỳ dưới chân em, áp mặt ta vào bàn chân em.
- Thôi được, Vân nói thầy mời chế lên.
- Dạ. Thưa giáo sư em xuống dưới nhà.
- Ừ.
Lát sau có tiếng gõ cửa nhè nhẹ. Hồng đi với Bạch Vân nhưng cô bé vẫn kỵ các phòng đằng trước có ma, chẳng bao giờ dám bước chân vào. Nó khoanh tay cúi đầu chào, rút lui.
Hoàng lấy ghế mời nàng ngồi:
- Em ngồi xuống đây.
Trong phòng chỉ có một chiếc ghế. Nàng ngồi xuống. Hoàng ngồi trên nền gạch bông, hai tay ôm đùi nàng, áp mặt vào khuôn ngực mặc áo lụa hồng có khuy bọc vải cài tới cổ của nàng, hai cái đuôi sam lắt lẻo trên vai.
Nàng nâng mặt chàng lên, lùa hai tay vào trong tóc chàng:
- Đau làm sao mấy bữa nay không thấy đi dạy?
- Sơ sơ thôi, tại nhớ em quá nên ghét không đi dạy.
- Lại nói tầm bậy tầm bạ. Em ở trong nhà tối ngày chớ có đi đâu mà nhớ? Ngó người ta muốn chết...
- Ngó thấy thì ăn nhằm gì? Ở trên này sợ mấy đứa bạn, xuống dưới ấy sợ ông già...
- Cứ xuống, pá cưng em lắm hổng rầy gì đâu, đừng ngại.
- Pá có biết tụi mình thương nhau không?
- Biết. Cả hai bác chủ cũng biết. Pá nói nếu có quyền pá sẽ gả em cho thầy ngay tức thì.
- Kỳ há, tại sao lại không có quyền?
- Em không hiểu. Phong tục như vậy. Chính pá cũng không hiểu.
- Rồi em có buồn không?
- Không.
- Trời đất ơi, thương nhau, không lấy được nhau mà em không buồn?
- Thương nhau nhưng em biết trước mình sẽ không lấy nhau thì đâu có buồn? Đừng làm vậy em nhột. Tội nghiệp, bây giờ được quỳ dưới chân em rồi đó, đã vừa lòng chưa?
- Chưa, anh muốn hôn em một trăm cái, một ngàn cái, lúc nào cũng mong có em ở bên cạnh.
- Đó, thì hun đi, em đâu có giữ? Em hổng có tiếc gì hết. Cả cái thân hình này em cũng không tiếc. Em căm phẫn, uất ức. Bây giờ cầm con dao đâm vô trái tim em, em không kêu lên một tiếng, có khi còn cám ơn nữa. Chỉ vì còn pá nên em mới sống. Khi nào pá chết em cũng chết theo.
Và nàng nâng mặt chàng lên, cúi xuống. Mặt nàng giàn giụa nước mắt. Nàng áp môi vào mặt chàng. Nàng hôn chàng. Nước mắt nàng làm ướt môi chàng:
- Gặp em bây nhiêu đủ chưa? Thôi, cho em xuống kẻo pá thấy em ở trên nầy lâu.
- Em sợ pá rầy?
- Không, pá không rầy. Nhiều lúc em muốn lên đây thăm anh.
- Sao không lên?
- Ngó thấy nhau hoài mà lên làm chi? Bữa nào anh vô dạy trong trường em buồn lắm, trông chừng cho anh mau về.
- Chi vậy?
- Em hổng biết. Có anh ở nhà ngồi viết trên này thì em yên tâm. Anh viết cái gì mà dữ thần vậy
- Viết tiểu thuyết đăng báo.
- Cũng như mấy nhà văn đó hả? Thôi mà, cứ làm vậy người ta cười, cho em xuống dưới nhà đi mà!
Và nàng đứng dậy, sửa lại áo xống. Chàng tham lam ôm chặt lấy nàng. Nàng gỡ tay chàng ra:
- Thôi cho em xuống, lúc nào rảnh em lại lên.
Trước khi đi, nàng lắc đầu khe khẽ thở dài:
- Tội nghiệp, thương ai cũng được, thương em làm chi!
***

Mấy hôm sau, Hoàng ăn uống được, lại đi dạy bình thường.
Một hôm, người “Tài có” – anh Cả – của Tịch Dương Hồng tới nhà. Hắn mập, khoảng bốn chục tuổi, mặc chiếc quần kaki xề xệ, bụng bự, mặt mũi phục phịch trông giống như mặt lợn ỷ. Hoàng ngạc nhiên không hiểu tại sao Hồng còn nhỏ tuổi mà có người anh đã lớn thế, anh em ruột mà không giống nhau một chút nào hết.
Y ngồi đằng sau chiếc xe Honda do một thanh niên mặc áo sơ mi ca rô, mặt mũi có vẻ ba trợn chở. Tới cổng, y nhảy xuống, vẫy tay ra hiệu cho chiếc xe chạy, không cần trả tiền.
Một lúc lâu sau căn nhà có tiếng gây lộn, trước còn nho nhỏ sau lớn dần, xí xố toàn giọng ông cụ với người con trai nghe rất gay gắt. Bác chủ ở trần mặc quần xà lỏn, luôn luôn đi lại nghe ngóng. Bác giỏi võ Tàu, sẵn sàng can thiệp.
Cái gì chứ họ gây lộn thì Hoàng chịu thua, không thể nghe kịp. Anh chỉ mang máng hiểu hình như người con trai đòi lấy vợ nhỏ, ông cụ không đồng ý, đòi vác dao chém. Gần trưa hắn hậm hực bỏ đi, cụ đuổi theo, tay cầm cây gậy. Tội nghiệp, mấy hôm nay cụ đau, đi đứng không vững.
Buổi tối hôm ấy Hồng có vẻ buồn lắm. Trời đã gần khuya, mọi người đã đi ngủ nàng vẫn còn ngồi một mình trên chiếc ghế đá trước sân, hai hàng nước mắt chảy ròng ròng.
Hoàng rất sợ đàn bà con gái khóc. Trông xót xa lắm. Anh đến gần, cầm chiếc khăn mùi soa lau nước mắt cho nàng:
- Chuyện gì mà khổ vậy em? Tài có muốn lấy vợ nhỏ...
Người con gái im lặng lắc đầu, khẽ đẩy chàng ra tỏ ý không muốn chàng biết tới việc gia đình. Sau đó nàng buồn bã đứng dậy, bỏ đi. Còn lại một mình, Hoàng nhìn theo, nhíu mày rút thuốc lá ra hút. Đàn bà thật kỳ cục, nó lấy vợ nhỏ thì kệ xác nó, mình là em, không khuyên can được thì thôi, việc gì mà khóc? Trên đời, thằng nào tham lam cứ việc lấy vợ nhỏ. Vợ hai, vợ ba, vợ tư, vợ năm, vợ thứ một trăm, vợ thứ hai trăm, mặc kệ, chẳng liên quan gì đến ta. Kẻ vô học và người có học không đi chung một con đường, không cũng quan niệm với nhau. Anh nghiệm ra, những thằng nghèo nhất, và đôi khi, những thằng giàu nhất lại thích lấy nhiều vợ, đẻ thật nhiều con. Con nít không phải là một đồ vật, đẻ thật nhiều rồi đầy đọa chúng trong cảnh tối tăm. Phụ nữ không phải một món đồ chơi, dâng hiến cho sự tham lam, khốn khổ vì ghen tuông, gây lộn. Coi rẻ đàn bà, coi rẻ con nít, đó là hành vi tồi tệ nhất của cuộc sống. Hoàng là thầy giáo và quen viết lách, cần phải suy nghĩ nên nhìn đời bằng con mắt khác hơn mặc dầu tâm hồn rất lãng mạn. Anh ghét cái thói lãng mạn thường hay rung động trước những cái đẹp của mình.
Chàng thơ thẩn vào trong phòng, kéo ghế ngồi, chống tay trên cằm, im lặng hút thuốc. Nước mắt và sự đau khổ của người con gái. Hừ, có gì đâu, tại sao lại buồn như vậy
Áo em mờ nhạt như sương khói
Vương vấn đâu đây một nụ cười
Cần bài mà không viết được. Đăng fơi-ơ-tông hễ không kịp bài tòa soạn sẽ thanh minh thanh nga vài dòng xưa như trái đất: “Tác giả bệnh nặng, mong quý bạn độc giả thông cảm”. Bệnh nặng cái con mẹ! Nếu bệnh đã khá, vẫn ráng viết được nhưng nếu tâm hồn xáo trộn thì không viết nổi, không còn đầu óc đâu để viết.
Có tiếng đụng quả nắm sứ. Hoàng ngạc nhiên nhìn ra, đứng dậy.
Người con gái xuất hiện. Nàng mệt lả gần như sắp xỉu, nước mắt giàn giụa và nàng gục đầu vào ngực chàng, trong vòng tay chàng:
- Trời ơi, em sống không nổi. Y...y đã biết chỗ pá con em ở, kiếm tới tận đây tiếp tục gây lộn với pá em...
Hoàng đỡ thân hình mềm rũ ấy ngồi xuống giường. Nàng vẫn gục mặt vào ngực chàng, nước mắt như mưa, uất nghẹn, không dám lớn tiếng.
- Hừ, y lấy vợ thì có gì đâu? Đàn ông thiếu gì người có vợ nhỏ?
- Nhưng y ép buộc em, bắt em phải làm vợ nhỏ của y. Y ham muốn em từ năm em mười ba tuổi. Đã nhiều lần y định cưỡng bức em, má má cứu thoát. Rồi y đòi lấy em làm vợ nhỏ, má má tức giận treo cổ tự sát. Em muốn chết theo má má...
Hoàng cực kỳ khủng khiếp:
- Trời đất ơi, y là anh ruột của em mà? Làm gì có chuyện lạ lùng như vậy?
Nàng vẫn nức nở:
- Không phải, anh nuôi. Fù sánh mậu sánh không có con gái, nuôi em từ nhỏ. Y nhiều tiền lắm, có ba vợ, mười một đứa con, định cưỡng hiếp em... Y nói trồng cái cây lúc lớn thì phải hái trái. Em thà chết không chịu nhục. Má má tự sát, pá pá tức giận cầm dao chém y...
Hoàng lạnh mình, đầu óc hỗn loạn.
- Vợ con y khóc. Pá pá thương em, thu xếp tiền bạc dẫn em đi nơi khác. Đã một lần y biết chỗ, phải bỏ xuống đây. Bây giờ y lại kiếm ra... Y thèm khát em từ lâu, nhứt định theo đuổi đòi pá pá phải gả em cho y làm vợ nhỏ đặng hưởng tấm thân em, pá pá không chịu. Em thà treo cổ tự sát đi theo má má...
- Nghe nói em có ông Bang, tại sao họ không can thiệp?
- Ổng lo việc lớn, coi đó là chuyện gia đình.
- Hay em nói với pá pá cho anh cưới em trước khi thằng chả trở lại? Hễ pá gả em cho anh là xong hết. Ở tỉnh này anh quen biết nhiều, dù chưa kịp cưới y cũng không làm gì nổi. Anh sẽ làm đám cưới thật lớn ở Câu lạc bộ Công chức, cả tỉnh này đều biết em là cô giáo, vợ anh, y sẽ không dám đụng tới em nữa.
- Pá pá quý trọng anh nhưng hổng dám gả. Ông Bang không cho phép. Phong tục như vậy.
- Hay anh đưa em lên Sài Gòn ở với má anh?
- Rồi em bỏ pá cho ai? Em đã suy nghĩ đủ đường...
Đoạn, nàng đứng dậy:
- Em nói bấy nhiêu đặng anh hiểu, đừng buồn em. Nếu pá còn sống pá che chở em. Pá chết hay đau yếu nằm đấy, em thân gái một mình, y sẽ lấy cớ tới trông nom pá...
Nàng đi. Hoàng tiễn ra cửa, xuống dưới bậc thềm. Dáng nàng cô đơn trông thật tội nghiệp và chàng cảm thấy sự bất lực của hạng “trí thức” như mình. Ánh trăng vẫn sáng nhưng rất lạnh lùng.
***
Những trận mưa đầu mùa báo hiệu niên học sắp hết. Trong mấy tháng hè Hoàng và các bạn sẽ nghỉ hè, về Sài Gòn và đi coi thi, chấm thi Tú tài.
Một đêm trời mưa lớn. Ông cụ đau nặng phải đem vô bệnh viện Triều Châu từ hồi chiều. Ở tỉnh, bệnh viện thường nhỏ, buổi tối hết giờ họ đóng cửa, không cho thân nhân ở lại trải chiếu ngủ dưới đất như trên Sài Gòn.
Mười một giờ đêm, Hoàng sắp tắt đèn đi ngủ bỗng người con gái gõ cửa. Nàng mặc đồ bộ, mặt mũi dính nước, chiếc áo mưa màu đỏ che trên đầu.
- Ủa...
Hoàng ngạc nhiên, vội vàng đỡ chiếc áo mưa, lấy khăn mùi soa lau cho nàng. Người nàng run lên. Nàng cúi mặt:
- Cho em ngủ nhờ phòng anh.
- Tội nghiệp, em tuyệt vọng đến thế kia ư?
- Không, lát em sẽ nói.
Nàng ghé ngồi xuống giường, lấy giẻ lau chân rồi dùng quạt phủi trên mặt nệm, trải lại tấm drap:

- Anh có mùng không? Em quen nằm mùng.
- Có
Nàng phụ với chàng giăng mùng, gài các mép nệm:
- Thôi khóa cửa, tắt đèn, đi ngủ đi anh.
Chàng tắt đèn, chui vào trong giường, tìm thân hình nàng. Họ ôm nhau. Môi nàng mềm, dịu ngọt và ướt đẫm nước mắt.
- Em hiến thân cho anh, anh vừa lòng chưa? Ông Bang cấm em chung sống với anh nhưng không cấm em ăn nằm với anh. Tên đó thèm khát em, chiếm đoạt em cũng vô ích. Ngày trước em nghĩ nếu y đụng tới em, em sẽ tự sát. Bây giờ em vẫn sống, vẫn tiếp tục sống dầu y có cưỡng bức em. Không bao giờ em làm vợ nhỏ của y. Khi nào pá pá còn nằm trong bịnh viện em sẽ lên đây một trăm lần, một ngàn lần, không chịu khuất phục.
- Tội nghiệp em tôi. Anh thương em lắm. Hay nếu em sợ ma thì anh đưa em xuống, anh sẽ nằm bên ngoài chỗ chiếc đi văng của pá coi cho em ngủ?
- Không có đâu, em không sợ ma. Từ nhỏ pá đã nói là hổng có ma. Còn nếu có thì ma cũng như người, không làm hại ai hết.
- Nhưng ... nhưng nếu em có bầu?
- Còn nhỏ chút xíu làm gì có bầu? – Mà có càng tốt. Pá pá chết, chôn cất xong em sẽ trốn đi. A fù a mậu dành dụm được vàng, nhiều lắm, nói để cho em. Em biết nhiều nghề, dư sức nuôi con.
- Anh là thầy giáo, có học mà để em bơ vơ như thế sao? Con chúng ta lớn lên sẽ không có cha.
- Tại ông Bang hổng cho em lấy anh chớ đâu phải tại anh? Người Tiều thì muốn lấy ai cũng được. Nếu có con, em sẽ hy sinh giữ chân cho con trong bang.
- Quan trọng đến thế sao?
- Người Tàu không có bang, chết không chỗ chôn.
Hoàng thở dài:
- Anh lại sắp phải nghỉ hè về Sài Gòn đi coi thi chấm thi, ít nhất ba tháng. Sáng mai anh ghi địa chỉ, vẽ thật rõ, em giữ kỹ lấy, bất cứ lúc nào cần dù anh không có mặt ở nhà thì cũng cứ đến. Má anh sẽ trông nom cho em.
Chàng giải thích thêm:
- Gia đình anh rất dễ. Thấy em xinh đẹp, ngoan ngoãn, má anh chịu liền tức thì. Anh muốn lấy ai cũng được miễn sao họ đẹp và yêu thương anh, má anh vẫn dặn như vậy. Được người con dâu như em chắc chắn má anh rất mừng. Em nhớ giữ giấy thật kỹ, tìm đến nhà anh bất cứ khi nào cần.
Nàng im lặng, sau đó khẽ dạ cho chàng vừa lòng.
Nhưng nàng không đến. Chẳng bao giờ đến. Sau kỳ nghỉ hè, Hoàng xuống. Điều chàng lo lắng nhất đã thành sự thực: ông cụ đã mất, nàng đã bỏ đi, căn nhà đóng cửa im vắng lạ thường. Chàng xót xa hỏi mộ ông cụ ở đâu, bác chủ cho biết người “Tài có” nhờ sự giúp đỡ phương tiện của Bang đã đem quan tài về Sài Gòn từ trong bệnh viện.
- Cổ có gởi lợi cho giáo sư cái này.
Chiếc khăn mùi soa nho nhỏ màu trắng nàng vẫn thường dùng, ở góc thêu ba chữ Hán màu đỏ cũng nhỏ, nét thêu tinh vi: Tịch Dương Hồng.
Cầm chiếc khăn trong tay, Hoàng quay mặt đi:
- Bác cho cháu chìa khóa lên cất va li
- Có, bác cắm ở trển. Biết các giáo sư sắp xuống, bác gái mới quét dọn, lau chùi hồi hôm nên vẫn để nguyên chìa khóa ở trển.
Hoàng vào trong phòng. Ánh nắng buổi chiều hắt hiu rơi trên cửa sổ, lọt qua chiếc lưới muỗi rọi xuống dưới bàn. Có gì tàn nhẫn, có gì đơn độc. Căn nhà kho chạy dài theo chiều dọc cửa đóng im lìm, thê lương, ảm đạm. Chàng nhắm mắt, rùng mình. Em tôi bây giờ lưu lạc nơi đâu? Tôi biết sống thế nào hàng năm hàng tháng trong căn phòng này như cũ được nữa khi nhìn ra không còn thấy hình bóng thân yêu chăm chú ngồi thêu với chiếc áo lụa hồng và mái tóc kết hai đuôi sam cột giải nơ đỏ? Hồn tôi bơ vơ lạc lõng. Tôi là thầy giáo. Nghề này ít ai ham mê chuyện xác thịt. Có càng tốt mà không cũng được. Tôi là người viết văn. Nghề này đòi hỏi những sự suy nghĩ, sống bằng tâm hồn. “Làm sao tìm lại được tâm hồn chiều qua của ta”, bà Noailles đã từng nói như vậy. Tâm hồn tôi lạnh giá, đông cứng và đóng im ỉm như những bức vách của căn nhà kho.
Chàng thờ thẫn ngồi xuống ghế. “Đau làm sao mà mấy bữa nay không thấy đi dạy?”, “Bữa nào anh vô trong trường em ở nhà một mình buồn lắm, trông chừng cho anh mau về”, “Tội nghiệp, bây giờ thì được quỳ dưới chân em rồi đó, vừa lòng chưa?”. Làm sao tôi vừa lòng? Làm sao tôi tìm lại được những gì đã mất? Ngay ông vua Tự Đức, tam cung lục viện vậy mà khi Nguyễn Thị Bằng chết ông ta còn viết: “Đập cổ kính ra tìm lấy bóng, xếp tàn y lại để dành hơi”, huống chi tôi, tôi chẳng là cái gì cả, chỉ có một nỗi buồn mênh mông cô quạnh trong tâm hồn tôi mà thôi.
Chiếc khăn mùi soa nho nhỏ với ba chữ Hán Tịch Dương Hồng ở góc mở rộng trên bàn. Chàng nhìn trân trối. Hình như mùi vải thơm thơm. Hình như mùi da thịt nàng thơm thơm vẫn còn lẩn khuất đâu đây. Chàng gục đầu, lồng hai bàn tay xuống dưới, áp lên trên mặt. Nước mắt chàng chảy ra âm thầm trên chiếc khăn. Ánh nắng quái chiều của miền tỉnh nhỏ hắt hiu vàng vọt rơi trên tóc chàng.
“Em đau lắm phải không?”. “Không”. “Thế sao mặt em đầy nước mắt?”. “Đau nhưng em chịu được”. “Tối mai anh xuống dưới phòng em đi, trên này lạ giường em ngủ không được, mà thức thì anh lại làm em đau, em sợ”. “Thôi được, để anh kê tay làm gối cho em ngủ”, “Em không quen gối đầu lên tay người khác”. Mái tóc kề trên tay anh. Rồi nàng ngủ yên, giấc ngủ nhẹ nhàng...
Ban đêm, lòng Hoàng quằn quại một nỗi nhớ thương xa vắng. Phải chăng đó là xác thịt? Phải chăng đó là sự hy sinh của người con gái “đau nhưng em chịu được”? Trời ơi, chút tình này chỉ có tôi và nàng biết với nhau mà thôi. Gần hai giờ sáng, Hoàng thao thức không sao ngủ nổi. Có tiếng dơi quạ đập cánh trên ngọn cây nhãn và có tiếng gió đêm xào xạc, lành lạnh thổi về lách tách những vạt lá dừa ngoài ngõ. Mùi dạ lý hương ngai ngái. Hoàng rùng mình. Chàng cầu mong căn phòng này có ma, ngôi nhà có ma, bụi dạ lý hương có ma. Ma cô gái áo trắng tóc xõa dật dờ trôi nổi, hai chân bước hổng lên khỏi mặt đất. Dù là người không mê tín, không tin ở các thế lực siêu hình nhưng một đêm đau khổ quá làm chàng trở dậy, nhè nhẹ mở cửa, ra nhà ngoài bật đèn pin lấy một nén nhang trên bàn thờ đem vào thắp lên, tìm chỗ cắm bên cửa sổ phía trên bụi dạ lý hương. Chàng nhắm mắt: “Nếu cuộc sống này có linh hồn thật, xin cho tôi được gặp nàng”. Và chàng nghĩ, năm nay mình hăm sáu tuổi, mình sẽ đợi nàng.
***
Cuối năm ấy Hoàng được đổi về Sài Gòn. Mỗi lần xuống Chợ Lớn, chàng lang thang chiếc xe Vespa trên các đường phố, cứ hết xăng thì lại đổ thêm, lòng thầm mong có một “con ma” nào đó thông cảm, dun dủi cho chàng được gặp lại Tịch Dương Hồng.
Nhưng chẳng có “con ma” nào cả, hình như ma cũng hết thiêng, không giúp đỡ gì được chàng. Chàng quen biết nhiều trong các tòa báo, chỉ còn cách đăng các lời nhắn tin một cách vô vọng trên các báo Hoa cũng như báo Việt: “TDH, nhớ lắm, cần gặp. Xin cho hồi âm về địa chỉ...”. Không thấy trả lời.
Rồi những diễn biến xảy ra như sự phải có của nó. Hai năm sau, 1975, mọi chuyện sụp đổ. Năm 1979 có việc đụng chạm ở biên giới phía bắc, người Hoa bỏ đi nhiều. 1980, Hoàng lập gia đình.
Năm 1986 bắt đầu thời kỳ “mở cửa”, cuộc sống mỗi ngày một dễ dàng và tốt đẹp hơn.
Bây giờ người đàn ông ấy đã bốn mươi sáu tuổi, mái tóc đã bắt đầu bạc. Hoàng tự ý xin nghỉ dạy, chuyên sống về nghề dịch sách và tiếp tục việc viết văn, tự xuất bản lấy các tác phẩm của mình, đời sống tương đối dễ chịu.
Một hôm vợ chàng đi dạy về, ăn cơm xong lấy trong túi xách ra đưa cho Hoàng coi một tờ tạp chí:
- Em ghé vô sạp coi xem đã có bài của anh chưa, thấy tờ này đăng một việc hơi lạ nên mua về cho anh coi. Anh xem trong trang Văn nghệ...
Tờ báo đăng hình ảnh, điểm qua các tiết mục của một đoàn ca vũ nhạc Hồng Kông sang trình diễn một tuần tại Sài Gòn, trong đó họ khen ngợi tài năng của một nghệ sĩ trẻ đẹp, “cái đinh trong đoàn” tên Tịch Dương Hồng.
- Lạ nhỉ, tại sao lại tên Tịch Dương Hồng?
- Họ đăng cả hình, anh thử coi xem có giống không?
- Giống, tới sáu bảy chục phần trăm, hai cái đuôi sam thì y hệt như vậy nhưng cô này còn quá trẻ, chừng hai mươi tuổi.
- Hình thì phải vậy. Còn một ngày chót, hay tối nay ta đi coi đi anh?
- Liệu mua được vé không? Anh sợ đông người phải giữ vé từ mấy hôm trước.
- Mấy cô bạn trong trường em họ nói còn mấy ngày cuối, mua được, chỉ hơi đắt. Hai giờ họ bắt đầu bán.
- Ừ, chiều anh chạy lên mua. Nếu họ bán hết, sẽ kiếm vé chợ đen.
Người nghệ sĩ rất trẻ, mặc áo xường xám màu đen lóng lánh kim tuyến theo kiểu Thượng Hải, mái tóc kết hai đuôi sam, ngực đeo chiếc broche bạch kim cẩn ngọc, đuôi tóc cài hai đóa hồng bằng vải rực rỡ. Nàng hát rất hay, một bản tiếng Quảng, một bản tiếng Anh, một bản bằng tiếng Việt. Khán giả vỗ tay hô “Bis!” như muốn vỡ rạp.
- Đúng không anh?
Giống y hệt cả giọng hát nữa nhưng còn trẻ quá. Nếu đúng bây giờ phải băm bảy băm tám tuổi...
- Kệ, anh cứ thử lên ban quản lý xin gặp xem sao. Cổ được nghỉ, cuối suất mới phải ra sân khấu lần nữa.
- Được, em ngồi đây nhé, để anh lên.
Hoàng cố “nặn” ra mấy dòng chữ Hán vì đã quên nhiều, lại cẩn thận viết cả tiếng Anh lẫn tiếng Việt tùy cô ta đọc được thứ nào thì đọc, giới thiệu tên mình và lý do muốn gặp. Người quản lý đưa vô. Lát sau, một nhân viên khác lập tức ra mời chàng vào hậu trường.
Người nghệ sĩ tươi cười cúi đầu chào và lịch sự đưa tay mời chàng ngồi.
Hoàng dùng tiếng nước ngoài:
- Xin lỗi, tôi có thể dùng tiếng Anh được không?
Người nghệ sĩ mỉm cười dễ dãi:
- Ngộ piết tiếng Việt. Nói được tiếng Việt như người Việt Nam. Xin xính xáng cứ dùng tiếng Việt.
- Nếu không làm phiền, xin tiểu thư vui lòng cho biết chút ít về quý danh Tịch Dương Hồng được không? Ngày trước cách đây hơn hai chục năm tôi cũng có quen một người con gái tên Tịch Dương Hồng, và cái tên đó do chính tôi đặt.
Cô gái mỉm cười rút sợi dây chuyền bằng bạch kim có chiếc mề đay đeo trong ngực áo:
- Phải người đàn bà này không?
Hoàng ngẩn ngơ:
- Đúng, nàng tên thật là Trịnh Dương Hồng.
- Đó là má má xiểu nụi(tiểu nữ). Trước khi qua đây, mẫu thân dặn tiểu nữ kiếm tới một địa chỉ...
Nàng mở chiếc bóp lấy ra một miếng giấy gấp tư đưa cho Hoàng.
- Đây là địa chỉ của gia đình tôi ngày trước.
- Có, tiểu nữ có tới. Người ta nói tiên sinh đã chuyển đi nơi khác, đã lâu người ta quên không nhớ địa chỉ. Tiểu nữ buồn lắm vì không được gặp.
Hoàng móc túi lấy chiếc khăn mùi soa mà vợ chàng giữ rất kỹ làm vật kỷ niệm, dặn đi dặn lại chàng nên bỏ túi mang theo:
- Đã bao giờ mẫu thân nói về chuyện chiếc khăn này chưa?
- Có, má má nhắc hoài
Đoạn, nàng ứa nước mắt, quỳ sụp xuống đất, cầm hai tay khách áp lên mặt mình:
- Pá pá, con là con gái pá pá. Con luôn luôn biết ơn pá pá đã cho con dòng máu nghệ sĩ.
- Có, ba biết. Con đứng dậy đi! Con nói tiếng Việt giỏi lắm. Tên thật con là gì?
- Chèng Foóng Húng (Trịnh Phương Hồng), còn Tchịch Dường Húng là stage-name (tên sân khấu) do má má đặt để kỷ niệm pá. Con ở Việt Nam mãi đến năm bảy tuổi má mới dẫn đi, lạc qua đảo Hải Nàm ở bên Chúng Coọc rồi qua Hoóng KƯoỏng. Bởi vậy con biết tiếng Việt.
- Bây giờ má má thế nào?
- Mất rồi.
Người cha giật mình:
- Mất? Mất hồi nào, năm bao nhiêu tuổi? Mất về bệnh gì?
- Con... con không biết.
- Trời đất ơi, con thương má tới độ đeo hình má trong ngực mà không biết má mất bệnh gì? Con nói dối pá!
- Con không dám nói dối. Do má má dặn.
- Tại sao lại dặn như vậy? Chắc má má đã có chồng nên nói dối là chết.
- Con không biết. Má má nói má sợ lắm, ghét đàn ông, không bao giờ lấy chồng, thà hai má con sống với nhau. Con thương má lắm.
- Tại sao lại dặn con nói là chết?
- Má nói má cũng giống như mặt trời đã lặn. Mặt trời lặn thiệt ra không mất mà ai cũng trông thấy mất. Má đã chìm xuống dưới mặt đất, chỉ còn có con, một chút ánh sáng màu hồng. Phải vậy không pá?
- Cũng được, tạm coi là như thế.
- Đáng tiếc sáng mơi con phải ra phi trường từ bảy giờ rưỡi, không kịp tới thăm pá và gia đình. Con có địa chỉ ở bển...
Cô lấy danh thiếp trong bóp đưa cho cha:
- Con sắp phải ra sân khấu. Pá cho con địa chỉ mới, về bển con sẽ viết thư qua thăm pá, nói chuyện nhiều hơn.
- Ừ.
Hôm sau, trước khi máy bay cất cánh, bà xã Hoàng hôn lên trán Trịnh Phương Hồng và đeo vào ngón tay nàng một chiếc nhẫn kỷ niệm. Còn hai đứa trẻ thì tặng hoa. Nàng quỳ xuống áp mặt mình vào má chúng:
- Piết chế tên gì hôn? Dễ thương lắm!...
Hai đứa gật gật. Thiên hạ đứng nhìn cứ tưởng họ là những người hâm mộ, đưa tiễn nghệ sĩ. Không, họ cùng gia đình và Trịnh Phương Hồng là chị của hai đứa em.
Một lúc sau máy bay cất cánh, bay về hướng đông. Nơi ấy có mặt trời mọc./.

Đoàn Dự
Tịch Dương Hồng * Viet Nam Nhat Bao * Vietnam Daily

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét