Nhìn Ra Bốn Phương

Thứ Sáu, 30 tháng 9, 2022

Chuyện Vãn: Nữ Lưu Nổi Máu! - Vương Trùng Dương

Nhà văn Kim Dung sáng tác từ năm 1955 đến năm 1972 với 14 bộ tiểu thuyết võ hiệp và một truyện vừa với hàng vạn trang sách từ Thư Kiếm An Cừu Lục đến Lộc Đỉnh Ký được tác giả tóm gọn thành hai câu đối:
“Phi Tuyết Liên Thiên Xạ Bạch Lộc
Tiếu Thư Thần Hiệp Ỷ Bích Uyên”
Hầu hết trong các tác phẩm của ông với hình ảnh giai nhân võ công thâm hậu, tính tình hiền hòa, lãng mạn nhưng khi gặp lúc tình đời đen bạc nên “nữ lưu nỗi máu” hận tình trở thành hung dữ, ác độc.Tuy là tác phẩm hư cấu nhưng trước năm 1975 ở miền Nam VN, hàng triệu độc giả say mê từng nhân vật trong tác phẩm võ hiệp. Sau nầy được dựng thành phim đã thu hút giới thưởng ngoạn khắp nơi.
<!>
Với từng nhân vật nữ lưu của ông từ yêu đến hận với chiêu, trò trong chốn võ lâm… sẽ lạm bàn sau nầy.

Kịch tác gia Pháp Molière (1622-1673) qua hai vở kịch L’école des Maris và L’école des Femmes (Trường Học Làm Chồng - Trường Học Làm Vợ) để lại câu nói “Đàn bà là sinh vật khó hiểu”; trước đó, nhà văn Tây Ban Nha Cervantes (1547-1616) đã cho rằng “Giữa cái có và cái không của người đàn bà, không có chỗ đứng cho một cây kim gút” cho thấy đàn bà là hình ảnh kỳ bí, không thể nào hiểu được một cách đơn giản.

Thế nhưng, trên thế gian, không có hình ảnh nào thiêng liêng, cao quý, thể hiện tinh thần hy sinh lớn lao cả cuộc đời, có tấm lòng thương yêu quảng đại bằng hình ảnh người đàn bà trong tình mẫu tử. Trong kho tàng văn học của nhân loại, có muôn vàn tác phẩm đã đề cập đến hình ảnh trong sáng và cao đẹp đó tự nghìn xưa cho đến nay ở cõi đời ô trọc nầy.

Đơn cử vài hình ảnh tiêu biểu đã ảnh hưởng trên văn đàn thế giới như chân dung bà Pélagie Vlassova trong tác phẩm Matb (Bà Mẹ) của văn hào Nga M. Gorki (1868-1936). Trong tác phẩm Lucrèce Borgia (Tình Mẫu Tử) của văn hào Pháp Victor Hugo (1802-1885); ở đó, V. Hugo đã ngợi ca tình yêu thương của người mẹ, không ai có thể quên được "Oh! l'amour d'une mère, l’amour que nul n'oublie."

Vở kịch Matka (The Mother - Người Mẹ) của nhà văn Tiệp Karel Capek (1890-1938) cho thấy sự hy sinh cao cả, niềm đau thương cùng cực của người Mẹ trong đất nước chiến tranh. Khi người chồng dấn thân vào binh nghiệp đã hy sinh, người mẹ không muốn 5 đứa con bước vào con đường của cha nhưng đất nước chiến tranh, làm sao tránh khỏi, bốn người con trai của bà lần lượt vĩnh biệt mẹ trên rừng sâu và nơi chiến trường. Đất nước lâm nguy, người mẹ ngậm ngùi dứt tình mẫu tử bên nhau, khuyên con tham chiến và vĩnh biệt đứa con út duy nhất của mẹ.

Nhà văn Mỹ Pearl Buck (1890-1938) trải qua bốn thập niên sống ở Trung Hoa, bối cảnh trong giai đoạn tranh tối tranh sáng đã môi trường để bà thành danh trong sự nghiệp văn chương. Năm 1932 bà được giải thưởng Pulitzer của Hoa Kỳ, năm 1934 tác phẩm The Mother (Người Mẹ) đề cập đến thân phận người đàn bà trong hoàn cảnh xã hội phong kiến với những sự ràng buộc phải cam chịu. Năm 1938 Pearl Buck được giải Nobel Văn Chương, tác phẩm của bà được chuyển dịch qua nhiều thứ tiếng. Trong đời sống, bà là người Mỹ nhưng thể hiện tâm hồn của người mẹ theo tinh thần Đông phương.

Hình ảnh người mẹ đau thương đó được diễn tả qua hình tượng và ngôn ngữ văn chương cũng là muôn nghìn hình ảnh người mẹ Việt Nam trong chiến cuộc, trong khói lửa chiến tranh. Quên bản thân mình mà lo cho con cái, đem hạnh phúc của con cái để an ủi cuộc đời mình trong cơn giông bão... nói lên sự hy sinh vô bờ bến trong tình mẫu tử.



Vài tác phẩm tiêu biểu trong văn học Việt Nam như Tôi Là Mẹ của Lê Văn Trương (1906-1961) vào năm 1939 trên bán nguyệt san Phổ Thông, bà đã hy sinh hạnh phúc của mình vì tình mẫu tử. Lòng Mẹ của Trọng Lang (1906-1986), Mẹ Tôi của Nguyễn Khắc Mẫn, Đại Học Thư Xã ấn hành vào đầu thập niên 40... Tập truyện Gió Đầu Mùa của nhà văn Thạch Lam, ấn hành năm 1937, có truyện ngắn Nhà Mẹ Lê với hình ảnh bà mẹ Lê cả cuộc đời hy sinh cho cái đến khi nhắm mắt.

Về hình ảnh cao đẹp của người mẹ được thể hiện nhiều nhất với nhiều ca khúc, bài thơ, tranh họa, ca dao tục ngữ... ngợi ca hình bóng người mẹ như biểu tượng cao quý nhất trong lòng người được thể hiện qua bao thiên niên kỷ.

Trong đời sống riêng tư của chúng ta, mỗi người đều cảm nhận thấy hình tượng mầu nhiệm kính yêu ấy đã ngự trị trái tim với bậc sinh thành trong gia đình, dòng tộc. Bên cạnh bao hình ảnh cao đẹp đó, cũng có nhiều hình ảnh tương phản, khi bắt gặp tự nhiên cảm thấy điều gì xót xa, đau nhói, có lúc đau lòng bởi nghiệp dĩ nên đã xúc phạm đến hình ảnh chung đã được tôn thờ.

Sở dĩ, có vài nét dông dài khi nói về “thế giới” kỳ bí, đầy giai thoại mà người xưa cho rằng “thiên cổ chi mê”, làm tổn thương trong lòng mọi người. Bóng dáng đó được chiếu rọi qua nhiều lăng kính mà mỗi một hình ảnh là thế giới riêng biệt lúc tĩnh, lúc động, khi vô cùng mềm mỏng, khi cực kỳ sắt đá.

Bên cạnh hình ảnh độ lương, thiết tha, dịu dàng, nhu mì, khả ái, đoan trang, mẫu mực, thanh tao, uyển chuyển... cùng những đức tính tuyệt vời của đấng nữ lưu nâng niu cho giọt máu được hình thành trong cõi đời của minh mà bao nhiêu danh họa, văn thi sĩ tài hoa đã đổ không biết bao nhiêu bút mực đã làm say đắm, ngất ngây tâm hồn người thưởng ngoạn từ xa xưa đến nay thì cũng có bao nhiêu hình ảnh trái ngược được đề cập qua văn chương, sách vở khi giai nhân nổi cơn thịnh nộ.

Vào đầu công nguyên, triết gia Sénèque trước công nguyên, xây dựng lại nhân vật qua hình ảnh Phèdre làm đề tài lưu truyền cho bi kịch đầy đau thương. Phèdre thích trai tơ nên quyến rũ con riêng của chồng, bất thành Phèdre vu oan giá họa cho Hippolyte tội loạn luân.

Hippolyte phải chịu oan, kết liễu cuộc đời. Phèdre ăn năn, chọn cái chết để giải quyết sự thâm độc của mình. Hình ảnh Phèdre sau nầy được bàng bạc qua ngòi bút của Kim Dung cho thấy khi nàng thích mà chàng cứ lửng lơ con cá vàng thì tai họa vào thân.

Theo các sử gia ngày xưa, vị vua cuối cùng của nhà Thương ở Trung Hoa vào khoảng từ năm 1166 đến 1134 trước công nguyên là Thọ Tân hoàng đế: Trụ Vương. Vua Trụ là người thông minh, có sức mạnh phi thường nhưng tàn bạo và hoang dâm. Nhà Thương trị vì thiên hạ được 661 năm, đến đới Trụ Vương thì bị sụp đổ bởi Đát Kỷ. (1)

Vua Trụ có hoàng hậu họ Khương và hai quý phi họ Hoàng, họ Dương thuộc loại sắc nước hương trời, bên cạnh có hơn nghìn cung nữ trẻ đẹp nhưng vẫn chưa thỏa mãn, cho cận thần săn gái.

Nghe tin Tô Hộ, Thứ sử Ký Châu có đứa con gái thuộc loại tuyệt sắc giai nhân nên vua Trụ cho mời Tô Hộ vào cung Long Đức, báo tin muốn tuyển Đát Kỷ vào cung. Tô Hộ tìm cách từ chối vì không muốn đứa con gái mình rơi vào tay hoàng đế dâm đãng. Vua Trụ nổi giận, đem Tô Hộ ra xử với trọng tôi khi quân, nhờ Vưu Hồn và Bí Trọng can gián nên thoát khỏi tội hình. Khi Tô Hộ về tới Ký Châu, vua Trụ sai Sùng Hiền đem quân tới trị tội và bắt giam người con trai là Tô Toàn Trung. Tô Hộ đau lòng vì có con gái nhan sắc đem dâng hiến cho kẻ hiếu sắc thì cảm thấy nhục nhã, cưỡng lại thì bị tai ách nên đêm khuya vào hậu cung toan tự tử. Ông vào nhìn con lần cuối cùng trước khi vĩnh biệt cõi trần. Đát Kỷ biết được sự tình nên xin thân phụ cho nàng vào triều để gia đạo bình an và cũng là đạo làm con.

Nhìn thấy Đát Kỷ, vua Trụ liền đưa Tô nương nương vào lầu Thọ Tiên để hưởng hoan lạc. Suốt hai tháng trời, vua Trụ đắm chìm trong tửu sắc ở cung Thọ Tiên. Thấy nguy cơ cho bậc đế vương, các quan đại thần tìm cách can gián như Đỗ Nguyên Tiễn, Mai Bá... đều bị hành hình.Đát Kỷ hiến kế cho vua Trụ đúc cột đồng gọi là Bào Lạc, cao ba chục thước, rộng tám thước (thước ở Trung Hoa thời đó bằng 0,25 mét, gần 10 inches) có ba miệng lỗ để đốt than cho nóng, bắt phạm nhân chun vào trong cho cháy thiêu. Mục đích của Đát Kỷ, cho trị tôi như vậy để kẻ khác khiếp sợ.

Để hưởng thụ, vua Trụ nghe lời Đát Kỷ, cho xây Lộc Đài rộng ba dặm, cao hơn một nghìn thước; xây Khuyển Đài để nuôi muôn thú cho Đát Kỷ săn bắn.

Khi Đát Kỷ vào ở cung Thọ Tiên, hưởng lạc lâu ngày cùng nhà vua, hoàng hậu họ Khương và hai quý phi gọi Đát Kỷ vào chầu, lên án Đát Kỷ mê hoặc hoàng đế đã bỏ việc triều chính và dọa sẽ trị tội.

Đát Kỷ nuôi nỗi căm hận nhưng chưa tạo được thời cơ nên tìm cách mua chuộc Đại phu Bí Trọng rồi bày mưu, lập kế để vu oan giá họa cho hoàng hậu họ Khương cho người làm chuyện phản nghịch để cướp ngôi. Khương hậu bị kết tội, Trụ Vương cho khoét mắt rồi dùng hai thanh sắt nung đỏ, áp vào tay để khai và nhận tôi nhưng Khương hậu cam chịu cho đến chết. Quý phi họ Dương thấy nguy cơ nên tự vận để tránh cực hình.

Đát Kỷ chính thức làm hoàng hậu, nói gì Trụ Vương cũng nghe nên lộng hành áp đảo quan lại trong triều. Để tất cả cung nữ cúc cung tận tụy, Đát Kỷ cho xây hầm rắn độc, trong đợt đầu, bắt 72 cung nữ có lời đàm tiếu, lột áo quần, quăng xuống hầm rắn. Ngoài ra, Đát Kỷ còn bày ra các thú tiêu khiển trên xác hoạn quan và cung nữ, bên cạnh những cực hình rất dã man.

Bao nhiêu đại thần can ngăn đều bị hành hình, ngay cả Tỷ Can, chú ruột của vua, bị mổ bụng xem gan to đến đâu như ý của Đát Kỷ. Khi vua Trụ không đủ sức cung phụng cho Đát Kỷ, nàng kiếm trai tơ, Bá Ấp Khảo với ngón đàn tuyệt vời, đẹp trai nên nàng tìm cách gần gũi để hưởng lạc nhưng chàng ta khờ dại không đáp ứng nên bị kết tội có ý hại nàng. Đát Kỷ cho hành hình bằng cách lột quần áo rồi cho người xẻo từng miếng thịt để trị tội.

Đát Kỷ còn cho người kiếm thêm gái đẹp để vua Trụ thụ hưởng nên nhà vua khen nàng rộng lượng nhưng thừa lúc “ông ăn chả” thì “bà ăn nem” với trai tơ cho thỏa thích và cũng trả hận xưa. Trước bao nhiêu tai họa dồn dập trút lên đầu quan, dân. Nổi oán hận chồng chất, gọi Đát Kỷ là hồ ly tinh đã mê hoặc Trụ Vương, gây bao tang tóc cho sinh linh!

Khi Chu Vũ Vương chỉ huy quân sĩ xông vào hoàng thành; vua Trụ tự thiêu trên lầu Trích Tinh và Đát Kỷ bị giết, kết thúc triều đại hùng mạnh nhà Thương.

Trong Phong Thần Diễn Nghĩa, vua Trụ nhân dịp xa giá đến viếng đền thần Nữ Oa, thấy chân dung nữ thần quá tuyệt trần nên sinh lòng tà dâm, lấy gươm khắc thơ muốn đem Nữ Oa về chung chăn gối. Nữ Oa thấy Trụ Vương ngạo mạn, dâm đãng, dám xúc phạm đến uy lực thần linh, tức giận trừng phạt vua Trụ, hủy diệt nhà Thương. Khi Trụ Vương cho tìm mỹ nhân Đát Kỷ đưa vào cung, Nữ Oa sử dụng con hồ ly tinh 9 đuôi, sống qua một nghìn năm đến bắt hồn Đát Kỷ và nhập vào xác để mê hoặc nhà vua. Từ đó, hồn phách vua Trụ bị Đát Kỷ lung lạc, bao nhiêu thú vui và cực hình do Đát Kỷ dựng lên để làm điên đảo chốn cung đình, hết thảm cảnh nầy đến thảm cảnh khác liên tục xảy ra, quan dân ai oán, chỉ còn trơ trọi bản thân hôn quân trong tâm hồn mê muội. Khi vua Trụ cảm nhận thấy cốt tinh của mỹ nhân là lúc ngọn lửa hủy hoại thân xác!

Như đóa hoa đẹp đang tỏa hương sắc nhưng khi mong muốn mà không được đáp ứng liền biến thành gai nhọn, đổi sang hận để triệt hạ cho bằng được, thật là hiểm độc. Đát Kỷ khoái Bá Ấp Khảo, tạo cơ hội học đàn để có dịp gần gũi và ân ái với nhau nhưng chàng sợ xúc phạm đến dung nhan hoàng hậu, không dám đáp ứng nên bị nàng nổi giận cho phanh thây.

Cũng phát xuất từ Trung Hoa, đơn cử vài hình ảnh đã nghe quen quen thời xa xưa còn lưu lại sách vở, được lưu truyền vì nó trở thành điển tích.

Vào năm 200 trước công nguyên, đời Tây Hán, vợ của Hán Cao Tổ Lưu Bang là Lữ Trĩ. Vợ chồng bên nhau lúc thuở hàn vi, nàng thuộc người mẫu mực. Khi chàng trở thành hoàng đế và nàng trở nên hoàng hậu, chàng có người hậu phi là Thích Cơ trẻ đẹp, dễ thương. Rồi một hôm, chàng say, nằm ngủ trên đùi Thích Cơ, có kẻ mách báo và nàng bắt gặp, để tâm, chờ ngày trả thù. Khi Hán Cao Tổ chết, Thích Cơ bơ vơ, Lã Hậu manh tâm trả thù. Lã Hậu truyền bắt Thích Cơ và cung nhân hầu cạnh để đem ra hành hình rất dã man: bắt uống thuốc câm, bị chặt tay chân, khoét mắt, cắt tai rồi giam vào ngục tối đầy phân. Nạn nhân đau đớn, không thốt lên tiếng, chỉ ú ớ cho đến khi kiệt lực, tắt thở. (2)

Đời Tam Quốc vào thế kỷ thứ 3, chúa chư hầu Hà Bắc là Viên Thiệu có người vợ là Lưu phu nhân nổi máu cũng “rợn người”. Viên Thiệu có 5 nàng hầu rất khả ái nên tỏ lòng trìu mến. Khi Viên Thiệu chết, Lưu phu nhân bắt 5 nàng hầu ra giết. Nàng sợ vong hồn người chết về báo oán nên sai người cạo tóc, lột mặt, khoét mắt rồi bằm nát 5 thây chết thành đống bầy nhầy. Chưa hết, con trai của nàng là Viên Thượng sợ thân nhân họ trả thù nên sai bắt thân nhân gia thuộc của 5 nàng đem ra giết để trừ hậu hoạn!

Vào thế kỷ thứ 10, đời Tống, ở về phía Đông Bắc Trung Hoa, Hoàng đế nước Kim có hai nàng cung phi, Lệ Cẩm và Ngọc Sương tuyệt trần nên được sủng ái. Hoàng hậu ứa gan nhưng đành câm lặng. Trước khi nhà vua chết, có dặn quần thần đem chôn sống hai nàng ái phi theo vua.

Hoàng hậu thực hiện đúng theo di ngôn Hoàng đế nhưng lại nghĩ nếu để hai nàng trẻ đẹp nguyên vẹn theo vua nơi “âm cảnh” thì cả ba cứ quấn quít bên nhau tha hồ tình tự, ái ân... gai con mắt. Nàng truyền thị vệ khoét mắt, vạch mặt, cắt mũi Lệ Cẩm và Ngọc Sương thành quỷ, ngâm giấm rồi đem chôn.

Câu chuyện được đề cập rất nhiều: Tây Thi.
Đời Đông Châu, Việt Vương Câu Tiễn thua Ngô nên bị Ngô Phù Sai cầm tù ở nhà đá mang tên “Thạch Thất”, cả hai vợ chồng phải chăn ngựa cho nhà vua. Câu Tiễn giả khùng, giả ngu nếm phân và tìm cách hối lộ với gian thần của Ngô là Bá Hy nên được cho về. Giai nhân tuyệt sắc nước Việt ở thôn Tây Bích La, gọi là Tây Thi, người đời liệt kê “Tứ đại mỹ nhân” được dùng mỹ nhân kế, đem dâng cho Ngô Phù Sai. Ngô vương mê mệt, ngày đêm cùng bên Tây Thi muốn tận hưởng giây phút lạc thú, quên cả giang sơn, đất nước. Câu Tiễn ngày đêm chiêu binh thao lược. Nước Ngô ngày càng suy yếu vì Phù Sai đắm chìm trong tửu sắc, bỏ bê việc triều chính. Cuộc chiến bùng nổ, Ngô bại trận, Phù Sai tự tử. (3)

Tây Thi làm tròn sứ mệnh của người con nước Việt, sau tháng ngày thăng trầm nơi cung cấm, ngán ngẩm cảnh đời, mong trở lại yên sống nơi cố hương. Người hùng Phạm Lãi trong tháng ngày sóng gió có mối tình sâu đậm với Tây Thi. Câu Tiễn vừa ái mộ tinh thần hy sinh của người đẹp, vừa xúc động trước sắc nước hương trời dù trải qua bàn tay thô bạo. Vương phi Câu Tiễn cảm nhận được điều đó, Phạm Lãi không muốn kẻ đầy quyền phỗng tay trên nên tìm cách tựu kế với vương phi. Trên cuộc hành trình, vương phi mật sai kẻ thân tín bắt Tây Thi cột vào đá rồi ném xuống dòng Tam giang. Sát hại cho chết và cũng không muốn Câu Tiễn được nhìn xác chết.

Chấn động xưa nay là hình ảnh Võ Hậu (Võ Chiếu, Võ mỵ nương), từ phi tần trở thành vợ vua Đường Lý Trị vào lúc suy vong. Võ Tắc Thiên (625-705) không từ bất cứ thủ đoạn tàn nhẫn nào để mưu cầu danh lợi, ngay cả bóp mũi khiến công chúa An Định chết yểu rồi vu oan cho Vương hoàng hậu. (4)

Hình ảnh tiêu biểu cho nhân vật nữ lưu nổi máu gian ác đã lưu truyền trong lịch sử nhân loại. Nhân vật Võ Tắc Thiên nầy cũng được đề cập nhiều nhất qua nhiều ngoài bút của sử gia và văn nhân...

Trong thời kỳ đó, phận nữ lưu bị xem nhẹ thế mà từ cung phi dám nổi máu thay đổi triều đại để “thay trời làm vương”. Phế bỏ triều đại nhà Đường từ thời Cao Tổ đến Duệ Tông (618-684); sau khi Đường Cao Tông mất, Vũ Hậu ra tay phế bỏ Trung Thông, Lý Thông, Lý Đản, lên ngôi hoàng đế, đổi quốc hiệu nhà Chu (690-705) thống trị Trung Hoa.

Võ Tắc Thiên ngoài thủ đoạn tàn nhẫn còn nổi tiếng người đàn bà dâm đãng... lung lạc cả vương triều nhà Đường đầy uy quyền trở thành lá bài phải nằm trong bàn tay.

Cuối thế kỷ 19, cuối đời triều Thanh ở Trung Hoa, Từ Hi Thái Hậu cũng nổi đình dám như Lã Hậu, Võ Tắc Thiên… độc ác và hoang dâm để thỏa mãn thú tính. Nhưng sau nầy, các cây bút ngoại quốc lại viết về bà với tài trị quốc. (5)

Với nữ lưu, không có tác động nào gây cơn thịnh nộ nào bằng ghen, xin khái quát qua vài hình ảnh được lưu truyền ở trên.

Lịch sử nước ta được may mắn có nhiều vị mẫu nghi thiên hạ có tâm, có đức còn lưu lại hậu thế, điển hình như Đại Thắng Minh Hoàng Hậu, Thánh Nử Liễu Hạnh, Thái Hậu Ngô Thị Ngọc Dao, Từ Cung Hoàng Thái Hậu… biểu tượng hình ảnh cao đẹp muôn đời bà mẹ Việt Nam.

Trong những thời kỳ Bắc Thuộc, chốn hậu cung nơi cung đình cũng bị ảnh hưởng bên Tàu nên cũng xảy ra các trường hợp Hoàng Hậu, Hoàng Thái Hậu… nổi máu ghen tỵ gây bức hại lẫn nhau nhưng sử sách ít ghi chép lại để lưu vết nhơ cho hậu thế như bên Tàu.

Kiều gẩy đàn hầu rượu
cho Hoạn Thư và Thúc Sinh

Thời còn học sinh ở miền Nam VN, lớp Đệ Tứ (lớp 9 ngày nay), chương trình Việt Văn với Đoạn Trường Tân Thanh, áng thơ bất hủ của thi hào Nguyễn Du (1766 - 1820) hình ảnh Hoạn Thư, danh từ riêng đã trở thành ngôn ngữ chung khi đề cập đến máu ghen của nữ lưu. Hoạn Thư nổi lôi đình một cách “dịu dàng” bên cạnh Thúc Sinh “Vợ chồng chén tạc chén thù” và hành hạ Thúy Kiều:

“Bắt nàng đứng chực, trì hồ hai nơi
Bắt khoan, bắt nhặt đến lời
Bắt quỳ tận mặt, bắt mời tận tay”

Giang hồ như Thúc Sinh nhưng trước cảnh tượng ấy đành “như dại như ngây, giọt dài giọt ngắn, chén đầy chén vơi”.

Chưa đã cơn giận, Hoạn Thư “chơi” Thúy Kiều tận mạng:

“Làm cho, cho mệt cho mê
Làm cho đau đớn, ê chề cho coi”.

Thế rồi, cuộc đời đẩy đưa, Thúy Kiều dựa thế Từ Hải lúc binh hùng tướng mạnh. Ân đền oán trả, gặp lại Hoạn Thư, Thúy Kiều muốn “Xem cho rõ mặt, biết tôi báo thù”, thế rồi nàng nổi cơn thịnh nộ cũng “chơi” lại đối phương

"Dưới cờ gươm tuốt hộp ra,
Chính danh thủ phạm tên là Hoạn thư.
Thoạt trông nàng đã chào thưa:
Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây?
Đàn bà dễ có mấy tay,
Đời xưa mấy mặt đời này mấy gan?
Dễ dàng là thói hồng nhan,
Càng cay ngặt lắm càng oan trái nhiều."

Vài dòng thơ của Nguyễn Du tiên sinh đủ làm rợn gáy... chớ nên léng phéng! Nam sinh lúc đó, nếu có “tập tễnh” biết yêu, thấy hình ảnh Hoạn Thư cũng phải kiêng nể người đẹp. Biết thân biết phận thì “kính nhi (nữ)… viễn chi” nhưng sau đó hoàn cảnh đưa đẫy nên cũng liều “Mà xem con tạo xoay vần ra sao” (ĐTTT). Thôi thì: “Một liều, ba bảy cũng liều. Cầm bằng như trẻ chơi diều đứt dây” (Ca Dao).

Với hình ảnh “Sư Tử Hà Đông” từ địa danh Hà Đông tỉnh Sơn Tây ở Trung Hoa (từ nước Tấn thời Chiến Quốc) nhưng không biết ai lại gán ghép trên địa danh nước ta. Thị xã Hà Đông nằm về hướng nam Hà Hội, nối tiếp nhau bởi con đường Nguyễn Trãi. Ở Trung Hoa cũng có địa danh Hà Đông, địa danh nầy nữ lưu đã đi vào văn chương, thế rồi người đẹp thị xã Hà Đông lại mang tiếng oan về máu ghen hung dữ, nó lại trở thành ngôn ngữ chung “Sư Tử Hà Đông” ám chỉ hình ảnh nổi máu “tam bành lục tặc”, thật oan cho người đẹp bên cạnh kinh thành nghìn năm văn vật ngày xa xưa! gọi là sư tử vì sư tử là chúa tể sơn lâm, mỗi khi rống lên chấn động, khiếp đởm cả rừng xanh.

Theo điển tích được ghi nhận, nhà thơ Đỗ Phủ (712-770) đời Đường ở Trung Hoa có câu “Hà Đông nữ nhi thân tính Liễu” lấy từ sách kinh nhà Phật “Sư tử hống liễu nghĩa kinh”. Sau ba thế kỷ, sự tình cờ trùng hợp với ý thơ của Đỗ Phủ, bạn thân của Tô Đông Pha là Trần Tạo, tự Quý Thường, sùng đạo Phật, quy y với pháp danh Long Khâu. Trần Tạo có người vợ cũng có tên là Liễu Thị, máu ghen dữ dằn, vang lừng “năm châu bốn bể”; nhà thơ Tô Thức đã làm bài thơ tứ tuyệt giễu bạn ta: (6)

“Long Khâu cư sĩ diệc khả liên
Đàm Không thuyết Hữu dạ bất miên
Hốt văn sư tử Hà đông hống
Trụ trượng lạc thủ tâm mang nhiên”.

(Hiền lành mộ đạo có Long Khâu
Bàn Không luận Có suốt canh thâu
Bỗng nghe sư tử Hà Đông rống,
Kinh hoàng bỏ gậy rớt nơi đâu).

Trở lại với hình bóng quê hương, nhà thơ trào phúng Tú Xương dùng hình ảnh “Sư tử Hà Đông” để nói lên tình cảnh vợ lớn, vợ nhỏ:

“Hầu hạ đã cam phần cát lũy
Nhặt khoan còn ỏm tiếng Hà Đông!”

Từ đó, chàng trai Hà Nội xuôi Nam, mò mẫm tán tỉnh người đẹp Hà Đông, bị phản pháo rồi đem hình ảnh Hà Đông thời xa xưa gán ghép vào rồi dệt thành nhiều giai thoại con gái Hà Đông.

Thế thì, mấy ai nhờ đọc được tích xưa nên bắt chước Tú Xương “Nhặt khoan còn ỏm tiếng Hà Đông” bèn thử thời vận, trong nhờ đục chạy. May quá, phước lành!.

Nhà văn Hoàng Hải Thủy lấy bút hiệu là Công Tử Hà Đông, theo ông: “Năm 1970 tôi giữ một trang trong tuần báo Con Ong, tôi cần một, hai bút hiệu Tếu để viết những bài kiểu viết láo mà chơi. Cái tên HHT dành để viết tiểu thuyết. Tôi lấy 2 tên Công Tử Hà Đông và Gã Thâm để ký 2 bài tôi viết trên Con Ong. Tôi ra đời, lớn lên ở thị xã Hà Đông. Hà Đông cách Hồ Gươm Hà Nội 11 cây số, có xe điện qua lại ngày 4, 5 lượt... Thanh niên Hà Đông ăn diện không khác thanh niên Hà Nội nhưng vẫn là thanh niên Hà Đông. Không ai dám tự nhận trên báo mình là Công Tử Hà Nội, nhưng nhận mình là Công Tử Hà Đông thì được. Vì Công Tử Hà Đông là một thứ công tử tỉnh lẻ, không giống ai, không được ai trọng”.

Than ôi! đơn cử vài hình ảnh ngày xưa, nữ lưu nổi máu với người cùng phái, dù có gan hay nhát, cũng phải rợn người. Xin mượn hai câu của Tố Như tiên sinh để tỏ bầy:

“Máu rơi thịt nát tan tành
Ai ơi trông thấy hồn kinh phách rời”.

Oan ơi ông Địa! Tự nhiên con gái Hà Đông nước ta bị gieo tiếng ác từ điển tích bên Tàu ngày xa xưa, may mà nhà thơ Nguyên Sa trong bài thơ Áo Lụa Hà Đông mang sản phẩm ở thị xã nầy vào Sài Gòn:

“Nắng Sài Gòn anh đi mà chợt mát
Bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông
Anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng
Thơ của anh vẫn còn nguyên lụa trắng…

… Em ở đâu, hỡi mùa thu tóc ngắn
Giữ hộ anh màu áo lụa Hà Đông
Anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng
Giữ hộ anh bài thơ tình lụa trắng”.

Nhà văn S. Maugham còn ví von về đàn bà và sư tử: “Khi lòng tự ái bị tổn thương thì nó có thể khiến người đàn bà lồng lộn báo thù hơn cả sư tử cái bị cướp mất con”.

oOo

Ngày nay, giữa thiên đường hạ giới nầy, không biết bút mực nào kể cho hết. Chuyện nữ lưu nổi máu với nhau như vậy. Điển hình như nàng Lorena Bobbitt ở Virginia đã làm thành đề tài cho giới truyền thông. Nàng Lorena nổi máu, lấy con dao dài 12 inches cắt đứt “của quý” của chồng John Bobbitt, nguyên gốc Thủy Quân Lục Chiến, còn đem ra xe rồi vất vào bụi cây ven đường. Khi “của quý” tìm được, bác sĩ đã gắn lại cho chàng. Sau nầy chàng còn đóng phim Sex chứng tỏ của quý còn tác dụng. Sau Lorena, thỉnh thoảng xảy ra tình trạng trừng phạt trên vì “con chim sổ lồng” nên “vặt lông cắt bỏ”.

Với đấng mày rây với nhau, chàng Bonilla ở tiểu bang Florida bị cắm sừng nhưng không dám hó hé với vợ, dùng kéo cắt đứt “của quý” của chàng hàng xóm từng ngủ với vợ mình, chàng nổi máu ghen đến nhà tình địch chĩa súng, trói lại rồi cắt đứt “của quý” bằng kéo, rời khỏi nhà nạn nhân cùng với “của quý” bị cắt rời.

Trong những năm qua, truyền thông trong nước đã loan tin nhiều vụ cắt “của quý” chồng vì “không ăn cơm nhà, mò ăn phở chỗ khác”cho bỏ ghét!

Tháng 7 năm 2022, truyền thông trong nước loan tin vụ án: Ghen tuông, dùng kéo cắt lìa “của quý” của chồng hờ. Bà NH, 51 tuổi, chung sống với người chồng hờ NVN, ông chồng hờ còn lẹo tẹo với người tình khác, bà nổi cơn ghen, trong lúc ông N ngủ say, bà H cầm kéo cắt “của quý” của nạn nhân đứt lìa. Tóa xử, bà NH bị 9 tháng tù, còn ông N làm thái giám suốt đời!

Trước bóng dáng giai nhân, khôn hồn “ăn vụng biết chùi mép” chớ dại mà rước họa vào thân, tam thập lục kế, tẩu vi thượng sách, tránh xa chẳng xấu mặt nào, nhỡ cầm cái kéo cắt chỉ bụp thật mạnh, làm con hổ trong chuồng “Than ơi! Thời oanh liệt nay còn đâu” như lời thơ Thế Lữ. Nay không còn thuở làm thái giám để xin “job”, bắt chước ông hoàng thi ca, làm thơ con cóc bất đắc chí bấm bụng thở than: “Than ôi! đứt mất con lợn nọc. Đời mất mi rồi, ôi khổ đau!”.

Trong ca dao Việt Nam, mô tả trai gái yêu nhau, tỏ lòng thủy chung với vũ khí bén nhọn cầm trong tay để thề nguyền:

“Tay cầm cái kéo con dao
Chọc trời vạch đất, lấy nhau phen này”.

Nhưng thử tưởng tượng hình ảnh trai gái thề nguyền trong ca dao:

"Tay anh cầm con dao
Tay em cầm cái rổ
Cắt cổ con dê
Lấy huyết ra thề
Rày chờ mai đợi
Sống không làm được bạn, chết cũng chôn kề một bên."

Nường đẹp, xấu thế nào không biết nhưng thấy hình ảnh chàng và nàng cắt cổ con dê tế thần lấy máu uống thề độc như thế thì cả đời chàng chẳng dám so sánh "cơm và phở". Nường ơi! “Hôm qua, qua nói qua qua, mà qua không qua. Hôm nay, qua không tính dẫn xác phàm qua, mà qua nhớ quá nên qua lại qua...” để tạ lỗi với nường. Nường ơi! trên thế gian có bao nhiêu lời thề độc địa, nường nói ra đi, qua xin thề theo. Trời đánh, thánh đâm, xe cán, đạn phanh thây... đâu có nghĩa gì đâu. Thánh thần phanh thây lúc nào không thấy nhưng lúc nầy, qua mà lộn xộn, nường phanh thây tức khắc! Qua run quá nường ơi! xin đừng nổi giận, kiếp nầy lỡ dại, thề đại cho xong, xin nường mở lòng từ tâm tha cho kiếp sau, mả táng kề bên nhau, xin nường đừng cầm con dao, cái kéo, nường nằm bên qua mà hai tay nhịp nhịp thì ông Đinh Hùng làm sao “Ta muốn vào thăm chốn mộ sâu”! Bái phục ông Mai Thảo “Đặt tay ở chỗ không thể đặt. Vậy mà đặt được chẳng làm sao”(Chỗ Đặt).

Ngày xưa, người xưa ở trong khuê phòng, lúc nổi máu còn vậy. Ngày nay, đã từng “xông pha” nơi đất khách quê người, thế nào cũng “cẩu nhật tân, nhật nhật tân, hựu nhật tân.” (Nếu muốn ngày hôm nay đổi mới thì ngày ngày đều phải luôn đổi mới, lại tiếp tục đổi mới nữa.)

Đông, Tây, kim, cổ... lưu lại không biết bao nhiêu hình ảnh, câu chuyện kinh hoàng, tình huống không thể ngờ khi “nữ lưu nổi giận”. Bản chất của nữ lưu hầu như nhu mì nhưng khi thấy sự phản bội, lọc lừa, đụng chạm sự phũ phàng, đôi khi phải đương đầu với nghịch cảnh... tình cảm đột biến, bất chấp tất cả để ra tay cho thỏa cơn cuồng nộ. Nếu gặp phải trường hợp không may phải đối tượng với bản chất đầy âm mưu, thủ đoạn đem ra xuất thủ, không thể nào đỡ được... chỉ còn chết đến bị thương triền miên.

Luật lệ trên xứ Cờ Hoa, đẩy đưa cái nháy mắt, khen khéo “good looking”, nếu không được lòng, nỗi giận, chụp cho cái mũ “sexual harassment” đấng mày râu cũng xấc bấc, xác xơ, đi đoong cuộc đời, than thở rằng đời sao đen như mõm chó.

Nhà báo Chu Tử đã lấy trong ca dao “Sự đời như cái lá đa, đen như mõm chó, chém cha sự đời”! làm đề tài cho ngòi bút châm chọc thế thái nhân tình.

Lá tre, lá mít, lá đa... lá nào cũng là lá, khi nổi máu tam bành, nổi cơn thịnh nộ... lá biến thành dao, kéo… tẩu vi thượng sách, sống khôn thác thiêng, hát rằng... là, lá, la. Cao bay xa chạy.

Trong phần nhập đề có đề cập đến truyện võ hiệp của Kim Dung, những nữ lưu khi hận tình đâu cần dao, kéo để cắt… mà với võ công tàn độc để phanh thây! Vì hận tình mà những mỹ nhân như Hà Hồng Dược, Lý Mạc Sầu, Chu Chỉ Nhược… từ thục nữ trở thành ác nhân. Ngay cả Diệt Tuyệt sư thái, Chưởng Môn phái Nga My, khi chưa đi tu, bà và đại sư huynh Cô Hồng Tử trở thành đôi tình nhân. Cô Hồng Tử nghe danh Quang Minh tả sứ Dương Tiêu võ công siêu phàm, nhiều lần thách đấu nhưng bị bại nên phát bệnh mà chết. Sau nầy Diệt Tuyệt sư thái hận thù Dương Tiêu, không đội trời chung với Minh Giáo. Khi đệ tử Chu Chỉ Nhược yêu Vô Kỵ (con của Trương Thúy Sơn và Hân Tố Tố), khi Vô Kỵ có công giải cứu được lục đại môn phái (có phái Nga My) nhưng bà bắt Chu Chỉ Nhược thề độc không yêu Vô Kỵ mà phải trả thù! Bà là người tu hành nhưng cố chấp, thiếu lòng từ tâm nên tàn độc, gây ra những cái chết oan uổng vì thỏa mãn hận thù!

Little Saigon, Sept 2022
Vương Trùng Dương

Đọc thêm:

Người Đẹp Hay Con Cọp?

Chú thích:

(1) Đát Kỷ

(2) Lã Hậu

(3) Tứ Đại Mỹ Nhân Trung Hoa

(4) Võ Tắc Thiên

(5) Từ Hy Thái Hậu

(6) Đây là một giai thoại văn chương do người đời sau thêu dệt ra. Trên thực tế thì trong những ngày tháng Tô Đông Pha bị đày ải ở Hoàng châu; làm việc khổ cực. Ông làm một bài thơ dài (không phải là tứ tuyệt) gởi cho người bạn thân là Trần Quý Thường, hiệu là Long Khâu cư sĩ. Mấy câu đầu như sau:

Đông Pha tiên sinh vô nhất tiền
Thập niên gia hỏa thiêu phàm duyên
Hoàng kim khả thành hà khả tắc
Chỉ hữu sương bính vô do huyền
Long Khâu cư sĩ diệc khả liên
Đàm Không thuyết Hữu dạ bất miên
Hốt văn sư tử Hà đông hống
Trụ trượng lạc thủ tâm mang nhiên

東坡先生無一錢
十年家火燒凡緣
黃金可成河可塞
龍丘居士亦可憐
談空說有夜不眠
忽聞 獅子河東吼
拄杖落手心忙然

Đông Pha tiên sinh không một tiền
Mười năm đèn lửa cũng chẳng nên.
Hoàng kim làm được, sông lấp được;
Chỉ có tóc sương không chịu đen.
Long Khâu cư sĩ cũng vô duyên.
Bàn Không bàn Có thức thâu đêm.
Bỗng nghe sư tử Hà đông rống;
Hốt hoảng tâm thần rơi gậy thiền.

Thực ra tiếng rống của sư tử là truyện tích của Phật giáo và Thiền tông. Có ý nghĩa là lời gọi sự tỉnh thức (giác ngộ). Tô Đông Pha dùng sự tích này để giễu Long Khâu cư sĩ (tu tại gia), nghe tiếng sư tử rống không những không giác ngộ mà còn làm rơi mất cây gậy thiền. Ông cũng tự giễu mình vì khi ở Hoàng châu giữ chức quan điều tiết nước, và có công khai thông Hồ Tây, thế nhưng mất hàng chục năm luyện đan (thuốc trường sinh) không những không thành công mà ngay cả mái tóc cũng bạc phơ.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét