Một nhà thơ lớn phái nữ trên văn đàn
VN vừa qua đời, để lại bao tiếc thương cho bạn bè thơ văn, cho đồng đạo. Ðấy là
nữ sĩ Vân Nương, khuê danh Trần Thị Vân Chung, pháp danh Tuệ Nguyệt, sinh ngày
01/01/1919 tại Thanh Hóa, mãn phần ngày 11/01/2015, tại Sarlat vùng Dordogne,
miền Nam nước Pháp, hưởng thọ 96 tuổi.
Bà là phu nhân Luật sư Lê Ngọc Chấn, (một chiến sĩ Cách mạng VNQÐD, từng là Bộ
trưởng Quốc phòng thời Ðệ nhất Cộng Hòa Miền Nam, từng bị tù ba năm thời chế độ
Ngô Ðình Diệm vì tham gia nhóm Caravelle, từng là Ðại sứ VNCH tại Anh quốc,
từng bị tù Cộng sản năm năm, được cho ra khỏi tù thì năm sau qua đời tại
Sài-Gòn). Chồng mất rồi, năm sau, Bà mới được Nhà nước
Cộng sản chấp thuận cho phép sang Pháp, đoàn tụ với gia đình người con ở
Sarlat.
Bà là hội viên của Thi đàn Quỳnh Dao, Hội Thơ phái nữ đầu tiên thành
lập năm 1962 tại Sài-Gòn, với cụ Cao Ngọc Anh (con quan đại thần Cao Xuân
Dục) làm niên trưởng kỳ I, quy tụ bao nhà thơ nữ trổi vượt
như Ðào Vân Khanh (mẹ nhạc sĩ Vũ Thành), rồi Mộng Tuyết, Tôn Nữ Hỷ
Khương, Uyển Hương, Vân Nương, Tuệ Nga,
Cao Mỵ Nhân,…, hầu hết đều theo Phật giáo*. Bà có cộng tác với đôi báo
chí người Việt hải ngoại, đặc biệt với Tam Cá nguyệt san Viên Giác ở Ðức. (Thơ của Vân Nương
cũng như thơ của chồng Bà (Lê Ngọc Chấn) không được mấy người biết (ngoài sốn
nhà thơ trong Thi Ðàn Quỳnh Dao) vì cả hai người không in ấn, không do nhà xuất
bản nào, chỉ thỉnh thoảng xuất hiện trên đôi tờ báo giấy. Người viết được Bà
gởi cho Thơ nên đã viết nhận xét Thơ của hai người và Bà nhân đó cho in tập ‘Nhớ
một người đi’ (năm 1996) chỉ để tặng bạn bè thân thiết thôi).
Thơ Vân Nương, theo tôi, tập trung
vào ba chủ đề chính : ‘Tình chồng vợ, tình Dân Nước và Tình Ðạo. Nơi
đây, xin nói về chủ đề thứ ba –Tình Ðạo- chủ đề mà không lắm
người nói đến nhiều như Vân Nương, như Tuệ Nga, Phù Vân (chủ bút tạp chí ViênGiác),
Nguyễn Hữu Nhật,.…
Nói đến Tình Ðạo nơi thơ Vân
Nương, ta nghĩ ngay đến tác phẩm ‘Con đường Lý Tưởng’ với 5000
câu Lục Bát, nhằm ‘thi hóa’ phẩm ‘Nhập Pháp giới’, một phẩm trong Kinh
Hoa Nghiêm, một bộ kinh thượng thừa của Phật giáo. Tác phẩm được hoàn thành
ở Sài-Gòn năm 1982 và được cơ sở Nguồn Sống, San José, Hoa Kỳ xuất bản năm
1990. Tác phẩm thơ viết theo thể thuật sự, dựa theo bản văn xuôi ‘Bồ Tát
Ðạo’ của cư sĩ Minh Ðức Vũ Phan tức Thanh Lương, thuật chuyện Thiện Tài
đồng tử kiên trì tìm thầy học đạo.
Qua tác phẩm, Vân Nương dẫn ta theo
bước chân Thiện Tài qua bao nhiêu tông phái Phật giáo và qua bao pháp môn của
nhà Phật từ ‘Niệm Phật, Quán tưởng, Vô ngại, Trì chú, Trì giới,..’ đến pháp
môn Duy Thức, Bát Nhã,..cùng phương thức thực hành Bồ Tát Ðạo. Tác
phẩm gồm 300 trang với gần 5000 câu Lục bát. Có lẽ chưa có một tác phẩm thơ VN
nào nói về giáo lý nhà Phật xuyên suốt qua các tông phái Phật giáo đại thừa như
tác phẩm nầy. Ðây là một đóng góp lớn của Vân Nương cho nền văn học Phật giáo,
cho thấy cái ‘tâm thành’ hay cái ‘Tình’ của Vân Nương đối với giáo lý nhà Phật,
đối với ‘con đường giải thoát’ của Ðức Thích Ca đã rao giảng cho thế gian từ
ngày Ngài đắc đạo đến nay.
Tôi không đi vào phân tích nội dung
vì nội dung đã nằm sẵn nơi phẩm ‘Nhập Pháp giới’ nơi quyển Kinh rồi. Ở
đây, Tôi chỉ nói về cái ‘Tình’ của
Vân Nương đối với Lẽ Ðạo thôi.
Trước tiên,
một tác phẩm thơ đồ sộ gồm 5000 câu, được hoàn thành chỉ trong 6 tháng (từ 15 tháng Giêng
đến 12 tháng 9 năm Nhâm Tuất, 1982) thì quả là một công
phu lớn, một trì chí, trì tâm, nếu không do một say mê –hay đam mê tột độ-,
chắc khó hoàn thành nổi.
Tiếp theo, tác phẩm không là một
phóng tác nên không thể sửa đổi, lược bỏ, thêm thắt nào theo ý mình được vì không thể đi ra ngoài cốt truyện và ý
tưởng nơi quyển Kinh. Tác phẩm chỉ ‘thi hóa’ nghĩa là chuyển thành thơ
một câu truyện nơi quyển Kinh, buộc tác giả phải tuyệt đối trung thành với sự
việc, với ý và lời trong nguyên tác. Ðây không là cách mượn lại câu truyện để
phóng tác theo một quan điểm nào đó của mình như trường hợp Nguyễn Du đã phóng
tác tiểu thuyết ‘Kim-Vân-Kiều truyện’ của Thanh Tâm tài nhân để viết nên ‘Ðoạn
Trường Tân Thanh’. Một tác phẩm không do sáng tạo cũng không cho phép mình sáng
tạo thì tác giả sẽ phải mất hết ‘tự do’ trong sắp đặt tình tiết cũng như trong
lời thơ vượt ra ngoài nội dung nguyên tác. Cái khó đó, Vân Nương đã vượt qua.
Bà đã tự giới hạn hồn thơ của mình để hoàn toàn trung thực với nội dung câu
truyện. Phải một tấm lòng thiết tha, nhiệt thành với đạo pháp mới có thể tiến
hành đến trọn vẹn.
Một điểm nữa, Vân Nương đã hoàn thành
tác phẩm trong một hoàn cảnh chẳng chút nào thoải mái. Chồng ra tù, luôn đau
yếu, thấp thỏm lo Cộng sản ‘cho’ đi ‘học tập cải tạo’ lần nữa, luôn bị canh
chừng, theo dõi, cuộc sống lạnh buồn hiu hắt nơi căn gác nhỏ trước cảnh người
chồng ‘thối chí’, trước cảnh dân nước nghiệt ngã, điêu linh. Trong cảnh sống
đó, nếu không được cái tâm đạo nuôi dưỡng nơi mình, chắc khó trọn vẹn được công trình trong một thời gian khá ngắn. Vân
Nương đã thắng vượt mọi khó khăn. Có thể, trong cảnh sống tái tê đó, Vân
Nương càng dễ thiên về Lẽ Ðạo để tìm một
giải thoát, một ‘bình an tâm hồn’, say
sưa với lời Kinh để phổ nhập vào mình
một ‘tự tại’ trước cảnh đời éo le của phận mình cùng cảnh ‘bể dâu’, tăm tối của
đất nước.
Thêm một điều, trong khi ‘thi hóa’
lời Kinh, Vân Nương đã làm thơ cảm tác (những đoạn tức cảnh, vịnh đề) cùng gắng dịch các câu thơ tiếng Hán của các vị Bồ Tát, Thiền sư. Ðiều
nầy chứng tỏ Vân Nương đã hòa nhập hồn thơ mình với nội dung lời Kinh do từ
lòng yêu mến, thiết tha với Lẽ Ðạo nơi mình.
Có thể kể thêm : Vân Nương khi
gắng hoàn thành tác phẩm, không hề nghĩ đến việc in, bán, cũng không mong cầu
được nổi danh. Bản tính Bà không hề nghĩ đến điều đó đã đành mà hoàn cảnh xã
hội cũng không ‘dung hợp’ với đòi hỏi đó. Dưới chế độ Cộng sản lúc đó, sách báo
không có cái ‘tính Ðảng’ đều không được in ấn, phổ biến dù là Kinh điển tôn
giáo, dù là sách khoa học, kỹ thuật. Tư nhân chẳng dám viết lách, đã không có
quyền lại thêm không đủ điều kiện để in tác phẩm. Lo cái đói hàng ngày đã bở
hơi tai, tiền đâu mà nghĩ đến in ấn tác phẩm.Vậy Vân Nương đã thực hiện công
trình của mình không nhằm mưu cầu lợi lộc, không mơ ước tiếng tăm mà hoàn toàn
do tấm lòng tha thiết với Lẽ Ðạo hoằng viễn, cao sâu.
Phẩm ‘Nhập Pháp giới’, ngoài
việc giải thích giáo lý qua từng tông phái, cốt yếu cho thấy công phu tu chứng
không thể tính theo ngày tháng nhất định mà do từ một quá trình ‘tín giải thọ
trì’, kiên trì, kham nhẫn. Do quá trình đó, Thiện Tài càng lúc càng thấm nhuần
Lẽ Ðạo thì Vân Nương cũng do quá trình đó đã hoàn thành tác phẩm.
Cái hay của tác phẩm do nơi Vân Nương
đã để lòng mình lắng nghe từng bước đi kham nhẫn của Thiện Tài, sống cái tâm
thức khắc khoải cầu mong tìm Ðạo của Thiện Tài. Dù bị gò bó bỡi sự việc nơi câu
truyện, bị hạn chế lời thơ, Vân Nương vẫn để hồn thơ rung động trước cảnh trí
và nỗi lòng của nhân vật :
-..Tiết xuân ấm áp
lần qua
Biển dâng khói sóng, núi
nhòa thức mây
Thời gian một thoáng
vèo bay
Chưa tan nắng hạ đã đầy
gió thu…
-..Núi rừng lần lượt băng
qua
Trăng cài cửa động, mưa
sa ven đồi
Mây ngàn biêng biếc
trùng khơi
Cỏ hoa trải tận chân
trời lê thê….
-…Ðường đi mỗi bước lên
cao
Chênh vêng đá dựng, rì
rào thác ngân
Chợt cơn gió giục mây vần
Gió rung trút lá, mây
phân sắc trời…
Một đoạn tả tình và cảnh ý nhị :
-..Lặng nhìn tám hướng
mười phương
Kìa trăng đầu núi, nọ
sương cuối ghềnh
Cảnh nào cảnh chẳng
lịch thanh
Bốn mùa thời tiết
chuyển mình cỏ hoa
Càn khôn chung nhịp
giao hòa
Câu thơ xưa vẫn chưa
nhòa cổ kim
Người xưa những đấng cao hiền
Dẫu nghìn năm vẫn lưu
truyền kinh luân
‘Tĩnh độc thi thư tri
cổ đạo
Nhàn quan hoa thảo kiến
Thiên Tâm’
(Tĩnh đọc thơ văn thông
đạo cổ
Nhàn trông hoa cỏ thấy
Tâm Trời) (Vân Nương dịch)
Gửi theo làn gió chơi
vơi
Tiếng ngâm buông thả
nửa vời mây bay
Cảm thông sức sống tràn
đầy
Của bầu vũ trụ phải đây Tâm
Trời ?
….
Hồn đang chìm đắm trong
mơ
Chợt nghe như tiếng
nhạn thưa lưng trời
Phải chăng Bắc hết rét
rồi
Tìm về tổ cũ nhạn rời phương Nam ?
Trăm nghìn cách trở
quan san
Trông vời cố quận lòng
man mác sầu
Nhưng kìa một ánh Ðạo
mầu
Soi tâm tĩnh trí, cơn
sầu vụt tan…
Một số đoạn dịch thơ Ðường tiếng Hán sang thơ Ðường tiếng Việt hàm súc,
đúng ý, đúng số từ, số câu trong nguyên văn :
- Trúc ảnh tảo giai
trần bất động
Nguyệt luân xuyên hải
thủy vô ngân
Bóng trúc quét thềm đâu
chuyển bụi
Vầng trăng xuyên biển
nước không chao
- Nhất luân nhật
nguyệt sơn hà ảnh
Sổ điểm mai hoa thiên
địa tâm
Hoa mai nở rộ tâm trời đất
Nhật nguyệt xoay vòng
cảnh núi sông
- Lạc hoa hữu ý tùy
lưu thủy
Lưu thủy vô tình tống
lạc hoa
Hữu ý hoa rơi theo nước chảy
Vô tình nước chảy cuốn hoa theo.
Ðặc biệt Vân Nương đã xúc cảm ngay trong lúc thi hóa lời Kinh. Lời thơ
quyện hòa với đạo pháp, trong đó hồn thơ và hồn Ðạo giao thoa, để bao lụy phiền
trần thế loảng tan đi, để tâm đạo đưa ta vào một lảng du trầm lắng, an nhiên,
tĩnh lặng :
- Ðỉnh non cao vút tỏa
hào quang
Ghi dấu Từ Bi ánh Ðạo
vàng
Thấp thoáng Tiên Ông
tùng bách ẩn
Mịt mờ nhân ảnh khói
suơng tan
Tâm vui Hỷ Xả dâng mây
sớm
Hồn lắng an như thoảng
gió ngàn
Thiện Ðúc phải chăng
đây cõi Phật ?
Quang minh trí tuệ cảnh
hòa chan.
- Giọt nước dương
chi tắt lửa phiền
Tầm thanh cứu khổ giữa
rừng thiêng
Nhĩ căn biển cả ba đào
lắng
Tự tại tòa sen nhập
định thiền
Hoàn vũ cảm thông bao
khẩn niệm
Niết bàn thị hiện mấy
an nhiên
Từ bi vô lượng tâm
thuần tịnh
Bạch xứ Quan Âm đấng mẹ
hiền.
- Khi lửa hồng nung, nắng
gắt gao
Và khi nguồn đổ
nước tuôn trào
Huyền vi vũ trụ dòng
xoay chuyển
Riêng chữ Tâm ngời trụ
đỉnh cao.
Ngoài thi phẩm đồ sộ đó, mối Tình đối với Lẽ
Ðạo cũng bàng bạc nơi một số thơ ca khác của Vân Nương. Không một nhà thơ VN
nào, nhất là khi tuổi đã cao, lại không ‘nhuốm’ ít nhiều không khí Nho, Lão,
Phật qua thi ca mình. Cái lẽ ‘sinh hóa vô thường’ gây nên bao cay đắng, ngậm
ngùi để con người luôn chìm lắng trong cô đơn, một thứ cô đơn lạnh buồn, hiu
hắt nhưng dìu dịu, êm êm bao quanh khi xa khi gần đưa ta vào thực, vào mộng
chơi vơi. Nguyễn Khuyến đã từng : ‘…Chiếc bóng lưng trời am các quạnh,
Mảnh bia thưở trước bể dâu đầy’ (Chơi núi Long Ðợi) ; Huyện
Bà Thanh Quan : ‘Ðá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt, Nước còn cau mặt với
tang thương, Nghìn năm gương cũ soi kim cổ, Cảnh đấy người đây luống đoạn
trường’ (Thăng Long thành hoài cổ) thì Vân Nương :
- Bao la trời đất mà
hoang vắng
Thấm lạnh hồn đơn ngọn
gió lùa
để thấy :
-….Ðứng giữa dòng đời
xuôi ngược ấy
Hồn như hoang đảo sầu
vây quanh..
Cuộc sống tại thế, nghĩ ra chỉ là ‘tiếng buồn
dài’. Cuộc sống vô thường, phù du, tạm bợ nhưng tấm thân con người vẫn phải
chìm nổi trong đó và ‘tâm tình’ con người vẫn không thể đoạn diệt, chia
lìa :
- …Dẫu biết cõi nầy là
cõi tạm
Nhưng mà tình ấy vẫn
tình vương.
Phần nào giáo lý ‘Sắc – Không’ của nhà Phật đi vào thi ca qua hai từ
‘Thực’ và ‘Mộng’. Cuộc sống, cuộc đời
vừa là thực tại vừa là ảo ảnh. Thân phận con người nào khác chi con tằm
tự rút ruột kéo tơ để rồi tự giam mình trong vòng tơ đó. Hồn thơ Vân Nương chập
chờn trong vòng hư thực đó :
- ..Như thế đấy cuộc đời
hư ảo
Thì đắm hồn trong khói
vô minh
Mộng với thực quẩn quanh
trang giấy
Như con tằm kéo sợi giam
mình.
Khóc cảnh ‘sinh ly tử biệt’ cho mối duyên
‘đoàn tụ’ không còn hay khóc cho bất cứ gì ‘còn mất thay nhau’ , chung quy cũng
dẫn về cái tâm trạng ngậm ngùi giữa ‘mộng và thực’, giữa ‘chân và ảo’ đấy
thôi :
- Mới biết Sắc Không vòng ảo tưởng
Và hay Sinh Tử kiếp phù
sinh…
Cái vòng hư ảo theo sát Vân Nương. Trên bờ Ðịa
Trung Hải cũng do hoài niệm thời qua để nghe chơi vơi nghiệp trần hư ảo theo
sát lịch sử nhân sinh :
- Ðịa Trung Hải
Nước biển xanh ngời ánh
mắt giai nhân
Cồn cát trắng cười lên
man dại
Nuốt từng đợt sóng thủy
ngân !
Mây biếc giăng màn lụa
nõn thanh tân
Ðầy một vẻ trăng chìm
mộng mị !
….
Ðâu những bước xưa hùng
vĩ
Thành
Carthage – quân La Mã nay còn đâu
Ngoài
khơi sóng cuốn bạc đầu
Nghe như
nức nở men sầu cổ nhân !…
Qua bài thơ nầy, cùng nhiều bài
khác, Vân Nương có những cảm xúc lạ, ý tưởng mới. Tình nước, tình chồng, tình
đạo quyện vào nhau, mở rộng ‘chân trời thơ’ của bà, từ cái Pháp ngã nơi mình
sang cái Vô ngã của Tâm để hướng đến cái chung cùng của vạn hữu.
Từ ‘Không’ của nhà Phật không là cái
‘Không tuyệt đối’ mà là cái ‘Không trong Hữu’ (hay cái ‘Hữu trong Không’) vì cuộc sống, cuộc đời ở bất cứ giai đoạn nào, trạng thái nào trong cõi
hiện tuợng, luôn luôn là tương đối nhưng con người lại luôn luôn hướng về tuyệt
đối. Tuy nhiên cái Tuyệt đối đó nằm ngay trong Tương đối, mang chứa cái Tương
đối. Cái Tuyệt đối đó là cái gì ? Ðấy là cái Một, một cái Một không thể
định danh, định thể, định hình, định tướng . Mọi cái ‘tương đối’ -tức mọi diễn biến vô thường cùa vạn hữu nơi
vũ trụ hiện tượng nầy- đều chập chờn hư ảo, biến diễn vô thường trong cái Một
đó, do từ cái Một mà ra và cứu cánh của mọi biến đổi lại dẫn về trong cái Một
đó. Cái Một đó có nơi tất ca, nơi từng hiện thể chúng sinh. Ta thường gọi là cái
Tâm (có
lẽ nên gọi là Tâm như, Tâm không của nhà Phật để khỏi lẫn lộn với các cái Tâm
lành, tâm thiện, tâm tĩnh, tâm động, tâm mê, tâm loạn trong lối nói thường
ngày). Cái Tâm không, Tâm như hay nói chung cái Phật tính,
Phật tâm đó, dù theo Thiền tông, Mật độ tông, Mật tông, Duy thức tông, Bát nhã
tông,…hay Tông gì khác nữa trong Phật giáo, chung quy chỉ là cái Tâm bình đẵng,
cái Tâm bất nhị mà Kinh Hoa Nghiêm đã nói rõ qua phẩm ‘Nhập pháp giới’ đã được
Vân Nương thi hóa.
Trong tuần bảy giỗ chồng, Bà đã viết :
-Bốn chín ngày, nay
đã Thất Tuần
Tới kỳ định nghiệp
thoát trầm luân
Hồi chuông phổ độ qua
bờ giác
Tiếng mõ cầu kinh tỉnh
mộng trần
Cõi ấy an như miền
cực lạc
Nơi đây mê huyễn cảnh
phù vân
Theo anh, em đã quy y
Phật
Ánh đạo từ bi nguyệ
thấm nhuần.
‘Quy y Phật’ không phải để thành ni cô, bà vãi
mà là để ‘giác ngộ’ nghĩa là đạt được cái Tâm như, Tâm không tức cái ‘trạng
thái ‘an nhiên tự tại’ trước mọi biến thiên của tạo vật, của cuộc đời. Ðạt được
điều đó là đã tự mình giải thoát cho mình khỏi mọi khổ đau, phiền muộn.
Cái ‘Tâm Như, Tâm Không’ hay cái ‘Tâm bất nhị, cái Tâm không phân biệt’
hay dùng từ khác cái ‘Bình Ðẵng Tánh Trí’ giúp ta giữa mọi đối đãi đầy phân
biệt trong cuộc sống, cuộc đời, ta không còn ‘đối đãi phân biệt‘ nơi lòng ta.
Ðấy là thực hiện được cái lý ‘Chơn không - Diệu hữu’ ứng vào cho dòng sống từng
người, dòng sống toàn thể chúng sanh. Vân Nương đã nói rõ qua lời thơ thi hóa
phẩm ‘Nhập pháp giới’ của Hoa Nghiêm Kinh (xin trích đôi đoạn):
-..Vô sai biệt vẫn
tương đồng
Tự do, Bình đãng lưu thông giao hòa
Lắng nghe tiếng sóng
biển xa
Vỗ theo nhịp bước
trường ca muôn đời
Hòa chung một khối
trùng khơi
Muôn ngàn giọt nước
đất trời gồm thâu
« Một là tất cả’
nhiệm màu
‘Tất cả là Một’, phải
đâu hoang đường !…
và
-…Chân lý là thực thể
rồi
Nhưnng mà đa dạng tùy
nơi thường hằng
Và tuy ngời sáng rõ
ràng
Nhưng lại ảo diệu,
chói chang nhiệm màu
Như viên Như Ý bảo
châu
Bản thể tuy một, muôn màu lung linh
Muôn ngàn tia sáng
phát sinh
Cho muôn sắc diện
quang minh tỏa đầy
Như vừng nguyệt tỏ hôm
nay
Như ngư ông đã chở đầy
thuyền trăng….
Cái ‘Tâm Như, Tâm Không’ đó đã theo Vân Nương để nghe cõi Thế và cõi
Tiên (cõi siêu thoát) thấm nhập vào mình từng lúc thanh thoát, tạo nên nơi Bà
một tâm cảnh bình an, thưthái :
-Thủy chung một tấm lòng son
-Thủy chung một tấm lòng son
Khi cong mày liễu khi
tròn gương sen
Rượu nồng, thơ cũng nồng
men
Tạ ơn người khách non
tiên lặng ngầm
Khuôn hoa vằng vặc in
ngần
Nửa khuya vụt hiện
thanh tân tuyệt vời
Ồ may ! Mời bạn
xuống chơi
Ai trên cung Quãng, tôi
người thế gian.
(Nửa khuya – 1991)
Nhưng rồi, cái ‘Tâm cảnh’ thanh thoát
đó lại biến mất để lại phải trở về trong cõi nhật tụng thường ngày của thế
gian :
-Trăng về thả một
guồng tơ
Xin cùng trăng dệt vần
thơ giữa trời
Con chim nó hót trên đồi
Tưởng nghe vang vọng
muôn lời Thánh ca
Ngồi gom mây nổi
chiều tà
Ðan thành tấm lụa màu
pha huy hoàng
Thế rồi tuyết phủ vườn
hoang
Ðể cho tâm cảnh phai tàn
hết thôi !
(Tâm cảnh – 1992)
Cứ
thế, từng lúc ‘Thơ vào Ðạo’, từng lúc ‘Thơ lại vào Ðời’. Ðời và Ðạo nhập nhằng,
phiếu diễu qua thơ ca. Không thể dứt Ðời để hoàn toàn theo Ðạo, cũng không thể
dứt bỏ Ðạo để hoàn toàn theo Ðời. Làm sao dung nhiếp ? Cái ‘Tâm bình
đẵng’, cái ‘Tâm không phân biệt’, tuy
hiểu rõ ràng rồi đấy nhưng làm sao mãi mãi vẹn toàn ? Cái ‘nghịch cảnh’ đó
nơi lòng người nghệ sĩ vẫn theo Vân Nương rõ ràng qua bài ‘Mùa Tuyết’ :
- Sáng nay mở cửa sổ
Tuyết phủ trắng
cành thông
Trắng cây đào trước
ngõ
Ðang nhen nụ hồng
Xin chào cô
Bạch Tuyết
Từ miền Bắc
xuôi về
Dấu
hài in diễm tuyệt
Dạo khắp dải
sơn khê
Tôi từ vùng nhiệt đới
Phiêu dạt bấy năm
trường
Xứ người luôn khắc
khoải
Thèm chút nắng
quê hương
Chúng ta cùng
khách lạ
Hai thái cực
gặp nhau
Em giải lòng
băng tuyết
Riêng tôi nghe
nặng sầu !
‘Hai thái cực gặp nhau’ không để hòa tan, hòa nhập vào nhau mà để gây
chia lìa, nhức nhối cho nhau. Lòng con người khó lòng băng tuyết, băng trinh
như tuyết mà luôn luôn vương vấn với
cuộc đời nhiêu khê vạn mối. Ta thấy cái ‘đối nghịch’ hay ‘không đồng hành’ giữa
cái Tâm của vũ trụ với cái Tâm nơi lòng người vẫn hướng về cái ‘Không’ toàn
bích mà không thể không vướng mắc cái ‘Sắc’ giả tạm của cõi đời.
Thơ Vân Nương không ‘già’, không đạo mạo, cổ kính, phần nào do cái ‘Tình
Ðạo’ đó đã đem lại cho Bà cái an lạc của tâm hồn, cái thanh thoát trong cuộc
sống dẫy đầy ưu tư, phiền muộn. Do đó mọi ‘buồn, vui, thương, nhớ, giận, hờn,
nuối tiếc, xót xa,…’ nơi thơ Bà không được đẩy đến cùng độ, không nâng đến rộn
rã, náo nức, nhiệt cuồng hoặc bi phẫn, đau thương, bi đát. Ðọc thơ Bà, ta như
nghe một ‘tĩnh lặng’, một ‘thanh vắng’ quanh quất bên ta dù là thơ khóc chồng,
nhớ nước, đau cho dân tộc, quê hương. Ý đạo mênh mang quanh quẩn nơi thơ Vân
Nương dìu ta vào một thân cận, gần gũi với sự vật, với tình ý được nêu ra, đồng
thời dẫn ta trầm lắng vào bầu không khí mơ màng phơ phất, dìu dịu, tê tê, rưng
rức. Ý thơ và lời thơ tự nhiên, chẳng cần đẻo gọt, trau chuốt, tìm tòi đâu xa,
tất cả thoát ra từ cõi lòng Bà, từ cảnh sống lao đao, vất vả của Bà. Người đàn
bà đó không an nhàn, sung sướng như ta tưởng, không ‘nhung lụa, quyền quí’ bên
ông chồng đã có thưở từng ‘làm quan lớn’. Bà sống như mọi người đàn bà bình
thường trong xã hội nghèo khổ, đã từng lúc quét cái ngỏ rơm dài tê điếng cả đôi tay, đã từng đạp xe đạp
tất tả mua hàng, giao hàng, lo sao cho chồng yên tâm làm chính trị, đã từng làm
thơ, dịch thơ Pháp gởi an ủi chồng trong tù (thời chồng bị tù dưới chế
độ NÐD), từng lặn lội hàng ngàn cây số, một nắng hai sương
như bao nhiêu người vợ lính VNCH tất tả ‘đèo hoang núi vắng, nửa vừng trán
nếp trán rưng rưng’ thăm chồng nơi trại tù Cộng sản .
Người đàn bà đơn sơ, hiền thục, nhiều khổ đau đã ‘nuôi’ hồn thơ qua cuộc sống
bình lặng, lao đao của mình. Cuộc sống bình dị, thanh đạm thế nào thì thơ cũng
thế ấy. Vân Nương làm thơ không mấy khó khăn. Từ và lời, vần và điệu đến với Bà
một cách dễ dàng (ngoại trừ đôI lúc phải ép vận vì phải theo đúng từ ngữ nhà Phật lúc
thi hóa một phần trong quyển Kinh) . Không vẽ vời, trau
chuốt, Vân Nương làm thơ không chút khổ công nào. Chủ đề không mới, đề tài
không mới nhưng Bà đã phổ vào đấy cái nhạy cảm của hồn thơ, cái chân thật của
lòng mình, cái ‘tình chồng, tình nước, tình đạo’ rất tự nhiên, không cần
sắp đặt, cân nhắc ý lời. Nơi thơ Vân Nương, ý và lời cùng lúc xuất hiện, cùng
lúc ‘nhập’ vào nhau mơn man, trang trải nơi lòng ta ít nhiều đìu hiu xa vắng
hay vui tin bảng lảng, nhẹ nhàng :
-Ráng đỏ nhuộm chiều
thu
Rừng phong vàng hiu
hắt
Cảnh sắc hòa tâm tư
Quê hương đâu ?-
Cúi mặt !
(Thu – 1988)
-Ðã đau vàng đá tình tan rã
Còn hận non sông cảnh
ngậm ngùi..
(Ngày giỗ Anh –
1991)
-Tĩnh giấc Nam kha khéo bất bình
Hỡi ơi ! Em chỉ với
riêng mình
Lầu Mây gió thoảng tan
cơn mộng
Bến Giác thuyền xuôi
vẳng tiếng kinh
Mới biết Sắc-Không vòng
ảo tưởng
Và hay Sinh-Tử kiếp phù
sinh
Em quỳ dưới bệ cầu xin
Phật
Tiếp dẫn anh vui bước lộ
trình…
(Tháng 6 năm Bính
Dần – 1986)
Ðọc
thơ Bà, ta mơn man sống cái tâm hồn người phụ nữ VN hồn nhiên, trong
trắng, dung dị, suốt cuộc đời chỉ biết tần tảo cho chồng con, chỉ mong một
‘đoàn tụ’ gia đình, ‘đoàn tụ’ dân
nước trong tấm lòng đôn hậu, hiền thục, trong cái đức độ từ bi, nhân ái,
trong cái hảo hợp, hài hòa của đất trời và lòng người để giữa ‘Cõi vô thường
mộng mị’, ta vẫn có thể ‘Níu bàn tay thanh từ’ (Âm thanh kinh ngạc – 1988).
Bàn tay thanh từ đó nằm sẵn nơi tâm hồn Bà, thể hiện
qua lời thơ quyện hòa ‘tình nhà, tình
nước, tình đạo’ dù có nói đến những thê thiết, buồn đau, vẫn trang trải
thanh tân, nhẹ nhàng ru ta vào ưu tư mà trầm lắng, khổ đau mà tĩnh lặng, muộn
phiền mà an nhiên. Ðiều nầy do từ cái ‘tình Ðạo’ có sẵn nơi Bà.
Chị Vân Nương,
Chị đã ra đi ! Nơi xứ sở thường hằng an lạc đó, mong Chị xin được
rải nước Cam Lồ lên khắp nhân gian hầu ‘Ðất vào duệ trí Ba-La-Mật, Người nở
thiên hương Bát-Nhã-Tâm’ giúp cho nếu không là tất cả thì ít ra toàn thể người VN chúng ta, trong nuớc, ngoài nước
cùng chung sức, chung lòng lật đổ chế độ tà quyền Cộng sản để được ‘xuôi về
bến hẹn thuyền neo, Nghìn năm sắc lá xanh theo bốn mùa’** (Sông Thu – 1992) như chị từng mong muốn.
Thâm tạ ơn Anh Chị
France 22/02/2015
nt
______________
* Phần lớn các nhà thơ VN làm thơ Ðạo rất
hay thường là người Phật tử, trong lúc những người Ki-Tô giáo làm thơ Ðạo không
mấy hay ; điều nầy cũng bình thường
thôi vì Phật giáo thiên về Thơ trong lúc Ki-Tô giáo lại chuộng về Nhạc. Tuy
nhiên, người viết cũng gặp đôi người Ki-Tô giáo làm thơ về Ðạo Chúa cũng khá
hay như Bác sĩ Phương Du Nguyễn Bá Hậu và đặc biệt nhà thơ Vân Uyên Bác sĩ
Nguyễ Văn Ái (nguyên Viện trưởng Viện Pasteur Sài-Gòn) mà anh
Ðổ Bình gọi là ‘nhà thơ ẩn dật’, ‘nhà thơ ‘ngôn sứ của Ngôi Lời’.
** ‘Bến hẹn thuyền neo’ ám chỉ bờ bến
Giác nơi Phật giáo, vừa chỉ bến bờ đoàn tụ yên vui của dân nước.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét