Nhìn Ra Bốn Phương

Thứ Hai, 21 tháng 10, 2024

Dak-Séang 1970 - Vương Mộng Long


Ngày 23 tháng 3 năm 1970 tôi nhập viện xin giải phẫu vết thương cũ nơi sườn trái để lấy ra một mảnh đạn cối 82 ly. Bác sĩ của Bệnh Viện 71 Dã chiến Hoa Kỳ ở Pleiku đã phải khoét một lỗ lớn cỡ lòng bàn tay bên sườn tôi, lấy mảnh đạn ra, rồi nạo hết thịt thối bám trên ba cái xương sườn. Vì vết khoét khá lớn, nên không thể khâu vá bằng chỉ, mà được nhét đầy băng vải tẩm trụ sinh, rồi đắp lại bằng một tấm băng lớn dày hai lớp chứa bông gòn ở giữa.Tôi được điều trị ngoại trú, cứ 2 ngày, phải trở lại bệnh viện một lần để thay băng. Mỗi lần thay băng là một lần đau muốn chết. 
<!>
Gần 10 ngày sau tôi mới thấy các đốm thịt màu hồng bắt đầu nhô lên trên mặt vết mổ. Nhưng mỗi lần chùi rửa để thay băng, máu tươi vẫn tuôn ra ròng ròng.
Chiều 3 tháng Tư, từ bệnh viện về, vừa vào nhà, tôi đã thấy Trung sĩ Triêm đang ngồi chờ tôi nơi phòng khách. Ông Trung sĩ Ban 2 Liên Ðoàn mới từ mặt trận về ghé thăm tôi. Ông cho tôi hay tin, Ðại Ðội Trinh Sát Liên Ðoàn 2 Biệt Ðộng Quân của Thiếu úy Ðinh Quang Biện đi đầu, đã nhảy nhằm một bãi mìn cũ, trên căn cứ hỏa lực Tango, chết và bị thương cả chục người. Thêm vào đấy, tình hình an ninh căn cứ rất bấp bênh vì ban ngày thì bị cối địch pháo kích, ban đêm lại lo Ðặc Công Việt Cộng tấn công. Trung tá Bùi Văn Sâm, Liên Ðoàn Trưởng đang bối rối lắm.
Ông Triêm móc túi, đưa cho tôi mảnh giấy có đôi dòng viết vội của ông Liên đoàn trưởng: “Ông Long nếu khỏe rồi, thì lên gấp, giúp tôi một tay.” Cuối thư là chữ ký dài ngoằng gồm đủ tên, họ, và chữ lót của người viết: “buivansam”.
Tin tức không vui từ mặt trận do Trung sĩ Triêm mang về, cùng với lời nhắn khẩn thiết của ông Trung tá liên đoàn trưởng đã khiến tôi cầm lòng không được.
Sáng 5 tháng Tư năm 1970 tôi leo lên trực thăng, trong ba lô có 10 ngày trụ sinh.
Vừa bay qua Tân Cảnh vài cây số, tôi đã nhìn thấy một thác nước sáng như bạc, thẳng như sợi chỉ, đổ xuống từ đỉnh Ngok-Kean cao hơn nghìn thước.Dưới chân núi là dòng sông xanh biếc, uốn khúc ngoằn ngoèo giữa rừng già Trường Sơn trùng trùng, điệp điệp. Sông Pơ-Kô bắt nguồn từ vùng chân núi Ngok-Linh, chảy ngang Dak-Rôta, qua Dak-Pek, xuống Dak-Séang, tới Phi Trường Phượng Hoàng (Dak-To), rồi xuôi về Nam. Tiền đồn Dak-Séang nằm bên bờ Tây của con sông này.Căn Cứ Hỏa Lực Tango (T) lại nằm bên bờ Ðông, xa hơn 6 cây số về hướng Ðông Nam. Trong màn khói sóng Pơ-Kô, trên Quốc Lộ 14, Tango ẩn hiện mơ màng nơi bờ Nam của một cây cầu sắt đã gãy từ thời Pháp thuộc.
Càng trực thăng vừa chạm đất, đạn cối 82 ly của Việt Cộng đã bay tới ào ào. Tôi vội nhảy ra khỏi máy bay, ôm đầu nhào về hướng bờ sông. Trên căn cứ, 6 khẩu 105 ly đua nhau bắn trả vào những điểm nghi ngờ hướng Ðông. Pháo kích vừa ngưng, Trung tá Sâm cồng kềnh trong áo giáp và nón sắt, đã ra tận bờ sông dắt tôi vào trung tâm hành quân liên đoàn. Ông đẩy tôi tới trước mặt một vị Thiếu tá cũng dềnh dàng nón sắt, áo giáp, súng đạn, bản đồ, như đang chuẩn bị đi bay:
– Giới thiệu với ông, đây là Thiếu tá Tòng, mới thay Trung tá Bé.
Tôi đứng nghiêm chào ông tân liên đoàn phó:
– Chào Thiếu Tá, tôi là Trung úy Vương Mộng Long, Trưởng Ban 2.
– Mình là anh em mà, chú Long há! Nghe nói chú đang nằm nhà thương?
– Vâng, tôi vừa mổ xong, vết thương chưa lành thì nhận được lệnh gọi lên đây.
Thiếu tá Chung Thanh Tòng Khóa 5 Thủ Ðức, là người Nam. Ông ăn nói rất nhỏ nhẹ và lịch sự. Vừa trao đổi vài lời, tôi đã có thiện cảm với ông.
Trung tâm hành quân liên đoàn ồn ào như cái chợ. Hầu như ai cũng bận rộn, tất bật. Loa khuếch âm của các máy truyền tin không ngớt tiếng đàm thoại của các hiệu đài. Ông Trung tá Cố Vấn Trưởng chỉ kịp bắt tay tôi một cái, rồi hối hả chạy theo Thiếu tá Tòng ra trực thăng để bay yểm trợ Tiểu Ðoàn 23 Biệt Ðộng Quân đang chạm địch. Trung tá Sâm cho tôi biết, 1 sư đoàn Cộng Sản đã bao vây căn cứ Dak-Séang gần nửa tháng nay rồi.Vùng hướng Bắc của chúng tôi, 2 tiểu đoàn của Trung Ðoàn 42 Bộ Binh ngày nào cũng đánh nhau ác liệt với 1 trung đoàn Cộng Sản, nhưng vẫn chưa bắt tay được lực lượng Dân Sự Chiến Ðấu trú phòng trong trại Dak-Séang. 2 tiểu đoàn Biệt Ðộng Quân tăng viện cũng gặp phản ứng mãnh liệt của địch bên hướng Tây Pơ-Kô. Tin tức do tài liệu nhặt trên tử thi của địch cho thấy Trung Ðoàn 66 Cộng Sản trụ vùng hướng Nam Dak-Séang, còn Trung Ðoàn 28 Cộng Sản án ngữ hướng Bắc tiền đồn này. Ban ngày Gunships và A1 (Skyraider) Hoa Kỳ vần vũ, ban đêm Spectre (AC 130) và Shadow (AC 119) thay nhau bao vùng.

Ông Trung tá Liên đoàn trưởng xác nhận, nhiệm vụ của tôi kỳ này không nhằm vào địch tình, mà nặng về công tác chống Ðặc Công và chống pháo kích. Tôi sẽ điều hành công tác phòng thủ để ông Thiếu tá Lê Phú Ðào, Sĩ Quan Phụ Tá Hành Quân có thể rảnh tay phối hợp với cố vấn Hoa Kỳ lo phần không hỏa yểm. Ðại úy Nguyễn Ngọc Di, Trưởng Ban 3 Liên Ðoàn có vẻ đuối sức lắm rồi. Mới cách nhau chưa tới 2 tuần lễ mà tôi thấy tóc anh Di đã bạc đi nhiều lắm.
Rời trung tâm hành quân, tôi đi tìm ông y sĩ trưởng của liên đoàn xin tá túc, vì anh binh nhì nấu cơm và anh hạ sĩ mang đồ ngủ của tôi đã chết vì mìn ngay ngày đầu tiên nhảy xuống Tango. Sau khi vứt cái ba lô vào lều của Y Sĩ Trung úy Hoàng Ðình Mùi, tôi theo chân Thiếu úy Biện đi kiểm soát hệ thống phòng thủ.
Căn cứ hỏa lực Tango nằm “ngay boong” trên một cái đồn cũ của Tây. Trừ ra phần bề mặt quốc lộ là không có dấu đào xới, còn hai bên đường, trong cỏ, hầu như cứ cách vài thước, lại có một cái lỗ do Công Binh để lại, sau khi đã đào lấy mìn đi. Trong lúc các hoạt động của căn cứ diễn tiến liên tục, thì 2 chuyên viên tháo gỡ mìn bẫy vẫn thận trọng dùng lưỡi lê đi xăm xoi từng thước đất vùng nghi ngờ, tìm những quả M16 còn sót lại.
Vì biết chắc chắn rằng mình đang đi trên một bãi mìn, chỉ một giây lơ là, là banh xác ngay, tôi cảm thấy tóc gáy của mình dựng lên như lông nhím.
Tôi nghĩ rằng, nếu cứ để mọi người tự do đi tìm bụi bờ, phóng uế lung tung, họ có thể đạp phải mìn chết oan mạng, nên tôi đã chỉ định vị trí 6 cái cầu tiêu dã chiến trong vòng đai để Trung sĩ Triêm đôn đốc toán lao công đào binh hoàn tất trước khi trời tối. Sau đó, tôi cho đại đội trinh sát giăng thêm 2 hàng kẽm gai Concertina trên tuyến Ðông để phòng chống Ðặc Công.
Tính tới ngày 5 tháng Tư thì Bộ Chỉ Huy Liên Ðoàn 2 và 2 Tiểu Ðoàn 22 và 23 Biệt Ðộng Quân đã có mặt trong vùng Nam Dak-Séang hơn 1 tuần lễ rồi. Mọi nỗ lực tiếp viện cho Dak-Séang đều nằm bên hướng Tây của sông Pơ-Kô. Hướng Ðông hoàn toàn bỏ trống.
Hầu như ngày nào cũng vậy, cứ nghe tiếng trực thăng, “Bạch! Bạch!” ở đằng xa, hoặc khi pháo binh trên căn cứ vừa khai hỏa, thì trên mặt đất, ai nấy lại lo chuẩn bị núp đạn cối của Việt Cộng. Vị trí cối địch không xa lắm, chỉ loanh quanh đâu đó vùng đồng tranh giữa Ngok-Tang và Pơ-Kô. Nhưng khổ nỗi, ta không có quân để truy đuổi địch.Ðại Ðội Trinh Sát Liên Ðoàn 2 mang danh là đơn vị cấp đại đội.Thực ra, nó không có bảng cấp số, quân số phải lấy từ 3 tiểu đoàn cơ hữu của liên đoàn. Lúc cao nhất, đếm đầu từ quan tới lính, tính luôn thủ kho, tài xế,cũng chỉ được trên dưới 60 mạng.Sau khi cả chục người chết và bị thương vì mìn, đơn vị này còn lại hơn 40 người thôi. Hiện nay, nó chỉ đủ sức bảo vệ Bộ Chỉ Huy Liên Ðoàn.Pháo binh phải tự túc việc canh gác phần đất của họ. Thành ra, lúc các khẩu đội bận tác xạ thì phòng tuyến của pháo binh hầu như bị bỏ ngỏ.
Chính vì sơ hở này mà đêm 1 tháng Tư, một mũi xung kích của Tiểu Ðoàn 37 Ðặc Công Việt Cộng đã có cơ hội lọt vào đánh gãy càng 2 khẩu 105 ly của ta, rồi ném ba, bốn bánh bộc phá trên nóc lều của trung tâm hành quân liên đoàn. Cũng may, không có ai bỏ mạng.
Trước tình trạng này, tôi quyết định dồn tuyến phòng thủ thành từng ụ 3 người, mỗi tổ cách nhau chừng hơn 10 thước, ban đêm sẽ gác đôi, một ngủ, hai thức. Khoảng giữa 2 ụ phòng thủ được gài bẫy sáng để báo động. Bằng cách này, pháo binh sẽ được Biệt Ðộng Quân bảo vệ vòng ngoài, khi hữu sự, họ có thể yên tâm làm phận sự của mình mà không lo bị địch tấn công.
Vì tôi, nên ông bạn bác sĩ của tôi đã ra lệnh cho Ban Quân Y dựng thêm một cái nhà bạt trên bãi sậy nằm giữa căn hầm chứa thương binh và căn hầm của Ban 2 để tôi và Bác sĩ Mùi trú ngụ.
Ðêm ấy pháo binh bắn liên tục để yểm trợ cho một tiểu đoàn của Trung Ðoàn 42 Bộ Binh bị địch ồ ạt tấn công nhiều đợt, trong khu vực 2 cây số Nam Dak-Séang. Tới khuya, chúng tôi mới chợp mắt được. Mờ sáng ngày 6 tháng Tư, tôi bị Mùi gọi giựt dậy:
– Dậy mau! Nhưng nằm im đó! Coi đây!
Ông Trung úy bác sĩ run run chỉ cho tôi vật gì đó lòi lên ngay dưới chiếu, nơi ông ta nằm. Thì ra đó là 3 cái râu mìn M16! Ba cọng thép đã rỉ sét, bị ông bác sĩ nằm đè lên trên, nên cụp xuống mặt chiếu.Thoạt nhìn,cứ tưởng đó là 3 cọng cỏ lác chui qua khe chiếu. Tới lúc coi lại thì hú hồn! 2 đứa rón rén từng bước leo lên mặt lộ, gọi ông Trung sĩ CôngBinh nhờ gỡ giùm quả M16 đã bị cụp râu. Ai nghe chuyện này cũng cho là 2 đứa tôi có thần hộ mạng, nếu không thì đã bị phanh thây đêm qua. Có thể quới nhơn đã phù hộ cho 2 đứa tôi cũng nên? Ai đời, đi hành quân mà mang theo chiếu?Nếu anh chàng Hoàng Ðình Mùi này mà trải chỗ nằm bằng poncho, râu mìn sẽ không chọc thủng được poncho, trong khi chúng tôi cứ dẫm đi, dẫm lại trên râu mìn, thì có khi, Mùi và tôi đã nằm trong poncho bay về Pleiku rồi cũng nên?

Buổi trưa có Chinook tiếp tế đạn pháo binh cho Tango. Chuyến đầu trót lọt. Tới chuyến thứ nhì thì bãi đáp bị địch pháo kích tơi bời, máy bay đành thả bành đạn giữa sông Pơ-Kô rồi vội vàng trở đầu bay về Nam. Lúc đó tôi đang đứng quan sát trên vai của cây cầu đã gãy. Qua ống nhòm, tôi thấy rõ hai cụm khói trắng bốc lên từ 2 vị trí cối 82 ly của Việt Cộng đặt dưới thung lũng, cách Tango chừng 2 cây số. Tôi chạy về hầm Ban 2, lệnh cho Thiếu úy Nhờ và toán Viễn Thám 6 người của ông ta chuẩn bị 5 ngày lương khô.
Chiều hôm đó ông Nhờ dẫn quân tới vị trí mai phục trên khúc đường mòn cách Tango 3 cây số về hướng Ðông. Trong thời gian này,tôi bắt 2 nhân viên Ban 2 và 3 nhân viên Ban 4 cùng Trung sĩ Nguyễn Lác của toán tiếp tế trực thăng ra canh gác đêm trên vị trí mà toán Viễn Thám của Thiếu úy Nhờ đã bỏ trống.
Không biết toán của Thiếu úy Nhờ có để lộ hình tích gì khiến địch nghi ngờ không, mà tuyệt nhiên mấy ngày sau, không còn trái đạn cối nào rơi xuống Tango nữa.
Hôm đó mặt trận Dak-Séang bên hướng Tây sông Pơ-Kô bỗng trở nên ác liệt hơn. Một máy bay vận tải C7 Caribou của Mỹ đang thả dù tiếp tế cho lực lượng trú phòng thì bị phòng không của địch đặt trong các hốc núi bắn rơi. Từ hôm sau, không quân Ðồng Minh phải áp dụng chiến thuật thả dù ban đêm.
Ngày 7 tháng Tư, máy bay quan sát L19 báo cho Thiếu tá Lê Phú Ðào biết rằng, có nhiều toán Việt Cộng ngụy trang bằng vải dù di chuyển trong khu vực đồng cỏ tranh hướng Ðông Bắc Ngok-Remang. Tin này được chuyển ngay cho Ðại úy Nguyễn Văn Thu, Tiểu Ðoàn Trưởng Tiểu Ðoàn 23 Biệt Ðộng Quân để đề phòng.
Tiểu Ðoàn 23 Biệt Ðộng Quân dàn quân theo thế chân kiềng, chiếm lĩnh 3 ngọn đồi cao trên triền Ðông Bắc của rặng Ngok-Remang. Ngọn đồi thấp hướng Bắc do Ðại Ðội 4/23 của Trung úy Trần Mừng (Khóa 18 Thủ Ðức) trấn giữ.Ngọn đồi hướngNam do Ðại Ðội 3/23 của Trung úy Lê Văn Hùng (Khóa 20 Thủ Ðức) phụ trách.
Bộ Chỉ Huy Tiểu Ðoàn 23 nằm chung với Ðại Ðội 1/23 của Ðại úy Nguyễn Công Bao và Ðại Ðội 2/23 của Trung úy Nguyễn Văn Hùng.
Cả 2 anh Bao và Hùng đều là bạn cùng Khóa 20 Võ Bị của tôi. Từ trong trường, bạn bè đã gán cho Nguyễn Văn Hùng cái biệt danh “Hùng Cá Sấu” chỉ vì anh ta có cái cằm nhọn nhô ra như cái hàm cá sấu.
TrongTiểu Ðoàn 23 Biệt Ðộng Quân có 2 trung úy mang tên Hùng, là Nguyễn Văn Hùng và Lê Văn Hùng, nên anh em quen miệng gọi Nguyễn Văn Hùng là “Hùng Cá Sấu” còn Lê Văn Hùng là “Lê Hùng” để tránh lẫn lộn.
Qua tần số riêng, tôi đã nói chuyện với Ðại úy Nguyễn Văn Thu, Tiểu Ðoàn Trưởng Tiểu Ðoàn 23 Biệt Ðộng Quân khá lâu. Anh Thu là dân Long An, xuất thân Khóa 19 Võ Bị, ra trường trước tôi 1 năm. Anh Thu rất mê thi hào Lý Thái Bạch đời Ðường, vì thế, chúng tôi gọi anh với cái tên “Thái Bạch” chẳng phải vì anh làm thơ hay, mà vì anh là tay uống rượu rất cừ. Anh Thu than phiền rằng sở trường của Biệt Ðộng Quân là chiến đấu lưu động, nay bị chỉ định nằm yên một chỗ như thế này thì quả là điều rất bất lợi. Anh lo sợ có thể bị địch tập trung tấn công đột ngột bất cứ lúc nào. Hôm đó tôi đã cho các anh Thu, Bao và Hùng Cá Sấu biết tần số Viễn Thám của tôi, để khi bất trắc, họ có thể gọi tôi trên làn sóng trực 24/24 này mà không qua hệ thống liên đoàn.

Sáng 8 tháng Tư 1 toán tuần tiễu Biệt Ðộng Quân báo cáo rằng, địch đang rầm rộ chuyển quân bao quanh ngọn đồi hướng Tây Nam do Trung úy Lê Hùng trấn giữ. Lê Hùng là tay kinh nghiệm dạn dày, đã lăn lộn trên chiến trường Tây Nguyên gần 5 năm.
Sau khi đích thân quan sát tình hình, vị đại đội trưởng này đã hạ lệnh cho đơn vị để nguyên lều võng đánh lừa địch, rồi gài Claymore, lựu đạn, trên vị trí, sau đó âm thầm rút xuống triền núi hướng Ðông, cách chỗ đóng quân cũ khoảng 3-4 trăm mét, đào hầm hố nằm chờ.
Quả nhiên chỉ 1 giờ sau mìn bẫy nổ ầm ầm, xen lẫn tiếng quân reo, “Xung phong!”
Pháo binh đã có sẵn yếu tố, nên hàng chục tràng đạn hỗn tạp đã tưới xuống, bao trùm ngọn đồi kia.
Tuy vậy, 2 giờ sau địch đã kịp thời chuyển tiếp một lực lượng đông đảo khác đánh vu hồi trên điểm đóng quân mới của 3/23. Báo cáo đầu tiên là Chuẩn úy Trung đội trưởng Nguyễn Bỉnh Khiêm bị bắn vỡ bọng đái.Tiếp đó, 2 Trung đội trưởng còn lại, Thiếu úy Phan Ngọc Ðồng và Thiếu úy Nguyễn Trọng Kháng cũng bị thương nhẹ.
Giao tranh kéo dài 2 giờ đồng hồ. Ðịch bỏ chạy, để lại gần 20 xác.Quân bạn thiệt hại mất một phần ba đại đội, vừa chết vừa bị thương. Sợ địch sẽ tăng viện tấn công lần nữa, Ðại úy Thu đã cho lệnh Lê Hùng cố gắng tải thương và rút toàn bộ đại đội về với tiểu đoàn. Nhưng mới đi được nửa đường đơn vị này lại bị địch chặn đánh ác liệt, Trung úy Lê Hùng bị thương nhẹ vì B40.
Cuối cùng ông Tiểu đoàn trưởng đành nhờ Gunships can thiệp để giúp 3/23 rút về khu rừng thưa hướng Ðông nằm cố thủ.
Trong suốt thời gian đó đại đội củaTrung úy Mừng cũng bị Việt Cộng tấn công từ hướng Bắc.Khe suối cạn ngăn cách giữa Bộ Chỉ Huy Tiểu Ðoàn 23 và Ðại Ðội 4/23 đã bị 1 lực lượng cỡ đại đội của Việt Cộng chốt giữ,cắt đứt đường lui. Khoảng 2 giờ chiều, Bộ Chỉ Huy Tiểu Ðoàn 23 không còn liên lạc được với Trung úy Trần Mừng nữa. Nghi ngờ rằng địch đang chuyển quân, Ðại úy Thu xin pháo binh và phi cơ liên tục đánh chặn trên tất cả các đường tiến sát quanh ngọn đồi anh đang trú đóng. Từ đó cho tới xế chiều, tình hình tạm lắng dịu, chỉ còn pháo binh của ta và không quân Mỹ hoạt động mà thôi.
Ðúng 5 giờ chiều ngày 8 tháng Tư, ngọn đồi trung tâm, nơi đặt Bộ Chỉ Huy Tiểu Ðoàn 23 bị Việt Cộng pháo kích như mưa. Tất cả Pháo Binh Cộng Hòa từ Ben-Het, Dak-Tô và Tango cũng được lệnh quay mũi súng về hướng núi Ngok-Remang để ngăn chặn địch. Cả một vùng rừng núi trùng điệp chỉ còn là một cột khói và bụi khổng lồ cao ngút trời. Trong thung lũng Dak-Lao súng nổ ran như pháo Giao Thừa. Ðứng cách xa hơn 3 cây số, tôi còn nhìn rõ những lằn đạn lửa chằng chịt, đan nhau, chéo qua, chéo lại sáng cả một vùng. Bộ chiến bắt đầu lúc trời sụp tối. Anh Thu cho biết địch tấn công biển người từ 2 hướng Tây và Nam, nhiều đợt liên tiếp nhau. Quân hai bên đã đánh xáp lá cà nên Không quân Hoa Kỳ được yêu cầu đánh cận phòng. Thiếu tá Lê Phú Ðào và viên Cố Vấn Trưởng phải liên tục thay nhau đối đáp với nhân viên điều không tiền tuyến trên trinh sát cơ O.V.10. Vì phi cơ oanh kích theo trục Tây Ðông, nên mỗi khi đánh bom xong, A 37 lại liệng sát trên Tango, lấy đà, rồi vọt lên cao, tiếng động cơ gầm rú ầm ầm, làm ù tai người dưới đất. Trên đỉnh Ngok-Remang hỏa châu soi sáng tựa ban ngày.
Vào lúc súng nổ rộ ác liệt nhứt thì liên lạc truyền tin với Bộ Chỉ Huy Tiểu Ðoàn 23 Biệt Ðộng Quân bị cắt đứt. Cùng lúc, Trung tá cố vấn trưởng cũng mất liên lạc với Ðại úy cố vấn của Tiểu Ðoàn 23 Biệt Ðộng Quân. Vì không còn liên lạc được với quân bạn, nên không yểm đành tạm ngưng. Thiếu tá Tòng cho lệnh Trung sĩ Minh (Ban 3) dò tìm các đài hiệu trên tần số nội bộ của Tiểu Ðoàn 23 Biệt Ðộng Quân, nuôi hy vọng.
Mãi gần 10 giờ đêm, chúng tôi mới nghe tiếng Trung úy Mừng gọi liên đoàn xin tiếp cứu. Ðại Ðội 4/23 của anh bị đánh giạt xuống một cái khe núi hướng Ðông Bắc vị trí cũ, rồi bị lạc trong rừng lau sậy hướng Nam suối Dak-Lao. Thiếu tá Ðào cho lệnh Trung sĩ Hồng (Ban 3) mang một máy PRC 25 ra ụ cối 81 ly bắn trái sáng để hướng dẫn đoàn quân của Trung úy Mừng đi theo hướng nước chảy mà tìm về bờ sông Pơ-Kô.
Bất chợt, trên máy Viễn-Thám, tôi nghe Trung úy Nguyễn Văn Hùng gọi:
– Lê Lai đây Hồng Hà! Lê Lai đây Hồng Hà! Có nghe được không? Trả lời!
Mừng quá, tôi vội gắn cái loa khuếch âm vào máy, để tất cả mọi người có mặt trong trung tâm hành quân đều nghe. Tới nước này, tôi chẳng còn câu nệ chuyện dùng ám danh hay ngụy thoại gì nữa, cứ bạch văn mà xài:
– Hồng Hà! Ðây Lê Lai! Phải Hùng Cá Sấu đó không?
– Tao đây, Long ơi!
– Mày hiện nay ra sao? Cho tao biết đi.
– Mẹ kiếp! Tao bị gãy hai chân rồi! Lính của tao thì áo đỏ, áo vàng lền khên (đỏ: chết, vàng: bị thương) Tụi tao đã chơi hết mình, nhưng tụi nó đông quá! Chắc tao không trụ được lâu đâu mày ơi!
– Anh Thái Bạch thế nào?
– Tao giữ mặt Tây, anh Thu nằm bên mặt Ðông với thằng Bao. Thằng Bao nói anh Thu chết rồi!
– Ðể tao lệnh cho thằng Mạnh Mẽ (Mừng) quay lại cứu mày!
– Nó chịu trận từ mờ sáng tới giờ, chắc không còn hơi sức đâu mà cứu tao.
– Thế còn thằng Bao. Nó có giúp gì cho mày được không?
– Thằng Bao cũng sắp hết đạn. Nó đang chuẩn bị rút. Nó cho người sang khiêng tao đi. Nhưng lính của tao bị thương nhiều lắm! Bỏ đàn em mà chạy thì tao không làm được. Thà chết thì thôi!
Hùng nói một hơi không nghỉ, tiếng nói của nó lẫn với tiếng súng chát chúa nghe như sát bên.
– Vậy thì tao có thể làm gì để giúp mày bây giờ?
Hùng Cá Sấu không trả lời. Hình như nó phải ngừng đàm thoại để tiếp tục bắn nhau. Một hồi sau:
– Tao giục thằng Bao chạy rồi. Tao đoạn hậu cho nó chạy. Mày đón nó!
Tôi sang máy liên đoàn gọi Nguyễn Công Bao, nhưng không nghe ai trả lời.
Tình hình chắc chắn đang nguy kịch lắm nên tôi không nghe Hùng nói gì thêm. Lòng tôi bồn chồn, nóng như lửa đốt. Chúng tôi người này nhìn người kia, mà không ai biết sẽ phải làm gì lúc này. Chợt loa khuếch âm oang oang tiếng thét giựt giọng, lẫn với tiếng súng ròn rã, còn có cả tiếng “Oành! Oành!” của lựu đạn và thủ pháo.
– Lê Lai đây Hồng Hà! Tao bị tràn ngập rồi! Mày bắn lên đầu tao đi! Mau lên!
Tôi hướng về Trung tá Sâm:
– Thằng Hùng xin bắn lên đầu, xin Trung tá quyết định!
Trung tá Sâm nhìn sang Thiếu tá Tòng:
– Chỉ Ðại úy Thu mới có thẩm quyền. Giờ đây số phận cố vấn cũng không biết thế nào? Mình có xin oanh kích trên đầu quân bạn, chắc gì Mỹ nó chịu?
Thiếu tá Ðào trao đổi vài câu với ông Trung tá Mỹ, rồi lắc đầu:
– Họ không chịu!
Trên đầu máy bên kia, Hùng Cá Sấu hổn hển, nghẹn ngào:
– Lê Lai đây Hồng Hà!... Long ơi! Long ơi!... Tao phải bắn... viên đạn cuối cùng rồi!... Vĩnh biệt mày!
Rồi máy của Hùng tắt phụt. Tôi chết lặng người, tai ù đặc như bị ai bưng kín. Những người khác trong trung tâm hành quân có thể hiểu rằng bạn tôi đã tự sát,nhưng chắc có lẽ họ không biết ý nghĩa sâu xa của danh từ “Viên đạn cuối cùng”này đâu. Danh từ ấy mang ý nghĩa của một sự đứt gánh giữa đường đầy chua xót, đồng thời cũng biểu hiện cái nghĩa khí can vân của một Cựu Sinh Viên Sĩ Quan Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam.

Năm xưa, trên ngọn đồi 1515, Ðà Lạt, vào những giờ học “Lãnh Ðạo Chỉ Huy”, chúng tôi đã nghe thầy dạy lặp đi, lặp lại bao lần: “Sau này ra chiến trường, khẩu súng Colt các anh đeo bên mình sẽ là khẩu súng chỉ huy giúp các anh leo lên tới cấp tướng. Nhưng nhớ giữ lại viên đạn cuối cùng, dành cho chính các anh, giúp các anh không rơi vào tay địch.” Lời khuyến cáo này đã trở thành câu kinh nhật tụng mỗi khi ra trận của chúng tôi, những sĩ quan xuất thân từ Trường Võ Bị.
Ðêm 8 tháng Tư năm 1970, dưới chân ngọn Ngok-Remang (Kontum) cao ngút tới mây, “Cùi” Nguyễn Văn Hùng, Tham Mưu Ban 5 Liên Ðoàn của Khóa 20 Võ Bị đã đứt gánh giữa đường, phải sử dụng đến viên đạn cuối cùng.
Từ lúc ấy cho tới sáng, tôi như một pho tượng, ngồi chôn chân trong một góc của trung tâm hành quân.
Sáng 9 tháng Tư, Thiếu tá Tòng ra lệnh cho Ðại úy Nguyễn Ngọc Di Trưởng Ban 3 dẫn theo 2 anh lính hộ tống và 1 hiệu thính viên, lội qua sông để gặp Trung úy Mừng. Ðại úy Di có nhiệm vụ tập họp các cánh quân của Tiểu Ðoàn 23, dàn hàng án ngữ mặt Tây của Tango, bờ bên kia sông.
Trưa ngày 9 tháng Tư, Ðại Ðội 1/23 của Ðại úy Nguyễn Công Bao cùng một số quân nhân thuộc Ðại Ðội 2/23 cũng về tới bờ sông, nhập chung với cánh quân của Trung úy Trần Mừng.
Ðêm 9 tháng Tư từ hướng Bắc, Việt Cộng mở 2 đợt tấn kích vào điểm đóng quân của Ðại úy Nguyễn Ngọc Di. Nhưng AC 119 và pháo binh trực xạ từ Tango đã đẩy lui 2 đợt tấn kích này.
Sáng 10 tháng Tư Ðại tá Nguyễn Bá Thìn, Tư Lệnh Mặt Trận ra lệnh cho Biệt Ðộng Quân tái chiếm những ngọn đồi mới bị mất.
Trung tá Sâm ngoắc tôi vào lều riêng. Ông thì thầm:
– Ông (Ðại tá) Thìn cho phép mình tạm thời gửi vài toán trinh sát lên thăm dò trước để báo cáo với ông Tướng (Lữ Lan) rồi tính sau. Ông có thể giúp tôi việc này được không?
Tôi gật đầu:
– Vâng! Tôi sẽ thi hành ngay.
Trên danh sách Ðại Ðội Trinh Sát có 4 sĩ quan, nhưng chỉ 3 người thực sự có mặt là các ông Thiếu úy Ðinh Quang Biện, Thiếu úy Nguyễn Văn Nhờ, Thiếu úy Nguyễn Quang Minh. Một ông nữa có tên, nhưng không biết lưu lạc phương nào là Thiếu úy Lê Trọng Huế. Ông này vừa trình sự vụ lệnh cho tôi buổi sáng, buổi chiều đã có lệnh đi tăng phái đâu đó mất tiêu.
Ðại Ðội Trinh Sát của Liên Ðoàn 2 có 1 trung đội xung kích và 4 toán Viễn Thám, do Thiếu úy Ðinh Quang Biện (Khóa 25 Thủ Ðức) chỉ huy. Thiếu úy Biện là một kiện tướng xuất thân từ Tiểu Ðoàn 11 Biệt Ðộng Quân. Những lúc thiếu sĩ quan trưởng toán, hoặc khi có nhiệm vụ gì đặc biệt, ông đại đội trưởng này thường đích thân dẫn Viễn Thám vào vùng.
Trung đội xung kích có chừng trên, dưới 20 quân nhân, do một Thượng sĩ người Nùng chỉ huy. Mỗi toán Viễn Thám có 6 người. 2 trưởng toán cấp sĩ quan là Thiếu úy Nhờ và Thiếu úy Minh. Thiếu úy Nhờ là trưởng toán xuất sắc nhứt. Hiện thời ông Nhờ đi phục kích, ông Minh đang nằm Quân Y Viện Pleiku vì sốt rét. 2 hạ sĩ quan trưởng toán là Trung sĩ Lê Sanh Ma và Trung sĩ Nguyễn Lợi đều đã bị thương vì mìn. Vì thế, tôi quyết định sẽ cùng Thiếu úy Biện gánh vác công tác này.
Từ ngày đảm nhận chức vụ Trưởng Ban 2 Liên Ðoàn 2 Biệt Ðộng Quân thay thế Ðại úy Ty, tôi đã trải qua nhiều lần “đi toán”. Chừa ra những phần đất thuộc trách nhiệm của các trại Dân Sự Chiến Ðấu, tôi đã đặt gót giày trên suốt dải Trường Sơn từ ranh giới Quảng Tín tới ranh giới Phước Long. Lần vất vả nhứt là vụ tái chiếm căn cứ Kate (Quảng Ðức) cuối năm 1969 trong chiến dịch giải vây Bu-Prang. Lần đó may mà Gunships cứu viện kịp thời, chứ không thì tôi và anh cố vấn Mỹ đã bị Việt Cộng “tó” rồi. Lần này nhiệm vụ của tôi không khó khăn lắm, chuyến đi cũng ngắn ngày, tôi lại được toàn quyền ứng phó với những biến cố sẽ xảy ra, do đó tôi không cảm thấy lo lắng gì cả.
Trưa 10 tháng Tư tôi và Thiếu tá Lê Phú Ðào bay ra Phi trường Phượng Hoàng, thuyết trình cho phi hành đoàn Hoa Kỳ tình hình bạn, địch, vị trí nghi ngờ có phòng không của Việt Cộng, và các địa điểm thả quân dự trù.
Rồi theo đúng kế hoạch, Thiếu tá Lê Phú Ðào bay theo C&C (máy bay chỉ huy) hướng dẫn Gunships oanh kích 4 bãi giả để đánh lừa địch. Trong khi đó, tôi âm thầm thả toán Bravo của Thiếu úy Biện trên một ngọn đồi cách mục tiêu chừng 1 cây số về hướng Tây. Sau đó vài phút, toán Alpha của tôi đáp xuống bìa làng Dak-Lao, cách mục tiêu hơn 1 cây số về hướng Bắc. 3 giờ chiều chân tôi đạp đất. Rồi trong vòng 10 giây, chúng tôi biến mất trong rừng cỏ hôi. Di chuyển cách bãi đáp chừng trăm mét, tôi cho Alpha dừng lại, quây thành một vòng tròn, án binh chờ mặt trời lặn. Tôi thử máy với Bravo và Bạch Mai (Trung tá Sâm) rồi mở bản đồ ra nghiên cứu lộ trình hướng tới mục tiêu tối nay.
Trong khi trực thăng võ trang còn đang oanh kích 4 bãi giả trên vùng đồng tranh hướng Ðông Bắc, chúng tôi chợt nghe tiếng chân người chạy “Huỳnh! Huỵch!” trên con đường mòn vắt chéo dưới chân ngọn đồi Alpha đang trú ẩn. “Khẩn trương lên! Khẩn trương lên!” Tên Việt Cộng chỉ huy vừa chạy vừa lớn tiếng hối thúc đồng bọn. Ðã có ít nhứt là 3-4 toán Việt Cộng hối hả chạy về hướng trực thăng đang vần vũ. Có lẽ đây là 1 đơn vị cơ động của địch có nhiệm vụ tập kích các bãi đáp trực thăng? Hôm đầu tháng, chúng đã bắn rơi 3-4 trực thăng Hoa Kỳ khi họ thi hành 1 cuộc đổ bộ của bộ binh vùng Nam Dak-Séang. Chừng 10 phút sau, tôi nghe tiếng 4-5 khẩu cối của Việt Cộng từ hướng Tây bắn ào ào sang khu vực có những bãi đổ quân giả. Tôi không có nhiệm vụ thám sát vùng địch đặt cối, cũng như chặn đánh các đơn vị địch di chuyển trong vùng này. Do đó tôi chỉ báo chuyện này cho Thiếu tá Lê Phú Ðào để ông tùy nghi. Khoảng 1 giờ sau, các toán Việt Cộng lại nối đuôi nhau ngược đường về khu rừng già hướng Tây.

Chiều xuống, toán của tôi bắt đầu di chuyển tới điểm hẹn. Ðiểm hẹn nằm trên con đường mòn cũ bên con suối nhỏ dưới chân ngọn đồi của Bộ Chỉ Huy Tiểu Ðoàn 23 Biệt Ðộng Quân. Rừng tối đen như mực, rời tay khỏi lưng áo người đi trước là bị lạc ngay. Chúng tôi cứ nhắm hướng 3200 ly giác trên địa bàn mà tiến. Chui ra khỏi rừng cỏ gai, chúng tôi rơi vào một triền dốc nồng nặc mùi thối của xác chết.
Chợt như chân giày của tôi dẫm lên một cái sọ dừa, tôi trượt về phía trước, mũi giày dính theo một miếng bầy nhầy nhớp nháp như miếng bánh tráng ướt. Tôi té nhào, đánh rơi cái bản đồ. Tôi đành dừng lại, ngồi xuống, quơ tay mò mẫm, nhưng không thấy cái bản đồ đâu. Tôi móc cái đèn pin mini ra, bàn tay trái bụm cái loa đèn cho bớt sáng, rọi một vòng sát đất. Tôi tìm được cái bản đồ ngay dưới giày của tôi! Trong lúc quýnh quáng, tôi đã đạp lên cái bản đồ, mũi giày còn vướng một mảng da đầu người chết, với mớ tóc bầy nhầy máu thịt. Chúng tôi tiếp tục đi theo triền cỏ tranh, lâu lâu lại đá phải một thây ma, hoặc một cái ba lô. Tới một lối mòn cùng hướng tiến, tôi kéo áo cho người đi đầu theo đường mà đi. Ngờ đâu, mặt đường nơi này ngổn ngang xác người. Vấp phải một thây ma, tôi bị ngã nhào, đập mặt lên cái thây nằm phía trước. Cứ thế, người đi trước bị té, kéo theo người đi sau. Tay chân, quần áo, súng ống dính nhớp nháp chất thịt thối, thở không nổi. Có lẽ chúng tôi đang đi trên vùng diễn ra các cuộc giao tranh từ cuối tháng ba giữa các đơn vị Việt Cộng và lực lượng Dân Sự Chiến Ðấu. Sau vài cơn mưa đầu mùa, là những ngày nắng kế tiếp nhau, tử thi bỏ lại của cả hai bên đã sình trương thối rữa.
Tới chỗ đất thấp, cỏ ướt nhem nhép, tôi đứng tim khi nghe những âm thanh ào ào như mưa rào trên mái tôn, sầm sập như xe hủ lô cán đường, khiến mặt đất rung rinh. Không kịp nhận hiệu lệnh, tự động 6 người ngồi thụp xuống ghìm súng đề phòng. Những tiếng động kỳ dị ấy tràn về phía bìa rừng. Rồi tôi nghe tiếng cành khô nằm trên mặt đất gãy răng rắc.Xen lẫn những âm thanh hỗn độn đó, là những tiếng kêu “Éc!Éc! Ẹc!Ẹc! Ủn! Ủn!” Té ra đó là một đàn heo rừng! Heo rừng đi kiếm ăn trên xác người chết, đánh mùi thấy hơi người sống, bèn đâm đầu chạy thục mạng! Chờ đàn heo rừng chạy xa, tôi kéo vạt áo Hạ Sĩ Chạy, người mở đường, cho anh ta chuyển hướng đi xuống dốc. Xuống hết dốc là có nước, chúng tôi tiếp tục lội xuôi giòng. Tôi cầm chắc đây là dòng Dak-Lao, nên cứ đi ào xuống cuối nguồn rồi tính sau. Ðến một khúc quanh, nước lên tới bụng, tôi cho anh em ngừng lại. Nghe ngóng một hồi, thấy không có gì đáng lo ngại, tôi cho lệnh anh em luân phiên nhau vừa canh gác vừa tắm rửa. Việc đầu tiên, tôi phải làm là rửa thật sạch hai bàn tay. Sau đó tôi nhúng toàn bộ thân mình trong dòng nước mát. Công việc vệ sinh ổn rồi, tôi mới lo coi lại xem mình đang đứng ở đâu. Ðêm tối như bưng, chẳng thấy ngọn núi nào để lấy chuẩn mà gióng hướng. Tôi đành gọi liên đoàn xin một quả nổ ngay trên đỉnh núi Ngok-Remang. Chỉ cần vẽ 1 đường nối dài từ nơi đạn nổ theo hướng quan sát của địa bàn, thì nơi đường vẽ cắt ngang con suối Dak-Lao chính là điểm đứng của tôi. Kiểm lại, tôi thấy mình đã lạc về hướng Ðông Bắc mục tiêu cả cây số.Sau khi điều chỉnh lại hướng đi, chúng tôi bắt đầu leo. Tôi leo hết 3 ngọn đồi nhỏ thì tới một bình nguyên cỏ tranh. Bình nguyên này dày đặc hố bom.Vừa leo khỏi bờ hố bom này, lại tụt xuống lòng hố bom khác. Nửa đêm, 6 người của toán Alpha lên tới đỉnh đồi. Ngọn đồi này, nằm ngay hướng Tây Bắc vị trí đóng quân của Ðại Ðội 4/23, cách nhau một đường thông thủy hẹp. Tôi mở máy gọi Bravo. Nhiệm vụ của toán Bravo là yểm trợ cho Alpha, và thay thế Alpha nếu chúng tôi bị phát giác, không thể hoàn thành nhiệm vụ. Từ lúc được thả xuống, toán Bravo chỉ di chuyển cách bãi đáp chừng 300 thước, rồi ngừng lại chờ lệnh. Tính theo đường chim bay, hiện giờ Bravo cách mục tiêu chừng 800 mét về hướng Tây.Tôi ra lệnh cho Bravo đổ dốc, vượt qua con đường mòn dưới chân núi, rồi nằm chờ. Chỉ nửa giờ sau, trong máy đã có tiếng Thiếu Úy Biện:
– Alpha đây là Bravo! Tôi đã leo qua con rắn đen. Chờ lệnh.
– Bravo chờ đó! Tôi xuống ngay.

Nối đuôi nhau, 6 người thận trọng tụt xuống dốc. Cỏ tranh trơn tuồn tuột. Chỉ 10 phút sau, tôi đã đứng trên con đường đất đỏ. Trên bản đồ, đó chỉ là một lối mòn từ làng Dak-Lao đi vòng dưới chân của 3 quả núi, rồi đổ xuống thung lũng Dak-Kon. Nhưng thực tế đây là con đường xe be đang được thợ rừng sử dụng lậu. Hạ Sĩ Chạy dùng cán dao găm gõ trên lưng M16 một tràng, lơi lơi, nhè nhẹ như tiếng chim gõ mõ: “Cóc! Cóc! Cóc!” Bên hốc núi hướng Ðông có tiếng chim gõ mõ trả lời. Vài phút sau 2 toán nhập vào nhau bên khe nước róc rách. Mục tiêu của chúng tôi là ngọn đồi sừng sững, đen sì bên hướng Ðông. Chọn thế đất lài lài, bớt dốc, tôi cho 2 toán leo lên. 6 giờ sáng ngày 11 tháng Tư chúng tôi bò tới vòng cao độ chót, hướng chính Nam của ngọn đồi đã xảy ra trận ác chiến 3 ngày trước. Dấu tích của trận đánh còn mới tinh. Ðịch đã đào hố chiến đấu chỉ cách tuyến phòng thủ ngoài của quân ta chừng vài chục mét. Thoạt nhìn, người ta có thể tưởng lầm đây là tuyến phòng thủ kép của đơn vị trú phòng. Trên mặt đất đầy máu me cùng băng, bông, có cả những cái nón cối bị bắn bể nát nằm bên 5-6 khẩu AK cùng B40 bị gãy. Ðịch đã làm chủ tình hình, chúng có dư thời gian để tản thương, vì thế không thấy xác địch để lại. Tiến lên vài chục thước, chúng tôi thấy hầm hố phòng thủ phía ngoài của Biệt Ðộng Quân. Tôi ra thủ lệnh cho Bravo nằm lại yểm trợ, Alpha tiến lên. 6 người của Alpha tạo thành đội hình vòng tròn, di chuyển như đèn kéo quân. Chúng tôi như những con mèo đang rình mồi. Chầm chậm từng bước một, tiến dần lên đỉnh đồi. Trên tuyến phòng thủ bên ngoài, hầu như không có xác người lính nào. Tuyến phòng ngự thứ nhì thì thật là tang thương. Trên mặt đất, máu đen đọng từng vũng. Xác Biệt Ðộng Quân nằm bên nhau từng nhóm 2 hoặc 3 người một. Loài mối đã đắp mô quanh vài cái xác. Chỉ có tiếng ong và ruồi nhặng vo ve.Giữa phòng tuyến, tôi tìm được xác Ðại Úy cố vấn Mỹ của Tiểu Ðoàn 23. Anh cố vấn này người da đen, đã phục vụ ở Liên đoàn nửa năm rồi. Xác anh nằm ngửa, nửa trên mặt đất, nửa kia còn trong hố cá nhân. Ðầu anh bị Việt Cộng chặt rời khỏi cổ, nằm bên cạnh cái bản đồ. Người bạn Ðồng Minh này từ vạn dặm xa xôi đã tình nguyện sang đây giúp đỡ chúng tôi bảo vệ nền độc lập, tự do của đất nước tôi. Sự hy sinh của anh, là một món nợ suốt đời tôi không trả được. Cách lều cố vấn Mỹ 5-6 mét là khu lều của Ðại Úy Thu cùng những thuộc hạ thân cận của anh. Anh Thu cũng bị địch chặt đầu, cặp lon đại úy bị chúng gỡ mất. Vì không thấy máu đọng thành vũng nơi cổ anh, tôi nghĩ rằng anh chết lâu rồi mới bị chặt đầu. Xung quanh xác anh Thu có 5-6 Biệt Ðộng Quân chết trong hố cá nhân. Cạnh lều anh có khoảng hơn chục khẩu súng AK và B40 gác trên một thân gỗ,đây là chiến lợi phẩm mà Biệt Ðộng Quân tịch thu được những ngày trước. Anh Nguyễn Văn Thu là niên trưởng, đồng thời cũng là một người bạn thân của tôi từ nhiều năm nay. Ngoài mặt trận, anh là một cấp chỉ huy can trường, đảm lược, nhưng trong cuộc sống bình thường, anh lại là một người anh, một người bạn, đầy lòng nhân ái, khoan dung. Chẳng thế mà thời kỳ còn giữ chức Ðại đội trưởng ở Tiểu Ðoàn 22 Biệt Ðộng Quân, binh sĩ trong đơn vị đã gọi anh là “Thu Thầy Tu”. Quê anh Thu ở Long An. Long An là xứ lúa vàng ngợp đồng, tôm cá đầy sông.Anh tâm sự với tôi rằng, khi chọn binh nghiệp, ước vọng nhỏ nhoi của anh chỉ là mong sao cho quê hương sớm thanh bình. Mỗi lúc trà dư tửu hậu, anh có thói quen, vừa gõ đũa trên thành ly rượu,vừa cao giọng ngân nga một đoạn của bài ca nhiều lần được lặp đi, lặp lại trên làn sóng của Ðài Phát Thanh Quân Ðội: “Miền tự do... vươn lên thoát ách vong nô... Nơi đây lúa rợp nặng bờ, Dịu dàng áo em vờn gió... Ối! A! Câu hò của miền tự do..Ngày mai hết Mao, Hồ...ta về tắm sông xưa.” (Nhạc Miền Tự Do). Ðại Úy Nguyễn Văn Thu đã chết vì pháo kích vào lúc chiến trường đang trong cơn dầu sôi lửa bỏng. Sau cái chết của anh, Tiểu Ðoàn 23 Biệt Ðộng Quân đã tan tác như đàn gà con mất mẹ. Tôi đứng nghiêm, giơ tay chào các chiến hữu của mình, rồi ra dấu cho toán tiến sang hướng Ðông. Ðại đội của Nguyễn Công Bao thiệt hại khoảng trên dưới 10 người. Trong số người chết có một thiếu úy, tôi không biết tên. Từ bìa rừng hướng Ðông nhìn xuống, tôi thấy trong nắng mai, cả một cánh đồng xanh bát ngát. Xa hơn là dòng Pơ-Kô, bên kia sông là căn cứ Tango. Ðứng trên đỉnh đồi này, tôi có thể trông thấy những lọn khói bốc lên từ bếp lửa trên vị trí đóng quân của Ðại Úy Nguyễn Ngọc Di. Vài phút sau, chúng tôi chuyển dịch về hướng Tây, nơi Trung Úy Nguyễn Văn Hùng tử thủ. Chỉ có số ít người chết trong hố cá nhân, đa phần tử thi đều nằm trên mặt đất. Ðiều này cho thấy, anh em dưới quyền Hùng Cá Sấu phần nhiều đã bị giết sau khi bị thương. Không rút chạy được, họ đã chiến đấu cho tới khi địch tràn ngập. Tử thi nào cũng bị ruồi nhặng và ong đen bu kín mắt mũi và những chỗ có vết đạn. Súng ống của quân bạn còn nguyên bên cạnh những tử thi, hình như địch không cần thu nhặt chiến lợi phẩm? Anh bạn Hùng Cá Sấu của tôi nằm dưới một gốc cây. Bạn tôi không đội nón. Dáng anh nằm thư thái như đang ngủ. Ðầu anh gối lên cái ba lô. Cặp mai đen vẫn gắn trước ngực, cái bản đồ nằm dưới đất, bên cạnh là bao Lucky dở dang. Hai ống quần của anh bị xẻ tới thắt lưng, băng bó chằng chịt, từ đầu gối tới háng. Tay trái anh đè trên cái ống liên hợp của máy PRC 25. Tay phải của anh chưa rời báng khẩu súng Colt, mũi khẩu Colt chĩa ngay tim anh. Viên đạn cuối cùng đã giúp một người lính nhà nghề hoàn thành nhiệm vụ đối với quê hương. Cái chết nơi chiến trường là chiến công hiển hách nhứt đối với những người mang nghiệp lính. “Hùng ơi! Vĩnh biệt!” Mới hôm nào hai đứa ngồi bên nhau trong Quán Hằng, Pleiku, nó vừa đàn vừa hát cho tôi nghe “Tình Nhớ”. Hôm sau tôi nhập viện, nó lên đường nhảy xuống Dak-Séang. 2 tuần lễ sau, tôi vào vùng tìm xác bạn. Giờ này có lẽ linh hồn bạn tôi đã bay cao tới Thiên Ðường xa tít mù xa. Trên ngọn đồi đầy xác người, tôi chỉ còn nghe tiếng gió rì rào, cùng tiếng ruồi muỗi vo ve. 

Tôi giơ tay chào những anh hùng vị quốc vong thân lần cuối cùng, rồi bùi ngùi ra dấu cho toán rút lui. Nhiệm vụ của tôi coi như hoàn tất. Giờ đây là lúc tôi tìm đường về. Alpha mở đường, Bravo đoạn hậu, theo cái vách đá dốc nhứt, hướng Ðông Nam, chúng tôi tụt xuống. Tới con đường xe be, tôi ngạc nhiên vì thấy bông, băng vứt bừa bãi trên nền đất. Bên kia đường là bãi chứa gỗ súc. Sát đường có một cái chòi tranh. Có lẽ mấy ngày trước, căn chòi này đã được Việt Cộng dùng làm trạm cứu thương? Có vài chục nấm mộ mới nằm san sát bên nhau trong khu đất rộng phía sau chòi. Những cán binh Cộng Sản chết trong trận đánh vừa rồi đã được đồng đội của họ mang về chôn ở đây. Những chiến binh “Sinh Bắc, Tử Nam” này đã vượt hàng ngàn cây số từ ngoài Bắc vào đây với danh xưng “Giải Phóng”. Chẳng lẽ họ vào đây quấy phá cuộc sống ấm no, hạnh phúc của chúng tôi, gây bao nhiêu chết chóc, tang thương, đổ nát điêu tàn cho đất nước tôi, mà là “giải phóng” cho chúng tôi chăng? Mặt trời lên cao, nắng rọi trên những nấm mồ đất mới, khiến hơi nước bốc lên như những làn khói mỏng. Thấy nấn ná chốn này lâu không lợi, tôi khoát tay cho 2 toán nép sát bìa đường, di chuyển về hướng Nam rồi chui vào rừng già. Rồi cứ hướng Ðông Nam theo kỹ thuật cuốn chiếu chúng tôi thận trọng di chuyển ra bờ sông. Toán Viễn Thám của Thiếu Úy Nhờ đã chờ chúng tôi trên Quốc Lộ 14 nơi bờ bên kia. 4 giờ chiều ngày 11 tháng Tư tôi về tới căn cứ hỏa lực. Bước vào trung tâm hành quân, tôi tường trình ngay cho Trung Tá Sâm, Thiếu Tá Tòng và Trung Tá Cố Vấn Trưởng biết chi tiết diễn tiến cuộc thám sát. Sau đó tin tức cũng được báo cáo ngay cho Phòng 2 Quân Ðoàn. Tới khuya, một Box B52 đã được thả trên vùng thung lũng Tây Bắc của làng Dak-Lao. Vì biết chắc chắn rằng địch không còn hiện diện trên vùng xảy ra trận đánh ngày 8 tháng Tư nữa, nên sáng 12 tháng Tư, Trung Tá Sâm đã ra lệnh cho Ðại Úy Di đưa Ðại Ðội 3/23 lên thu dọn chiến trường và đem xác quân bạn ra bãi đáp. Trung Úy Lê Hùng là người dẫn quân quay trở lại trận địa gói xác quân bạn. Lê Hùng cũng là người hộ tống thi hài Ðại Úy Nguyễn Văn Thu về Long An, và Trung Úy Nguyễn Văn Hùng về Sài Gòn. Riêng thi hài của Ðại úy cố vấn Mỹ thì được cho vào bao nylon đưa thẳng về Bệnh Viện 71 Dã Chiến Hoa Kỳ ở Pleiku. Vài ngày sau, Tiểu Ðoàn 11 Biệt Ðộng Quân được trực thăng vận vào Tango, và Bộ Chỉ Huy Liên Ðoàn 2 Biệt Ðộng Quân nhận lệnh di chuyển lên căn cứ Lima (L). Cùng ngày, liên đoàn nhận được Ðại Ðội Thám Kích Biệt Khu 24 của Trung Úy Hồ Văn Hữu tới tăng phái. Tôi bàn giao nhiệm vụ bảo vệ Lima cho anh Hữu. Lên Lima được một ngày thì vết mổ bên sườn của tôi sưng phù vì bị nhiễm trùng. Phần nửa người bên trái đau nhức không chịu nổi. Tôi bị sốt mê man suốt 2 ngày, 2 đêm. Bác sĩ Mùi đề nghị Trung Tá Sâm cho phép tôi về bệnh viện để chữa trị. Trưa 18 tháng Tư tôi rời vùng hành quân. Ngày tôi về, chiến trường yên tĩnh lạ. Con sông Pơ-Kô nước trong xanh, nhìn thấu đáy. Dãy Trường Sơn cũng xanh, sừng sững bên trời, với những đỉnh núi nhấp nhô, cao ngút tới mây. Tháng Ba, tháng Tư là thời kỳ hoa nở rộ. Từ ven suối tới vách núi, chỗ nào cũng có hoa. Trên Cao Nguyên, mùa Xuân đến trễ hơn dưới đồng bằng, còn mùa Hạ thì ngắn lắm. Chiếc trực thăng bay trên một thung lũng đầy hoa.
Nhưng lòng tôi lại mang một nỗi buồn khôn tả......

Vương Mộng Long
Seattle tháng Tư năm 2013
Xem lại và hiệu đính tháng 7/2018

Ghi chú của tác giả:
Trại Dak Séang do Lực Lượng Đặc Biệt Mỹ và Dân Sự Chiến Đấu trấn giữ. Trại có 1 toán Lực Lượng Đặc Biệt Hoa Kỳ và 1 toán Lực Lượng Đặc Biệt Việt Nam cùng với hơn 400 tay súng dân sự người sắc tộc do Mỹ thuê và huấn luyện. Lực lượng Dân Sự Chiến Đấu này được tổ chức thành đội ngũ: tiểu đội, trung đội và đại đội, trang bị giống như quân chính quy VNCH. Cuối năm 1970 toán Lực Lượng Hoa Kỳ Trại Dak Séang rút đi. Trại này chuyển sang Biệt Động Quân và mang tên là Tiểu Đoàn 90 Biệt Động Quân Biên Phòng. Các đại đội trưởng, trung đội trưởng được mang cấp sĩ quan, gọi là Sĩ Quan Cải Tuyển (thiếu úy, chuẩn úy) hưởng quyền lợi như các sĩ quan khác trong QLVNCH.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét