Nhìn Ra Bốn Phương

Thứ Sáu, 22 tháng 4, 2022

NHỮNG MẢNH ĐỜI - Đỗ Bình


Hồi chuông của ngôi giáo đường trong khu phố cổ vang lên thánh thót, tiếng ngân hòa theo gió nhập vào cây cỏ rồi loãng dần trong không gian, nhưng dư âm vẫn đọng lại trong hồn người một chút cảm giác lâng lâng như thức tĩnh hồn ai đang chìm đắm trong mê say. Cạnh khu phố cổ trầm mặc là một thành phố mới được xây dựng những năm gần đây, thành phố rất sinh động tấp nập đông nguời qua lại dọc theo những hành làng. Hơn trăm những cửa hiệu, nhà hàng, quán cà phê sang trọng… với những bảng hiệu màu sắc lộng lẫy rực rỡ ánh điện. Cergy hôm nay được mệnh danh là thành phố đại học vì nhiều viện đại học, trường lớn danh tiếng của Pháp đều tập truug về đây. Tôi về thành phố nầy đã lâu, ngay từ lúc người ta mới khởi công xây cất. Căn nhà tôi nằm ven rừng, cạnh con sông L'Oise mà dòng nước chảy lặng lờ vắt ngang khu phố cổ, nay đã biến thành nơi bến cảng của du thuyền. 

<!>

Ở đây, ngày tháng qua rất nhanh, tôi đã cảm nhận được sự mầu nhiệm của thiên nhiên với bốn mùa thay đổi, khi hoa xuân vừa chớm nụ, khách yêu hoa chưa kịp thưởng lãm đã thấy hạ sang. Nắng hồng mới ấm ngọn lá thì gió thu chợt đến mang những chiếc lá vàng đi và trên cành chỉ còn lại những chùm tuyết mùa đông. Thời gian quả vô tình như chiếc bóng lặng lẽ trôi. Tôi đã thấm trọn nỗi buồn trong xương tủy của kẻ xa xứ, và thông cảm cho những tâm hồn nghệ sĩ, vì chỉ có họ mới cảm nhận được cái bóng của thời gian chắp cánh. Họ đã sống và hòa với nhịp thở của thời gian nên nắm bắt được quá khứ, và giữ cho dòng thời gian không bị đứt đoạn, tan loãng. Họ đã minh họa nó qua áng văn, vần thơ, điệu nhạc để hoài niệm một thời xa khuất….Đôi khi vượt trước cả thời đại để vọng lên tâm khúc bằng thứ ngôn ngữ riêng biệt mà người đương thời còn ngỡ ngàng, chưa hòa điệu!

Thưở ấy nhà cửa còn rải rác, chung quanh là những cánh rừng xanh, con đường trải đá xanh dẫn vào phố đã mòn và ngả màu bạc, hai bên là những căn nhà xây theo lối kiến trúc cổ, cửa sổ nhà nào cũng trồng hoa hồng trông rất đẹp.  Ngôi giáo đưòng cổ kính có từ thế kỷ 12 nằm ngay trung tâm quảng trường phố chính, gác chuông được kiến trúc theo thời trung cổ Roman, nhưng tháp nhà thờ cao nhọn và trong nhà thờ thiết kế nhiều cửa kính màu theo lối Gô tích trông rất đẹp và hùng vĩ. Ngày xưa dân cư ngụ ở đây rất ít, do đó chẳng cần phải mở mang thêm đường sá vì họ thường đi bộ, đôi khi vào những ngày hội lễ mới dùng xe ngựa và hơn nữa người ta muốn giữ những di tích cũ. Dọc con đường chính là những cửa hiệu, quán rượu, quán rất đông người, ngoài những ghế ngồi bày biện ở trong, ghế bàn còn được bày trước sân dưới gốc cây Trắc cổ thụ.  Ở Pháp, gu uống rượu tùy theo từng vùng, miền, người Pháp thường thích đến các quán rượu ngồi thưởng thức ly rượu đỏ, ngồi hàng giờ nhâm nhi tách café, ly bia đọc báo, hay tán chuyện gẫu. Nay mảnh đất ấy thay đổi, đã là phố mới, khu duới dành cho nhà ga, xe điện ngầm, xe buýt và xe hơi; tầng trên là thành phố nổi dành cho khách bộ hành. Nếu ai không phải là ngưười địa phương lâu năm khó mà biết được những dấu vết hoang sơ đầy thơ mộng ban đầu. Dọc theo con lộ về Paris là những cánh đồng vàng rực hoa Hướng Dương như tấm thảm bạt ngàn, thỉnh thoảng có những đồi cỏ dại. Màu hoa Forsythia vàng rực rỡ chen lẫn với những nụ đao lấm tấm hồng, trông như một bức tranh ấn tuợng.

Cạnh Cergy -Pontoise là thành phố Auvers Sur Oise. Lần theo dấu vết xưa qua những phiến đá tường đã phủ màu thời gian, chiều xuống ánh nắng dần phai nhìn con phố cổ bên dòng sông Oise trầm mặc hơn. Con đường chính, ngay trước quán trọ Ravoux, trạm dừng chân chót, hai tháng cuối đời của nhà danh họa Van Gogh trên căn gác xép chạm mái. Từ khu nhà ga cũ đến ngôi giáo đường cổ đường lên dốc khá quanh co, tìm đến ngôi nhà thờ nơi bìa làng Van Gogh đã dừng chân nơi đây và họa bức tranh mặt ngoài hậu cung nhà thờ diễn tả một kiến trúc không theo phép phối cảnh nhưng bằng những đường cong quẹo. Từ ngôi nhà thờ theo con đường làng ra khỏi vòm cây phong là cánh đồng mênh mông hiu quạnh, nơi an nghỉ của danh họa Van Gogh và ngôi mộ bên cạnh là người em trai Théodore. Trong hoang vắng,  hai ngôi mộ quá đơn sơ của họa sĩ nghèo mộ chỉ lấp mà không xây, bia được cuốn bằng dây thừng! Đất Trời cũng  cảm động xót xa cho người  họa sĩ tài hoa nên kết những loài hoa cỏ đầy màu sắc rực rỡ thành tấm thảm phủ lên ngôi mộ.
 
Ngược lên miền Normandie không xa là ngồi làng Giverny nơi có viện bảo tàng của danh họa Claude Monet cha đẻ trường phái ấn tượng. Con đường từ Cergy đến làng Giverny chạy xuyên qua vùng Vexin français, bình nguyên phía Tây Bắc Paris, vùng đất phì nhiêu phủ màu xanh của đồng cỏ, ruộng lúa mì, cụm rừng... Sông ngòi chảy uốn khúc, xoáy mòn lớp đất vôi tạo nên một địa hình mấp mô gồm đầm lầy, thung lũng và đồi gò nối tiếp nhau. Kỳ vĩ hơn tất cả chính là dòng sông Seine, cửa ngõ thông thương từ Paris ra biển cả. Dòng sông chảy ngoằn ngoèo soi bóng hàng cây dương liểu, sườn dốc cheo leo, những tòa dinh thự lâu đài...Từ xa xưa nơi đây đã in dấu chân từng đoàn quân La Mã. Những phế tích do tàn phá của chiến tranh suốt nhiều thế kỷ, chứng tỏ từ lâu dân cư đã sống gắn bó với mảnh đất và dòng sông.- Do cảnh sắc độc đáo cùng với môi trường sinh vật phong phú, một khu bảo tồn thiên nhiên được thành lập tại vùng này vào năm 1995 (Parc naturel régional du Vexin français). Thỉnh thoảng dọc bên vệ đường hay giữa cánh đồng ta còn gặp những cây thập giá bằng đá vôi chạm trổ, bốn nhánh hình tam giác, người xưa dùng làm cột mốc ranh giới giữa các xứ đạo, các đất đai sở hữu. Ngày nay di sản nông thôn này trở thành biểu tượng cho vùng Vexin français. Làng Giverny nằm dọc theo sườn phía nam dãy đồi, bên cạnh hợp lưu nơi sông Epte đổ vào sông Seine.

Công ty tôi làm việc nằm trong khu thương mại, một trong những khu sầm uất nhất Paris. Vì cư ngụ ở ngoại ô nên vào Paris tôi phải mất hơn nửa giờ, không kể thời gian đợi tàu lửa rất lâu. Tôi lại có thói quen thích ngồi quán cà phê ngắm thiên hạ qua lại, sau đó mới đến sở. Cái thói quen từ thưở còn đi học ở Sai Gon vào những ngày cuối tuần thường đến nhà hàng Givral nằm trên đại lộ Tự Do Lê Lợi để nghe các văn nghệ sĩ, nhà báo tán gẫu và bàn chuyện thời sự, nhà hàng La Pagode nằm trên Tự Do Lê Thánh Tôn hay nhà hàng Brodard ngồi cùng bạn bè uống café hay ăn kem ngắm khách bộ hành qua lại. Tưởng qua đây cái thú xưa sẽ chẳng còn vì thời gian eo hẹp nhưng Paris là thiên đường của các quán cà phê, quán rượu, bất cứ con đường nào trong Paris cứ đi mấy chục bước cũng có quán cà phê. những thế kỷ trước và đến nay một số quán vẫn còn là nơi hội tụ những văn nghệ sĩ, triết gia đến gặp nhau chuyện trò, diễn thuyết về những nét đẹp và chiều sâu ý tưởng trong văn chương. Quán Café De Flore năm trên đại lộ Saint Germain uận 6 Paris ngày trước là nơi quy tụ những danh nhân của Pháp đến gặp gỡ nhau. Những khuôn mặt vang bóng một thời của Pháp đã từng đến: Maurice Barrès: Nhà văn, nhà chính trị, Charles Maurras: hà thơ, nhà chính trị, Hàn lâm viện, Remy de Gourmont: nhà văn, Charles Marie Georges (Joris - Kart Huysmans): Nhà văn, nhà phê bình nghệ thuật, Eugène Lonesco: nhà văn, Emil Cioran: triết gia, nhà văn, Benjamin Fondane: nhà văn, Georges Abert Maurice: triết gia, nhà văn, nhà thơ,  Simone de Beauvoir: triết gia, nhà văn, Guillaume Apolinaire: nhà thơ, nhà văn, nhà phê bình nghệ thuật, Louis Aragon: nhà thơ, nhà văn , nhà báo, Andre Breton: nhà thơ, nhà văn, Léon - Paul Fargue: nhà thơ, nhà văn, Jacques Bainville: nhà báo, nhà sử học, Pablo Ruiz Picasso: nhà danh họa, Ossip Zadkine: nhà điêu khắc, ..vv…

Ở Paris ngoài những hội trườnglớn sang trọng như Le Palais des Congrès de Paris, Maubert - Mutualité, FIAP…, còn có những nhà hàng Việt Nam nằm trong khu Á Châu thuộc quận 13 là nơi thường hay tổ chức diễn thuyết những đề tài văn học, hoặc là điểm hẹn gặp gỡ của những văn nghệ sĩ nổi tiếng ở Paris và khắp nơi đến. Những văn nghệ sĩ thường đến những quán cà phê nhà hàng Paris trong đó có họa sĩ Vĩnh Ấn, ông thuộc hoàng phái và qua Pháp năm 1951 lúc còn trẻ vừa đi học vừa đi làm. Họa sĩ Vĩnh Ấn thường gặp bằng hữu văn nghệ sĩ ở những quán cà phê Paris, lần nào ông cũng đọc thơ của Paul Valéry(1871- 1945),  Jacques Prévert(1900- 1977) Appollinaire Guillaum e (1880-1918)…,  hoặc nói chuyện văn chương Pháp.Ông vẽ  tranh theo trường phái siêu thực và đã nhiều lần  tranh của ông được triển lãm quốc tế và được giải thưởng huy chương vàng. Trong một dịp gặp gỡ các họa sĩ và  bằng hữu, có họa sĩ hỏi về ý tưởng của một bức tranh. Họa sĩ Vĩnh Ấn không ngước mặt về phía người hỏi, mắt vẫn chăm chú vào tấm tranh tiếp tục đưa bức tranh khác cho các bạn xem, và trả lời:
«Xem tranh thì xem bằng mắt và cảm nhận bằng tâm hồn, đừng nghe bằng tai».
Họa sĩ Lê Tài Điểm là một trong những người nghệ sĩ đặc biệt ở Paris, râu tóc ông để dài trông rất bụi đời. Ông qua Pháp du học giữa thập niên 60 của thế kỷ trước. Ông dạy học, vẽ tranh sơn dầu và điêu khắc châấ liệu thạch cao. Tranh của ông thuộc trường phái siêu thực và đã nhiều lần triển lãm tại Paris. Ngoài giơ dạy học, ông đến quán cà phê ngồi uống rượu đỏ suy tưởng cuộc đời đến khuya mới về nhà.
Nhà báo Trần Tam Tiệp có bút hiệu Đạo Cù, trước năm 1975 ông làm chủ bút  một tờ báo quân đội. Ông qua Pháp giữa thập niên 60 và là người sau năm 1975  rất tích  cực, bỏ tiền  giúp đỡ văn nghệ sĩ ở trong nước. Ông cũng là một trong những người sáng lập ra Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại cùng Nữ sĩ Minh Đức Hoài Trinh, nhà thơ Nguyên Sa, nhà báo Tô Vũ và LS Trần Thanh Hiệp, nhưng ông với nữ sĩ Minh Đức Hoài Trinh mới là những thành viên tích cực. Ông thích ra quán uống rượu đỏ và gặp gỡ bằng hữu.

Nhạc sĩ Lê Trạch Lựu tác giả ca khúc tiền chiến Em Tôi. Ông qua Pháp du học vào thập niên 50 và là một ký giả của nhiều tờ báo Pháp. Ông thích ngồi quán uống rượu đỏ và nói chuyện đời.
Nhà báo Trần Trung Quân trước năm 1975 là một soạn giả Cải lương, sau năm 1975 ông là người viết những tuồng cải luơng đầu tiên ở hải ngoại. Sau đó ông chuyển sang viết văn và làm báo chuyên nghiệp. Ông dùng quán cà phê làm nơi ngồi viết bài, và tờ báo của ông vẫn còn lưu hành mãi đến hôm nay.
Nhà báo Phạm Hữu tên thật là Nguyễn Hữu Ích, trước năm 1975 là giáo sư dạy Triết ở Sài Gòn. Từ ngày qua Paris ông viết báo, ông làm đủ thứ nghề để nuôi tờ báo nhưng vì báo của ông thường vạch những thói xấu của cuộc đời nên ông nghèo vì làm báo. Ông đến quán cà phê uống từng giọt đắng để ngẫm cuộc đời.
Thú ngồi quán rượu, uống cà phê là tính đặc trưng của ngưòi Pháp. Vào những ngày nắng đẹp dù tiết trời lạnh người ta cũng bày những ghế bàn ra trước vỉa hè, và ngồi ở ngoài trời, mặc dầu  giá mắc hơn ngồi ở bên trong quán. Những ngày mùa đông quán cà phê càng đông khách hơn vì khách vào quán tìm ly rượu ấm lòng. Ở những khu du lịch những quán ngoài vỉa hè vẫn chật khách ngồi, dưới chân họ là lò sưởi, và khách còn được nhân viên phục vụ quán trao cho mỗi người một cái mền nhỏ vừa sưởi vừa đắp để chống lạnh, nhưng cũng rất ít người cần đến tấm mền, ly rượu mạnh, tách cà phê đã giúp cho họ bớt lạnh để ngắm đường phố và khách bộ hành qua lại, đó là thú ngồi cà phê Paris.
Để có cái thú này, tôi phải lấy chuyến xe khởi hành đi Paris sớm hơn một chuyến. Cũng may giờ làm việc của sở tôi có trễ hơn những công sở hành chánh khác. Từ khi có tuyến xe điện ngầm nối liền khu tôi với Paris, khoảng cách và thời gian thu ngắn lại, cũng đỡ vất vả cho những nguời làm xa. Quanh khu tôi là vùng kỹ nghệ và khu đại học. Chẳng thế mà tuyến đường xe điện ngầm từ Paris vào tôi là tuyến rất đông người, nhất là những giờ cao điểm sáng hay chiều khó mà tìm được chỗ ngồi, nhiều khi hành khách phải đứng từ lúc lên cho đến khi xuống. Người ta đã quá quen cảnh chen lấn nhau như cá hộp, họ chỉ mong có chỗ đứng trong xe để được đúng giờ.

Mỗi sáng cũng vào giờ thường lệ tôi đợi xe đi Paris và ngồi toa hạng nhì, đây là một phần của toa hạng nhất nhường lại dành cho những người không hút thuốc. Chỉ có những người đi quen trong giờ cao điểm mới biết mà chọn toa nầy; nếu l à những người ít đi thì có thể lầm là toa hạng nhất. Dĩ nhiên chẳng ai muốn lầm để bị phạt oan nên toa luôn vắng khách. Cũng nhờ hơi hướm của toa hạng nhất mà nó ít ồn ào, do đó, những người muốn yên tĩnh hay muốn đọc sách đều rất thích toa nầy. Những bộ mặt khách rong toa gặp nhau đã nhiều năm trở nên quen thuộc, họ ăn mặc rầt lịch sự, đa số là dân làm việc văn phòng. Họ biết nhau, chào nhau nhưng ít nói chuyện. Không khí trong toa tuy có "lạnh"vì cái lịch sự khép kín giữ khoảng cách của giới trí thức, thế mà lại hay!  Ở trong toa thu hẹp ấy, dù có chung không gian nhưng vẫn có cõi riêng! Tôi bước lên tàu, trong toa vẫn những khuôn mặt quen ấy đang chăm chú đọc sách, tôi biến nhanh vào chỗ ngồi cũ và lấy sách ra đọc tiếp đoạn văn của tác giả người Pháp nói về tấm lòng người mẹ. Dù bất cứ giống người nào trên trái đất thì tình mẫu tử đều diệu vợi và cao đẹp như nhau. Có nhiều đoạn làm tôi bùi ngùi, bủn rủn! Tay cầm sách mà đầu miên man suy tưởng. Những khúc phim dĩ vãng ráp nối chẳng đầu đuôi cứ chợp chờn. Tôi nhớ những nắn tháng thời còn nhỏ bên mái ấm gia đình ở Hà Nội thật êm đềm và hạnh phúc, thưở đó những người Hà Nội thuộc thế hệ cha mẹ tôi trở về trước Hà Thành mệnh danh là đất thanh lịch. Ngày đó tiếng súng chống thực dân chỉ nổ trong vùng xa xăm bưng biền chiến khu, dân Hà Nội chưa ly tán. Tôi chợt nhớ đến Tết Mậu Thân chiến tranh đổ ập vào thành phố Huế, Sai Gon,…khói lửa đạn bom giăng mù mịt. Nhà cháy, tường xiêu, xác người nằm phơi trên hè phố la liệt, có nhiều xác còn quá trẻ! Tôi tự hỏi:"Những người này còn trẻ hơn tôi làm sao hiểu được thấu đáo những từ cao xa, hoa mỹ «cách mạng và giải phóng'?!». Tôi ghét chiến tranh và oán những người khởi xướng gieo thù hận, nhưng chẳng biết nhắm vào ai! Tôi chỉ biết vì họ, những người đã nhân danh cách mạng, giải phóng mà nhà tôi bị cháy, bạn bè tôi chết, sản nghiệp của mẹ tôi chắt chiu trong kinh doanh từ khi bỏ xứ Bắc vào Nam bỗng một ngày tiêu tan!
Ngày tôi bị tổng động viên vào lính cũng là ngày xác của thằng bạn thân học cùng lớp với tôi ở đại học ngày trước đã từ chiến trường mới đưa về, mẹ nó chết ngất trước cổ quan tài con! Còn mẹ tôi cũng tiễn con lên đường đầy nước mắt! Tôi vẫn ghi khắc nét lo âu tiều tụy trên khuôn mặt mẹ, nhất là đôi mắt buồn. Cả một đời bà ước mơ và chờ đợi nhưng chẳng bao giờ toại nguyện. "Mẹ tôi lùc còn chiến tranh hằng cầu nguyện quê hương sớm thanh bình để con mình khỏi chết trận. Sau khi hết chiến tranh lại cầu nguyện con thoát lao tù.Và giờ đây cầu nguyện quê hương được tự do dân chủ". Nghĩ đến đây, dòng lệ trong tôi tự trào. Suốt đời tôi làm cho mẹ buồn!".
Khi đoàn tàu chui vào hầm, đèn trong toa bỗng sáng hơn. Tôi cất cuốn sách trong cặp, liếc sang những người phía hàng ghế bên, tôi bỗng thấy bộ mặt của họ trắng nhợt, khúc đường cong ánh đèn trong xe lung linh, trông mặt họ càng tái hơn. Tôi chợt nghĩ: "Đâu phải chỉ có người chết mới có độc qưyền ngự trị trong lòng đất mà những người sồng cũng đang di chuyển trong cõi chết". Đến trạm N.P. vắng hoe, tàu dừng lại vài phút. Có ít người khách từ các toa khác xuống. Tàu gần chuyển bánh bỗng có người thiếu phụ bế trong tay đứa con nhỏ vội vã bước lên tàu. Bà ta hơi ngập ngừng do dự, trong tư thế nửa muốn kiếm chỗ, nửa muốn đổi toa khác. Cuối cùng bà ấy tiến về hàng ghế tôi vì còn chỗ trống đối diện, có lẽ chỉ có tôi là người ngoại quốc duy nhất trong toa nầy. Tôi nép vao phía trong, nhường khoảng trống chính diện cho mẹ con bà. Đứa bé ré lên khóc gây sự chú ý cho mọi người. Tôi có dịp quan sát cháu bé và bà kỹ hơn. Thiếu phụ trước mặt tôi là người đàn bà trẻ đẹp, mặt sáng như trăng nhưng do bụi đường chấm phá làm ủ rủ nét thanh tao. Nàng còn trẻ lắm, cái tuổi còn cắp sách đến trường, thế mà đời lại phải xiêu bạt từ phương trời xa xăm miền Đông Âu loạn lạc! Chủ thuyết Cọng Sản đã làm băng hoại xứ sở nàng! Cũng là người Tây phương có một nền văn minh lâu đời, đất đai, quặng mỏ lại trù phú, nhưng xứ sở bị tàn phá bỡi chiến tranh nên nghèo đói, do đó mới trôi giạt sang Paris, một phương trời xa để tha phương cầu thực!

Paris, thủ đơ ánh sáng, cái nôi nhân quyền và là một trong những kho tàng văn hóa của nhân loại. Với nhũng công trình kiến trúc cổ như lâu đài thành quách, giáo đường ..vv.. Nhìn toàn cảnh Paris như một bức tranh ấn tượng đầy màu sắc, và khi về đêm lcàng lộng lẫy, rực rỡ hơn. Đứng từ xa đã trông thấy ngôi Thánh đường Sacré Cœoeur trên đồài Montmatre, nổi bật giữa nền trời xanh trong, ngôi đền ngoài sự linh hiển còn là một công trình nghệ thuật. Chỉ nhìn vào màu khối đá trắng toát ta cũng cảm thấy sự uy nghiêm hùng vĩ của ngôi thánh đường. Nằm bên sườn đồi là khu phố lộng sắc màu trưng bày những bức tranh thuộc nhiều trường phái. Đây là những điểm gặp gỡ của những tâm hồn nghệ sĩ và du khách cùng hướng về cái đẹp. Dọc theo những con đường hẹp đan nhau, đó, đây, những họa sĩ đang miệt mài trong cảm hứng sáng tạo. Cách đó không xa, vài nhóm nhạc sĩ đang hòa nhạc, họ thả hồn trong những bản giao hưởng mà từ đằng xa đã nghe âm thanh réo rắc.

Từ đồi Montmartre xuống khu phố sang trọng Champs Elysées, đại lộ được mệnh danh đẹp nhất thế giới, rồi ngang nhà thờ Notre Dame để đến vườn Luxembuorg qua khu phố Latin vào những con đường cổ trải đá, những ngôi nhà xưa mái tháp, mặt tiền được điêu khắc trạm trổ như trong những câu chuyện thần thoại cổ tích. Mạch sống của Paris là những con đường ngoằn ngoèo, nhỏ hẹp, chằng chịt san sát nhà hàng, cửa hiệu, quán café, nơi ấy lúc nào cũng đông khách và vỉa hè luôn rộn rã bước chân người. Nhưng Paris quyến rủ hơn khi bước vào thu, những con đường ngập lá vàng, hàng cây dọc bên bờ sông Seine vi vu trong gió. Chiếc cầu bắc ngang sông soi mình trong bóng nước. Dòng sông thơ mộng ấy là nguồn cảm hứng của biết bao nghệ sĩ, họ dệt cho đời những thiên tình sử còn ghi lại trong văn học nghệ thuật.

Nếu Paris thơ mộng, đẹp như bức tranh cổ cho những tâm hồn thơ mộng, thì nơi ấy vẫn có những mảnh đời vụn vỡ! Giới thượng lưu sống trong nhung lụa, tháp ngà của thời đại hoàng kim mới, còn giới bụi đời sống mờ nhạt trong cõi trần ai, xa rời thế giới cực kỳ vật chất, lắt lay ở các vỉa hè và hầm Métro. Trong giới nầy không phải ai cũng là hành khất, có đủ hạng người, từ những người truớc kia từng làm chủ một công ty, giám đốc một xí nghiệp hay thuộc giới trí thức khoa bảng đến những kẻ sa cơ. Do nhiều hoàn cảnh khác nhau đã xô đẩy họ phiêu bạt giang hồ, không nhà không cửa, sống lắt lay dưới các hầm Métro hay góc kẹt cầu. Đa số rơi vào cuộc sống buông thả bắt nguồn từ sự tan vỡ hạnh phúc gia đình! Số ít do cái thú thích kiếp sống lãng tử. Có một qũy xã hội để trợ cấp cho những người nầy như chỗ ăn ở, nhất là, ở một số tụ điểm trong Paris mỗi tối có những xe chở đầy thực phẩm nấu chín đến phân phát cho từng người. Nhưng nạn ăn xin lan tràn ở Paris ngày càng nhiều, khởi đi từ họa Cộng Sản Đông Âu đã xô đẩy bao tâm hồn vào nơi gió bụi!

Có lần tôi và người bạn là TS Nguyễn Tấn Phước, anh  làm việc ở một công ty gần chỗ tôi làm. Hôm đó anh rủ  tôi đến Opéra ngồi uống café, lúc chúng tôi gần về có một người vô gia cư đến xin tiền. Bạn tôi trả lời:
«Chúng tôi chưa trả tiền cà phê nên rất tiếc không có tiền lẻ!».
 Người vô gia cư nói: « Các ông có phiếu ăn nhà hàng cho tôi xin một tấm?»
,Nhìn dáng tiều tụy của ông tôi thấy động lòng nên mở cặp lấy nguyên tập phiếu ăn nhà hàng mà tôi vừa được công ty cấp cho hồi chiều đem ra biếu ông. Tôi nghĩ với tập phiếu này ông sẽ ăn được cả tháng.
 Người bạn tôi nói: 
«Chiến tranh đã làm cho nhiều gia đình ly tán và nghèo đói. Anh và nhà văn An Khê khởi xướng giúp cho anh em thương phế binh VNCH là điều tốt. Việc từ thiện là việc nghĩa nên có nhiều hội tư nhân của người Pháp, và các đoàn thể tôn giáo đứng ra giúp đỡ những người cơ nhỡ này. Ở đây rất đông người vô gia cư tụ về nên tôi thường giữ một số tiền lẻ để chia cho những người này, nhưng mỗi lần chỉ ítiền người thôi!».
Rời quán cà phê tôi và người bạn xuống hầm métro để trở về nhà, dưới hầm chúng tôi bỗng gặp lại người vô gia cư vừa mới đó, đang đứng xé từng tấm phiếu ăn chia cho những người vô gia cư khác. Tôi trố mắt nhìn và xúc động, cảm thấy tấm lòng của mình qúa nhỏ bé, tôi chỉ dám chia tình thương cho một người, còn người vô gia cư kia không giữ tập phiếu ăn cho riêng mình mà lại đem chia cho những người đồng cảnh. Đó mới là tình yêu đồng loại.  

Tiếng khóc của đứa bé ré lên phá tan không khí tĩnh mịch trong toa gây sự chú ý của bao cặp mắt. Bà mẹ trẻ cố dỗ nhưng cháu bé lại càng khóc lớn. Tôi cảm thấy bối rối vì không giúp được gì. Một bà khách lớn tuổi ngồi hàng ghế bên lên tiếng: "Cháu sao khóc thế?". Bà nói tiếp: "Thời tiết mấy hôm nay bỗng trở lạnh, nên mặc quần áo thật ấm cho cháu!".

Người mẹ trẻ lúng túng quay sang trả lời:"Cám ơn Bà cháu mặc rất ấm. Cháu khóc chắc đã đói! ".

-"Cháu có ăn được chocolat?" ,một bà khách khác hỏi.

-Cảm ơn Bà, cháu còn quá bé, chưa dùng chocolat được! ". Bà mẹ trẻ vừa quay lại trả lời vừa cởi áo khoác, rồi vạch áo trong để lộ một bên vú trắng ngần, căng đầy sữa trước bao cặp măt mở lớn tròn xoe. Quả thật họ ngạc nhiên là phải, họ ngạc nhiên không phải nhìn thấy cái ngực trần, vì đối với người Âu Mỹ, nhất là phụ nữ Pháp, họ thích khoe thân hình có bộ ngực đẹp vào những buổi hè ở bãi biển. Còn trường hợp nầy, giữa thủ đô Paris đầy tráng lệ lại có người phụ nữ trẻ đẹp vạch vú cho con bú trước công chúng, thay vì nó chỉ xuất hiện ở nhà quê hay nhà riêng. Hình ảnh người mẹ âu yếm con thật đẹp, đầy cảm động như bức tranh sơn dầu "Tình mẫu tử" của danh họa người Mỹ Mary Cassatt cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, thuộc trường phái ấn tượng.

Đứa bé thấy vú mẹ chúi vào bú ngấu nghiến, tôi cảm nhận vài cặp mắt theo dõi đều loáng ánh reo vui như chia niềm hạnh phúc.. Một trẻ thơ trong vòng tay mẹ, được bú mẹ vừa hưởng dòng dinh dưỡng và thêm tình cảm thân thuộc đó là hạnh phúc. Riêng tôi cũng cảm thấy bồi hồi nhìn cháu bé đang hưởng một hạnh phúc tuyệt vời, đó là tình mẹ. Người xưa đã nói :«Nếu hỏi điều kỳ diệu nhất trong thế giới này là gì, thì đó là trái tim của mẹ ». Mẹ là tiếng gọi đầu đời của trẻ thơ, là dòng sữa ngọt nuôi nấng con thơ lúc chào đời dạy con bắt đầu học nói, hát ru con ngủ, chăm sóc lúc con thức và tập cho con những bước đi đầu tiên. Người xưa còn nói: «Thượng Đế không thể có mặt ở khắp mọi nơi nên ngài đã sinh ra các bà mẹ để thay mặt ngài chăm sóc đàn con». Tình mẹ diệu vợi luôn luôn nồng ấm hòa nhập với mạch sống hạnh phúc đau khổ của con. Lòng mẹ  hân hoan sung sướng khi thấy con khôn lớn, thành đạt trong xã hội, và sãn sàng chia sẻ những muộn phiền lo âu khi con gặp những thất bại trên đường đời. Trong lịch sử Việt Nam những gương hy sinh của mẹ cho con trong thời loạn và thời bình những chuyện đó nhiều vô kể. Tình mẹ được thể hiện trong những tác phẩm văn học và nghệ thuật qua thi văn, âm nhạc, điêu khắc, hội họa, điện ảnh, sân khấu... Người nghệ sĩ dù đã đem tài năng,  tim óc để diễn tả về khối tình tuyệt vời đó nhưng vẫn không tả hết về tấm lòng cao cả bao la sâu thẳm của người mẹ! Tôi lại miên man hồi tưởng thời thơ ấu.

Xe ngừng trạm sau, ở những toa khác có rất nhiều hành khách lên xuống, nhưng toa tôi ngồi chỉ có một người khách lên tàu, đó là một bé trai, tuổi độ lên tám, mái tóc vàng dợn sóng dài lỏa xỏa trên gương mặt hốc hác, xanh xao, trông càng lem luốc! Em mặc ở trong một chiếc áo sơ mi, ngoài là chiếc len cũ màu xanh rêu. Chiếc quần vải xám đậm đã sờn gối. Nếu được chăm sóc kỹ trông em chắc sẽ khác, và khuôn mặt đầy nét thông minh sẽ kháu khỉnh hơn. Thương thay chiến tranh đã cướp đi tương lai, hạnh phúc và tuổi thơ ngây của em!

Tàu chưa kịp đóng cửa khởi hành thì em đã nghêu ngao hát một bài ca của xứ sở. Tôi không hiểu gì về lời ca, nhưng biết chắc em chưa biết nhiều về âm nhạc. Em cố hát to cốt gây chú ý hành khách để xin tiền. Tiếng hát nghe não lòng, có lẽ em đã khóc trong tiếng hát cho thân phận làm người! Nhưng lời ca đó đã loãng trong sự hững hờ, vì hành khách ngày nào cũng nghe nên đã quá nhàm! Hơn nữa trên các tuyến đường xe điện ngầm của Paris đầy rẫy những nghệ sĩ hát dạo, kẻ bụi đời và hành khất. Mặc dù hát dạo nhưng những nghệ sĩ nầy chơi nhạc rất điêu luyện, họ trình tấu rất nhuyễn những nhạc phẩm thời trang đang thịnh hành, và nhiều bài giao hưởng. Sau khi chơi xong một hay hai bản nhạc, họ thường được hành khách tặng cho ít tiền lẻ. Thỉnh thoảng cũng có những nghệ sĩ chuyên nghiệp trình bày những buổi hòa nhạc giao hưởng cho khách bộ hành thưởng lãm.

Em bé hát xong, cầm chiếc lon đi dọc theo hai dãûy ghế xin tiền. Hành khách vẫn mải mê trên trang sách, hình như họ tảng lờ tiếng kêu thống thiết của em! Riêng tôi cũng muốn tặng em ít tiền nhưng bản tánh Á Đông khiến tôi do dự! Sự tế nhị không cho phép tôi móc tiền ra bố thí cho kẻ khác, khi mà mẹ con người đối diện tôi cũng thuộc diện cậu bé nhưng đang làm một hành khách?! Tôi không thể xúc phạm đến tự ái của bà, dù bà chẳng để ý đến những suy nghĩ của tôi. Để tránh bối rối, tôi giả đò nhắm mắt ngủ khi em bé đến hàng ghế. Tôi cảm thấy thèn thẹn khi khước từ lời van xin của em bé. Tôi bỗng lạnh toát vì dĩ vãng lại chợt về: "Tôi đã từng bị bỏ đói trong tù, đã từng ăn củ chuối, uống nước lã cầm hơi hay nhai những loài cỏ dại để đỡ đói….Và cũng từng thèm những hạt cơm, mẩu đường, miếng tóp mỡ…Tôi đã chịu bao nhiêu mùa giá rét nơi rừng sâu núi thẳm trong manh áo tả tơi! Nghĩ đến mà rùng mình về những ngày khốn khổ ấy!".

Tiếng loảng xoảng những đồng bạc cắc rơi không đều nhau trong lon thiếc nghe ròn rã như pha lê vỡ. Tôi mở bừng mắt thấy người thiếu phụ trẻ đang nhoẻn miệng cười, còn em bé cúi đầu, mồm nói tiếng cảm ơn. Tôi liếc sang những hàng ghế bên thấy mọi cặp mắt đều thò lõ đổ về phía bà. Họ quay lại nhìn nhau, không nói gì nhưng chắc hẳn trong tâm tư mỗi người đều có chút bâng khuâng. Họ và tôi không thể ngờ tiếng van xin của em bé lại được một người hành khất khác chia xẻ.

Ôi! Quả thật chỉ có những kẻ khốn cùng mới thông cảm và thương nhau! Lá rách đùm lá nát!

Đến trạm kế tiếp, người thiếu phụ ẵm con xuống, mọi người đều nhìn theo, dáng mẹ con bà khuất sau phía cầu thang. Em bé hát rong đổi sang toa khác tiếp tục hát bản nhạc quen thuộc. Tôi bước ra khỏi hầm métro đi lang thang vài đường phố mà đầu vẫn in hình ảnh khốn khó của những người tị nạn ấy, rồi chợt thở dài! Làm sao dứt bỏ đưọc mọi phiền muộn trong cõi nhân gian, vì ngay nừ thuở sơ khai con người đã biết chiến tranh, thù hận và tình yêu? PCon người là thực thể của xã hội nên những điều tốt xấu, thiện ác luôn sẵn có trong mỗi con người, và chỉ có tình yêu mới thật là cao qúy. Sự chia sẻ tình thương giữa những người nghèo với nhau đó là tình yêu, cho dù chiến tranh và thù hận đã tạo nên nhiều đau thương khốn khổ, nhưng cuộc đời vẫn có những nét đẹp vì còn có rất nhiều người vẫn trân trọng tình yêu, đượm thắm tình nhân loại. Tôi đi hàng giờ trong miên man suy tưởng đến sở mới chợt nhớ mình đã bỏ quên thói quen ngồi café! 

Đỗ Bình 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét