Việt Cộng nằm vùng thời nào cũng có, ở đâu cũng có. Khi tập kết ra Bắc, cài người ở lại. Cho gián điệp trà trộn vào đoàn người di cư vào Nam. Chiêu dụ trí thức háo danh, lừa gạt người có máu phản bội…thế là bọn nằm vùng, bọn người ăn cơm quốc gia thờ ma Cộng Sản, bọn trở cờ tràn lan ở đâu cũng có khắp miền Nam.
<!>
Những trí thức háo danh bị lừa gạt, khi mở mắt ra thì đã muộn. Một số phóng lao phải theo lao, một số ngậm bồ hòn để còn hưởng chút lợi danh dỏm. Một số còn chút đỉnh liêm sỉ trước khi tắt thở nói những lời ăn năng sám hối, đó là những Trương Như Tảng, bác sĩ Dương Huỳnh Hoa, Lê Hiếu Đằng, Nguyễn Hộ…. Ngay cả thiếu tướng tình báo, anh hùng quân đội nhân dân, Phạm Xuân Ẩn, trước khi chết cũng trối trăng “Xin đừng chôn tôi gần Cộng Sản”. Bạn thân của Phạm Xuân Ẩn là phóng viên chiến trường David DeVoss viết trên Weekly Standard số ngày 9-10-2006, Volume 012-Issue 04 do Trà Mi dịch.
Tất cả bọn vô liêm sỉ và phản bội đó đã góp phần đưa dân tộc Việt Nam vào chế độ độc tài, tàn bạo cai trị bằng đàn áp và những mánh khóe, chiêu bài lừa bịp.
Người dân miền Nam mất nước, mất dân chủ và tự do, mất tài sản cũng vì cái chế độ quái ác nầy, cũng vì cái đảng mắc dịch có thành tích cướp của giết người trong “cải tạo công thương nghiệp (đánh tư sản, đuổi đi kinh tế mới để cướp nhà cướp đất). Nhưng tiếc thay, đánh tư sản lại trở thành tư sản như vậy là “Kách Mệnh” thoái trào. Không gì bằng phải vực cái hồn của Đỗ Mười dậy tiến hành khẩn trương cuộc đánh tư sản lần thứ hai. Tịch thu nhà cửa tài sản hắn, vợ hắn ta xài, con cái hắn ta bắt làm nô lệ. Đó chỉ là bài bản cũ, bổn cũ soạn lại, “nôm na” gọi là dĩ bỉ chi đạo, hoàn thi bỉ thân.
Đảng nầy chỉ có một thành tích muôn đời là tham nhũng đầy ấn tượng thôi.
2* Nằm vùng trong các cơ quan đầu não của Việt Nam Cộng Hòa
Áp dụng chủ trương trèo cao lặn sâu, gián điệp Cộng Sản đã xâm nhập vào nằm vùng ngay tại những cơ quan đầu não của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa.
Bắt đầu từ cụm tình báo A-22 tại Dinh Độc Lập gồm có Vũ Ngọc Nhạ, Huỳnh Văn Trọng, Lê Hữu Thúy…
Cụm Tình Báo VC A.22 Trong Dinh Độc Lập
Tại Nha Cảnh Sát Đô Thành thì có đại úy Triệu Quốc Mạnh mà Dương Văn Minh phong chức Chỉ huy trưởng Nha Cảnh Sát Đô Thành. Người nầy cho những trưởng ty cảnh sát ở các quận đô thành được bỏ nhiệm sở, về nhà lo thu xếp chuyện gia đình, đồng thời hắn lấy lịnh của Tổng Thống Dương Văn Minh, phối hợp với Tư lịnh phó Tổng Nha Cảnh Sát Quốc Gia là đại tá Phạm Kim Quy thả tù VC, người đầu tiên là Huỳnh Tấn Mẫm.
Tại Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH thì có đại tá VC nằm vùng trong văn phòng của Đại tướng Cao Văn Viên, đó là người giữ chìa khoá tủ hồ sơ tối mật, thượng sĩ nhất Nguyễn Văn Minh.
Tại phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình Báo thì có Nguyễn Văn Tá, bí danh Ba Quốc tức là thiếu tướng tình báo VC Đặng Trần Đức. Như vậy, không còn chỗ nào lưu giữ hồ sơ gọi là tối mật của quốc gia cả.
Tại Hạ Viện Quốc Hội VNCH thì có đại tá Đinh Văn Đệ, bí số U-4.
Tóm lại chỗ nào cũng có bọn sâu bọ nằm vùng đánh phá đó cả. Số phận chết yểu của Việt Nam Cộng Hòa là ở chỗ đó. Đại tướng Cao Văn Viên tức mình phải nói: “Tài liệu của Bộ Tổng Tham Mưu, Tổng Tham Mưu Trưởng chưa đọc mà Hà Nội đã đọc hết rồi”
3* Người giữ chìa khoá tủ hồ sơ mật của Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH
3.1. Người thân tín nhất của Đại tướng Cao Văn Viên là đại tá Việt Cộng
Theo tài liệu Việt Cộng thì người thân tín nhất của Đại tướng Cao Văn Viên là một đại tá Việt Cộng mang bí số H-3. Người nầy được phép ra vào văn phòng Tổng Tham Mưu Trưởng bất cứ lúc nào cũng được, không cần phải xin phép. Người tin cẩn nầy được giữ chìa khoá tủ hồ sơ mật của văn phòng Tổng Tham Mưu Trưởng.
Đó là thượng sĩ nhất Nguyễn Văn Minh, thơ ký đánh máy của văn phòng Đại tướng Cao Văn Viên. Nằm vùng suốt 10 năm, từ Nguyễn Hữu Có rồi Đại tướng Cao Văn Viên, đến ngày 30-4-1975 mà vẫn chưa bị lộ. Ba Minh giữ toàn bộ tài liệu mật của Bộ Tổng Tham Mưu gồm hồ sơ hơn một triệu quân của VNCH cùng toàn bộ giấy tờ thuộc văn phòng Tổng Tham Mưu Trưởng, không mất một tờ nào, rồi giao lại cho Việt Cộng.
Cho mãi đến năm 2006, CIA Mỹ cũng chưa biết người đó là ai.
Năm 2006, trong một cuộc hội thảo quốc tế về Tình Báo Trong Chiến Tranh Việt Nam, Merle Pribbenow, cựu nhân viên CIA cho biết: “Đúng là phải có một điệp viên Cộng Sản nằm vùng ngay trong lòng Bộ Tổng Tham Mưu. Dường như không phải là một sĩ quan cao cấp, không phải là một tùy viên thân cận Tổng thống Thiệu nhưng chắc chắn là người nầy đã gởi ra Bộ Chính trị Bắc Việt những tin tình báo chiến lược”.
3.2. Phương thức chuyển tài liệu
Thượng sĩ nhất Nguyễn Văn Minh, sinh năm 1943, học hết tiểu học, cao 1.7 m, nặng 40kg, vợ và có 10 con thường xuyên nghiên cứu và đánh số đề, lương hàng tháng không đủ nuôi gia đình nên Việt Cộng xuất tiền mua một chiếc xe Honda để y chạy xe ôm. Đó là phương tiện chuyển tài liệu mật một cách công khai mà không bị nghi ngờ. Ba Minh là người che giấu thân phận rất kín, luôn luôn đánh số đề và chạy xe ôm.
Đường dây giao liên chung quanh người Việt Cộng nằm vùng nầy gồm cả gia đình, vợ tên Đinh Thị Nữ, em gái tên Nguyễn Thị Nguyệt (H-4), em rể và em trai là Nguyễn Văn Chí, (cảnh sát áo trắng).
Lịch hẹn trao tài liệu ban đầu là 2 tháng một lần, rồi nhồi lên mỗi tháng một lần và thời điểm cao nhất là 5 ngày một lần. Hàng chục giao liên được cử để phục vụ cho đường dây của H-3, Nguyễn Văn Minh, họ phải thề độc là bị bắt, bị đánh ngay cả sắp bị giết cũng không khai H-3.
3.3. Những “tài liệu vàng”
Tài liệu của Việt Cộng cho biết chưa đầy một năm, Ba Minh chuyển ra 90 tài liệu, mỗi bản hàng chục trang giấy pelure viết tay. Những tài liệu quan trọng được gọi là “tài liệu vàng”.
“Tài liệu Ba Minh gởi về rất sớm. Ngay từ tháng hai năm 1974 mà kế hoạch quân sự năm 1975 của Sài Gòn đã nằm trong văn phòng bộ chỉ huy Hà Nội”, một cán bộ cho biết như thế.
Tài liệu vàng gồm có:
- Kế hoạch năm 1974-1975 của Hải Quân VNCH.
- Những thơ của Văn Phòng Tùy Viên Quân Sự DAO về kế hoạch Mỹ viện trợ cho VNCH. (DAO=Defense Attaché Office).
- Những văn bản mà Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu gởi cho Cao Văn Viên cũng đã qua tay thượng sĩ nhất H-3 Nguyễn Văn Minh nầy. Thậm chí những tài liệu thuộc diện tối mật chỉ có 5 người được đọc cũng được Ba Minh lưu vào tủ hồ sơ mật.
4* Việt Cộng nằm vùng từ Sở Nghiên Cứu Chính Trị Xã Hội đến Phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình Báo VNCH
4.1. * Sở Nghiên Cứu Chính Trị, Xã Hội và bác sĩ Trần Kim Tuyến
4.1.1. Sở Nghiên Cứu Chính Trị và Xã Hội
Sở Nghiên Cứu Chính Trị và Xã Hội (tiếng Pháp là Service des Études Politiques et Sociales), là cơ quan tình báo, phản gián chiến lược của Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hòa, được thành lập năm 1956, trực thuộc Phủ Tổng Thống. Nhiệm vụ điều tra, thu thập tin tức tình báo chiến lược về mọi mặt. Tổ chức và chỉ huy các hoạt động gián điệp tại Bắc Việt và bảo vệ an ninh nội bộ.
Sở có chi nhánh ở Huế, Vientiane (Lào), Phnom Penh (Campuchia), Bangkok (Thái Lan), Kuala Lumpur (Malaysia) và Singapore.
Bác sĩ Trần Kim Tuyến làm giám đốc sở nầy, ngoài ra còn có những người thân cận của ông Ngô Đình Nhu như Hoàng Ngọc Điệp, Cao Xuân Linh, Nguyễn Văn Chiểu và Nguyễn Duy Bách.
4.1.2. Bác sĩ Trần Kim Tuyến
1). Thân thế
Bác sĩ Trần Kim Tuyến sinh năm 1925 tại Thanh Hoá. Năm 1949 lên Hà Nội ghi tên hai đại học là Trường Luật và Y Khoa. Tốt nghiệp ngành luật năm 1952. Về Y Khoa, đang học thì bị động viên và chuyển sang Trường Quân Y. Tốt nghiệp với cấp bậc trung úy.
Thời gian ở Hà Nội, ông kết bạn với nhóm trí thức trong đó có Ngô Đình Nhu. Ông gia nhập đảng Cần Lao và trở thành người thân tín của Ông Nhu.
Năm 1956 được giao chức vụ Giám Đốc Sở Nghiên Cứu Chính Trị và Xã Hội, thực chất là Sở Mật Vụ, còn có tên là Phòng 4, thuộc Phủ Tổng Thống.
2). Trần Kim Tuyến bị thất sủng
Sau cuộc đảo chánh ngày 11-11-1960 của Đại tá Nguyễn Chánh Thi và Trung tá Vương Văn Đông, và việc hai phi công Nguyễn Văn Cử và Phạm Phú Quốc dội bom Dinh Độc Lập mà Sở Mật Vụ không dự đoán được những vụ đó. Trần Kim Tuyến bị thất sủng. Sở Mật Vụ bị giải thể.
Trần Kim Tuyến được cử đi làm Tổng Lãnh Sự ở Ai Cập. Trên đường đi, khi quá cảnh Hongkong, ông xin tỵ nạn chính trị. Lưu vong lần thứ nhất.
Sau vụ đảo cháng 1-11-1963 lật đổ Ngô Đình Diệm, ông trở về Sài Gòn và bị bắt, biệt giam, nhờ đại tá Phạm Ngọc Thảo cứu vớt nên khỏi chết.
Chính quyền mới không trọng dụng vì ông đã có quá khứ liên hệ chặt chẽ với chế độ Ngô Đình Diệm. Ông chuyển sang viết báo với hai bút hiệu là Thảo Lư và Lương Khải Minh. Viết cho tờ Chính Luận và tờ Xây Dựng.
Ngày 30-4-1975, trên đường chạy đến Toà Đại sứ Pháp xin tỵ nạn, ông được một phóng viên làm việc cho tờ báo ngoại quốc (
Trước đó, năm 1963 ông liên hệ với một sĩ quan quân đội âm mưu đảo chánh Ngô Đình Diệm, người đó cũng là tình báo chiến lược của VC, Đại tá Phạm Ngọc Thảo.
Sau khi thoát khỏi Việt Nam ông xin tỵ nạn ở Anh Quốc. Ông mất ngày 23-7-1995. Thọ 70 tuổi.
4.2. Gián điệp Việt Cộng Nguyễn Văn Tá (Ba Quốc) tiếp cận với Trần Kim Tuyến
Trong bối cảnh chuyển giao quyền hành giữa Pháp và Mỹ, Nguyễn Văn Tá, biệt hiệu là “Tá bụt” nắm được tin tức, có một chuyến tàu chuyển vàng lậu về Pháp, tin tức do trưởng Phòng Nhì Pháp là Trần Ginard tiết lộ. Người Việt Cộng nằm vùng nầy liền xử dụng tin tức đó làm quà ra mắt với mục đích “tiếp cận” với trùm mật vụ, bác sĩ Trần Kim Tuyến. Người làm trung gian là Kiều Văn Lân, quản lý nhật báo Tự Do, thân cận với bác sĩ Tuyến.
Ngay lúc đó một chỉ thị mật được ban hành, là biệt phái người kế toán Nha Công An Nam Phần về Ban Công tác Đặc biệt Phủ Tổng thống, đặc trách điệp vụ săn vàng.
“Nào ngờ sự việc mới bắt đầu thì bổng nhiên tôi bị bắt mà không biết lý do gì. Trong phòng giam hai nhân viên của tôi cũng bị bắt, họ ném giấy cho biết: “Bọn em bị tra tấn tàn bạo. Chúng buộc bọn em phải khai là anh cùng bọn em đã nhận lịnh của bác sĩ Tuyến ám sát trung tá Lý Thái Như, lữ đoàn trưởng Lữ Đoàn Phòng Vệ Phủ Tổng Thống và trung tá Nguyễn Cao, biệt bộ Phủ Tổng Thống.
Sau khi phân tích và kiểm điểm mọi việc, tôi biết mình là nạn nhân giữa hai phe đàn em của Ngô Đình Nhu và đàn em của Ngô Đình Cẩn. Bác sĩ Tuyến là người của ông Nhu, trung tá Lý Thái Như và trung tá Nguyễn Cao là người thuộc phe Ngô Đình Cẩn.
Tôi quyết định đứng về phía ông Nhu. Khoảng một tuần lễ sau, đại úy Nguyễn Đức Xích vào phòng giam cho biết: “Anh cứ an tâm. Bác sĩ Tuyến bảo tôi phải lo cho anh ra”.
Một tháng sau, trung tá Như bị cách chức, và bác sĩ Tuyến được bổ nhiệm làm Giám đốc Sở Nghiên Cứu Chính Trị và Xã Hội, thay thế ông Vũ Tiến Huân”.
Từ đó, Ba Quốc trở thành thuộc hạ trung thành của bác sĩ Trần Kim Tuyến.
4.3. Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung và Dương Văn Hiếu
1). Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung
Là cơ quan tình báo, phản gián của Ngô Đình Cẩn do Dương Văn Hiếu chỉ huy và Nguyễn Tư Thái làm phụ tá về hành chánh. Nguyễn Tư Thái có biệt hiệu là Thái Đen, biệt danh là “Đại tá Thanh Tùng”. Thái Trắng là Lê Văn Thái làm việc cho Sở Mật vụ của bác sĩ Trần Kim Tuyến.
Đoàn được thành lập năm 1957 với mục đích là “Cải tạo và xử dụng các cán bộ cựu kháng chiến”. Trụ sở đặt tại Trại Lê Văn Duyệt, gần Biệt Khu Thủ Đô. Đoàn có 8 nhân viên, hai thư ký đánh máy, được coi như trực thuộc Ty Công An Thừa Thiên và thành phố Huế.
“Tôi làm việc gần với ông Nhu hơn. Khi có chuyện hệ trọng Tổng thống Diệm gọi tôi và Dinh. Tôi chỉ gởi bản sao một vài phúc trình cho ông Ngô Đình Cẩn mà thôi”. Trong những ngày cuối cùng trước cuộc đảo chánh 1-11-1963 ông Cẩn đã hiểu lầm tôi làm tôi rất nhức đầu”. Dương Văn Hiếu trả lời phỏng vấn như thế.
Tóm lại ĐCT/ĐB/MT làm việc với ông Ngô Đình Nhu nhiều hơn với ông Cẩn. Sở dĩ gọi ĐCT/ĐB/MT là do thi hành “chính sách” đặc biệt của ông Ngô Đình Cẩn.
Đoàn công tác nầy có những thành công đặc biệt, đã từng bắt giữ những cán bộ tình báo gộc của Việt Cộng như: Mười Hương (tháng 6, 1958), Vũ Ngọc Nhạ (tháng 12, 1958), Lê Hữu Thúy (năm 1959), Nguyễn Văn Nghiệp (1960), đại tá Lê Câu (1961). Lê Câu là chỉ huy quân báo Việt Cộng ở miền Nam. Đoàn nầy cũng theo dõi Phạm Ngọc Thảo và đề nghị tổng thống Diệm lưu ý đến người nầy.
Sau vụ lật đổ tổng thống Diệm đoàn công tác nầy bị giải tán và Dương Văn Hiếu bị điều tra và kết án khổ sai chung thân, đày ra Côn Đảo.
2). Phương pháp thẩm vấn đặc biệt của Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung
Dương Văn Hiếu, trưởng Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung (ĐCT/ĐB/MT) cho biết:
“Trong các nhà tù không song sắt, công an, mật vụ ăn ở, học tập, chơi và sinh hoạt chung với những cán bộ Việt Cộng sa lưới. Các toán trưởng thu thập những lời khai của các cán bộ VC, nạp cho Ban Cải Tạo.
Khi phát hiện những VC nằm vùng chúng tôi không bắt công khai mà tổ chức bắt bí mật. Giữ kín hoàn toàn các cá nhân đầu hàng hay hợp tác. Đoàn của tôi tạo nên một màng lưới phục kích, bao vây từ những đường dây giao liên và các cơ sở cũ.
Khi bị bắt về, thay vì hỏi cung thông thường, chúng tôi áp dụng biện pháp mạn đàm, trao đổi, tranh luận cởi mở với các đối tượng. Nếu cần, mua chuộc dụ dỗ chuyển hướng.
Đối với những cán bộ VC ngoan cố chúng tôi xử dụng tập thể cải tạo để khuyên nhũ, lôi cuốn hoặc tấn công bằng xa luân chiến, tranh luận áp đảo đối với các thắc mắc và các phản ứng của những người bị bắt. Tuyệt đối không có tra khảo hay chửi bới…
Với phương pháp nầy Đoàn đã phá hai màng lưới tình báo chiến lược và quân báo VC từ Bến Hải đến Sài Gòn”.
Ông Dương Văn Hiếu cho biết, ông đã đưa Trần Quốc Hương (Mười Hương) từ Sài Gòn ra Thuận An để bí mật gặp hai ông Nhu và Cẩn. Chuyến bay đặc biệt do phi công Nguyễn Cao Kỳ lái.
Mười Hương đã giao ước gì với hai ông Nhu và Cẩn tôi không được biết.
Mười Hương đã được Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng phóng thích vào tháng 5 năm 1964.
Trần Quốc Hương (tên thật là Nguyễn Ngọc Ban) là ủy viên Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng, người chỉ huy mạng lưới tình báo của Việt Cộng ở miền Nam, là cấp chỉ huy trực tiếp của Vũ Ngọc Nhạ (thiếu tướng tình báo VC), Lê Hữu Thúy, Phạm Ngọc Thảo (đại tá), Phạm Xuân Ẩn (thiếu tướng).
“Đại tá Lê Câu (VC) đã giúp tôi khám phá ra Phạm Bá Lương, công cán ủy viên của Bộ trưởng Ngoại Giao Vũ Văn Mẫu. Lương ăn trộm và chuyển hồ sơ mật về kế hoạch kinh tế Staley&Vũ Quốc Thúc. Tôi gài bẫy và bắt Lương khi lên máy bay tại phi trường Tân Sơn Nhất để đi Thái Lan vì công vụ. Ông Mẫu không hay biết việc nầy”.
3). Dương Văn Hiếu với Phạm Ngọc Thảo
“Trong vai trò phản gián tôì theo dõi Phạm Ngọc Thảo. Thảo trình báo với Tổng thống Diệm là ĐCT/ĐB/MT đã bám sát y. Tôi lưu ý Tổng thống Diệm vì y có bà con làm việc cho Bắc Việt với chức vụ hệ trọng”. Anh ruột là luật sư Gaston Phạm Ngọc Thuần, tập kết ra Bắc, làm đại sứ Cộng Sản Hà Nội (CSHN) tại Đông Đức. Một người anh khác là Phạm Ngọc Hùng, ủy viên chánh phủ Cộng Hoà miền Nam Việt Nam. Vợ Thảo là Phạm Thị Nhiệm, em của Phạm Thiều làm đại sứ CSHN ở một số nước Đông Âu”.
Dương Văn Hiếu cho biết, tướng Đỗ Mậu không ưa ông vì ông đã phát hiện và bắt giữ thiếu úy Lê Hữu Thúy, một điệp viên VC được Đỗ Mậu đặt làm trưởng phòng An Ninh tại Nha An Ninh Quân Đội. ĐCT/ĐB/MT cũng đã bắt Vũ Ngọc Nhạ khi làm công chức tại Bộ Công Chánh. Bộ trưởng Nội Vụ Hà Thúc Ký đã thả Vũ Ngọc Nhạ sau năm 1963.
4). Vài nét về Dương Văn Hiếu.
Dương Văn Hiếu sinh tại Hà Nam trong một gia đình trung lưu. Học trung học Louis Pasteur và Thăng Long. Có bằng Diplôme d’Études primaire supérieures. Sau năm 1954 được tuyển vào làm công an. Năm 1957 giữ chức trưởng ban khai thác Nha Công An Cảnh Sát Trung Phần, rồi làm trưởng ty Công An Thừa Thiên-Huế. Giữa năm 1957 được bổ nhiệm làm Trưởng Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung.
Sau khi Đệ Nhất Cộng Hoà sụp đổ, bị kết tội chung thân khổ sai, đày đi Côn Đảo.
Năm 1964, Dương Văn Hiếu được phóng thích và làm nghề bán thuốc tây sinh sống.
Đêm 28-4-1975 Dương Văn Hiếu và con trai đầu lòng rời Việt Nam bằng tàu hải quân trên đó có Trung tướng Nguyễn Văn Là, cựu Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia.
Năm 1989 vợ và 8 con của Dương Văn Hiếu được đoàn tụ gia đình ở Hoa Kỳ.
4.2. Phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình Báo
Phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình Báo Việt Nam Cộng Hòa (Central Intelligence Office-CIO) là cơ sở tình báo chiến lược trực thuộc Phủ Tổng Thống. Tên giao dịch hành chánh là “Nha Hành Chánh và Nhân Viên Phủ Tổng Thống”. Trụ sở đặt tại số 3 Bến Bạch Đằng, nằm cạnh Nha Quân Pháp và Bộ Tư Lịnh Hải Quân.
Cơ quan nầy được thành lập do sắc lịnh số 109/TTP ngày 5-5-1961 do tổng thống Ngô Đình Diệm ký.
4.2. Hệ thống tổ chức của Phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình Báo
Phủ Đặc Ủy gồm có những tổ chức như sau:
4.2.1. Cục Tình Báo Quốc Nội
Cục Tình Báo Quốc Nội gồm có:
1). Nha Điệp Báo (Ban K)
2). Nha Phản Gián (Ban U)
3). Nha Chính Trị (Ban Z)
4.2.2. Cục Tình Báo Quốc Ngoại
Cục Tình Báo Quốc Ngoại gồm có các tổ chức:
Phú Xuân (Pháp), Lam Sơn (Anh), Thái Bình Dương (Nhật), Tiền Giang (Thái Lan), Phú Quốc (Campuchia)
4.3. Các Đặc Ủy Trưởng
Theo thời gian: Đại tá Lê Liêm, Đại tá Nguyễn Văn Y, Trung tướng Mai Hữu Xuân, Chuẩn tướng Nguyễn Ngọc Loan, Trung tướng Linh Quang Viên, Thiếu tướng Nguyễn Khắc Bình và ông Nguyễn Phát Lộc.
Sau ngày 30-4-1975 phần lớn nhân viên Phủ Đặc Ủy bị kẹt lại ở Việt Nam. Chiều ngày 28-4-1975 tòa Đại Sứ Mỹ yêu cầu tất cả nhân viên tập hợp tại trụ sở số 3 Bến Bạch Đằng để chờ. Sau đó chuyển sang địa điểm số 2 đường Nguyễn Hậu nhưng đến 1 giờ sáng 30-4-1975 thì tất cả liên lạc giữa Tòa Đại Sứ và Phủ Đặc Ủy đều bị cắt.
5* Gián điệp Việt Cộng Đặng Trần Đức
5.1. Tiểu sử Đặng Trần Đức (Nguyễn Văn Tá)
Đặng Trần Đức (1922-2004) sinh tại Thanh Trì, Hà Nội. Bí danh Ba Quốc, Thiếu tướng tình báo, Cục trưởng Cục 12 thuộc Tổng Cục 2, Bộ Quốc Phòng.
Vợ của Ba Quốc tên Ngô Thị Xuân, 3 con: hai trai tên Phong, Vũ và con gái tên Thảo. Ba Quốc còn có một vợ bỏ lại Hà Nội khi di cư.
Năm 1954 Đặng Trần Đức theo đoàn người di cư vào Nam mang tên Nguyễn Văn Tá (Tá bụt). Làm kế toán tại Nha Công An Nam Phần. Từ năm 1963 trở thành phụ tá trung thành của bác sĩ Trần Kim Tuyến.
Sau khi ông Diệm bị lật đổ, nhiều cấp chỉ huy Sở Nghiên Cứu Chính Trị Xã Hội bị điều tra, thẩm vấn, bắt giam, kết án tù hoặc tịch thu tài sản. Ba Quốc bị chuyển sang Ty Sưu Tầm thuộc Tổng Nha Cảnh Sát Quốc Gia. Sau đó giáng xuống làm nhân viên thường và bi điều về Sở Giao Tế Dân Sự, một bộ phận chống đảo chánh của Phủ Đặc Ủy TW Tình Báo. Nhờ có quan hệ tốt với trung tá Trần Ngọc Châu, giám đốc Sở, và sau đó vào làm việc tại Phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình Báo.
Chết ngày 26-3-2004 tại Quân Y Viện 175, Sài Gòn.
5.2. Hoạt động tình báo
Đặng Trần Đức đánh phá Việt Nam Cộng Hòa bằng những cách: gây chia rẻ giữa Nguyễn Cao Kỳ với Tổng thống Thiệu, giữa các đoàn thể và các dân biểu nghị sĩ chống lại chính quyền. Đánh cắp và chuyển tài liệu mật cho Việt Cộng đồng thời khám phá những cán bộ VC làm nội tuyến cho Việt Nam Cộng Hòa.
1). Xúi giục Nguyễn Cao Kỳ đảo chánh
Việt Cộng nằm vùng Nguyễn Văn Tá (Ba Quốc) xúi giục Nguyễn Cao Kỳ làm đảo chánh nhưng không thành công vì ông Kỳ không được Phật giáo ủng hộ do vụ Phật Giáo miền Trung, và do Mỹ không chấp nhận một cuộc đảo chánh.
2). Gây chia rẻ giữa bà Thiệu và bà Trần Thiện Khiêm
Gián điệp nằm vùng Ba Quốc kể lại như sau:
“Qua điều tra tôi biết bà Thiệu và bà Khiêm có mâu thuẩn nhau, tôi xúi giục cháu bà Thiệu là trung úy trẻ Nguyễn Thành Long báo cáo với bà Thiệu là Tướng Nguyễn Khắc Bình trọng dụng người của Trần Thiện Khiêm là Đại tá Nguyễn Phi Phụng, trong kế hoạch sẽ đưa Nguyễn Thành Long lên thay thế Phụng ở chức vụ chỉ huy Phòng Chính Trị (Ban Z).
Kết quả ngoài dự tính là, Đại tá Nguyễn Phi Phụng bị đưa ra khỏi Phủ ĐU/TW/TB, về Tổng Nha Quan Thuế. Người thay thế Phụng là Đại tá Huỳnh Thới Tây.
Riêng Trung úy Nguyễn Thành Long thì bị đổi về Trường Bộ Binh Thủ Đức làm Phó phòng An Ninh Quân Đội. Trung tá Võ Thanh Phong thay thế Long chỉ huy phòng Chính Trị (Ban Z)
Về sau Đại úy Nguyễn Thành Long bị bắn gãy chân trong một vụ nhậu nhẹt ở Sài Gòn.
3). Ba Quốc ăn cắp tin mật của Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH
Ba Quốc thuật lại: “Biết được sự mâu thuẩn giữa Tướng Nguyễn Khắc Bình và Đại tướng Cao Văn Viên nên không chính thức chia xẻ tin mật, tôi móc nối với trung úy Vũ Văn Mùi, em của bạn thân tôi là trung tá Vũ Văn Nho, Trưởng Phòng 2 Bộ TTM. Mùi thuộc trung tâm trận liệt và lãnh thổ, tin rằng những tin tức đó được cung cấp cho Phủ ĐU/TW/TB.”
Một hôm trung tá Vũ Văn Nho cho biết, ở Bộ TTM có gián điệp VC nằm vùng, Nho nói: “Đại tướng Cao Văn Viên gọi tôi lên văn phòng, đập bàn hét “Tài liệu của Bộ TTM, Tổng Tham Mưu Trưởng chưa đọc mà Hà Nội đã đọc hết rồi”.
Cao Văn Viên nghi thủ phạm là Vũ Văn Nho, nhưng thực ra đó là Vũ Văn Mùi, em của Nho.
Ngày 22-5-1974, đến địa điểm hẹn thường xuyên, tôi được cho biết là người nữ giao liên của tôi bị bắt ở Hồng Ngự.
Ngày 23-5-1974, tôi được lịnh của cấp trên là phải ra căn cứ gấp vì có thể bị lộ. Cấp trên cho biết quy ước bắt liên lạc vào các ngày lẻ là 25, 27, 29.
Tôi đến điểm hẹn là một rạp chiếu bóng ở Mỹ Tho và được giao liên đưa ra căn cứ.
Trước khi ra căn cứ Ba Quốc dặn vợ và các con cứ khai thật tất cả những gì đã làm. Người con thứ hai khai là đã chụp hình các tài liệu và phụ giúp cha trong công việc của Phủ Đặc Ủy.
4). Ba Quốc giải cứu Nguyễn Văn Linh
Ba Quốc thuật lại, do lời khai của tên phản bội Huỳnh Kim Hiệp về hoạt động của 10 thành ủy viên của Đặc Khu ủy Sài Gòn-Gia Định, Ba Quốc được chỉ định theo dõi điều tra. Ngô Đình Nhu ra lịnh cho Phủ Đặc Ủy phối hợp với Nha An Ninh Quân Đội tổ chức truy bắt.
Trước tình thế khó xử, Ba Quốc lập một kế hoạch báo cáo cho An Ninh Quân Đội làm thế nào để y có đủ thì giờ báo động để các ủy viên lẫn trốn trước khi An Ninh QĐ mở cuộc hành quân.
Bí thư Đặc Khu ủy có bí danh là Trịnh Văn Thanh đang làm thợ sửa radio tại tiệm của Nguyễn Văn Ba ở đường Nguyễn Trãi.
Sau nầy đối chiếu lại mới biết Trịnh Văn Thanh là Tổng Bí Thư Nguyễn Văn Linh.
5). Khám phá cán bộ Việt Cộng làm việc cho Việt Nam Cộng Hòa
“Tháng 5 năm 1972 cấp trên chỉ thị cho tôi phải lấy cho bằng được hồ sơ của hai cán bộ làm mật vụ cho địch ở hai tỉnh, cần nhất là tên họ và chức vụ”.
Đó là một công tác vô cùng khó khăn, vì tổ chức an ninh ở Phủ ĐU/TW/TB rất chặt chẽ. Làm việc ở ban nào thì chỉ biết trong phạm vi của ban đó mà thôi.
Tôi tìm cách kết thân với người giữ hồ sơ là Nguyễn Đăng Khiêm qua việc hùn hạp trồng trọt ở Long Khánh.
Qua Nguyễn Đăng Khiêm tôi phát hiện ra 2 cán bộ làm việc cho địch, một là bác sĩ dân y của Mặt Trận Giải Phóng tỉnh Quảng Đà, một là tỉnh ủy viên trong đảng bộ Tây Ninh. Danh sách được người giao liên là Nguyễn Văn Thương chuyển đi, nhưng rủi thay là Thương đã bị địch bắt. Cũng may là Thương đã hủy bản tin và nhất quyết không khai, mặc dù đã bị cưa chân 6 lần”.
6). Người giao liên bị cưa chân sáu lần mà vẫn không khai
Nguyễn Văn Thương sinh năm 1938 tại xã Lộc Hưng, quận Trảng Bàng, Tây Ninh. Giữ nhiệm vụ giao liên khu vực Bắc Sài Gòn, gồm Sài Gòn, Bến Cát (Bình Dương).
Tài liệu Việt Cộng cho biết, ngày 10-2-1969, bị máy bay Mỹ phát hiện, hạ thấp xuống định bắt sống nhưng Hai Thuơng đã dùng tiểu liên bắn rơi một chiếc máy bay lên thẳng và diệt được 3 tên lính Mỹ. Ngay sau đó, quân đội Mỹ huy động 72 chiếc máy bay lên thẳng chở toàn bộ Trung Đoàn 48 của Sư Đoàn 5 mới bắt được tên giao liên nầy sau khi bị anh ta bắn hạ 3 trực thăng bằng súng tiểu liên.
Sau nhiều lần mua chuộc bằng đô la, xe hơi, nhà lầu và gái đẹp nhưng vẫn không thu phục được Hai Thương, Mỹ ngụy đập nát hai bàn chân và sau đó họ đã 6 lần cưa sáu khúc xương của hai chân.
Hai tài liệu ngày hôm đó là của Ba Quốc (thiếu tướng Đặng Trần Đức) và của Hai Trung (thiếu tướng Phạm Xuân Ẩn.
Việt Cộng thường hay “nổ sảng” để thần thánh hóa các điệp viên xuất quỷ hập thần của họ. Những công việc bí mật thuộc về tình báo gián điệp thường không có nhân chứng, nên tự do vẽ rồng vẽ rắn, thêm mắm dậm muối nhưng những điều quá lố không che đậy được người đọc, người nghe.
6* Vụ án Việt Cộng nằm vùng Thái Khắc Chuyên
Vụ án Thái Khắc Chuyên là những diễn tiến chung quanh vụ hạ sát thủ tiêu gián điệp đôi là thông dịch viên người Việt Nam tên Thái Khắc Chuyên, thuộc toán biệt kích B-57 của Lực Lượng Đặc Biệt Hoa Kỳ vào tháng sáu năm 1969.
6.1. Lịnh thủ tiêu
Ngày 20-6-1969, lịnh thủ tiêu gián điệp hai mặt Thái Khắc Chuyên được thi hành.
Khoảng 8 giờ tối, đại úy Robert Marasco và những nhân viên của ông thi hành lịnh của chỉ huy trưởng Lực lượng mũ xanh, đại tá Robert B. Rheault, là hạ sát và thủ tiêu Thái Khắc Chuyên.
Binh sĩ Ed Boyle đè giữ Thái Khắc Chuyên nằm duới sàn nhà trong khi Brumley chích mũi morphine thứ hai vào Chuyên. Vài phút sau, Chuyên nhắm nghiền đôi mắt, hơi thở yếu dần và mê mang như một xác chết.
Dán băn keo bịt miệng. Trói hai cườm tay ra sau lưng. Thân thể Chuyên được cuốn tròn trong chiếc poncho, và chi trong vài phút cuộn poncho được đưa lên xe tải chở ra bờ sông.
Hai quân nhân Mỹ khiêng cuộn poncho xuống tàu, trên đó đã có đại úy Robert Marasco và Williams chờ sẵn.
Chiếc tàu vượt qua những con sóng lớn, nhấp nhô hướng ra cửa biển. Bổng nhiên có tiếng rên nho nhỏ từ chiếc poncho, đó là tiếng của Thái Khắc Chuyên sau khi thuốc ngủ đã tan dần.
Brumley vội rút khẩu súng nòng dài có gắn ống hãm thanh, loại súng đặc biệt để trang bị cho nhân viên CIA, số súng không có ghi trong các danh mục vũ khí của quân đội, mà nó được đăng ký ở trung tâm Okinawa. Một phát súng bắn vào đầu Chuyên. Tiếng rên im bặt.
Đến nửa đêm, con tàu ra tới cửa biển, đảo Hòn Tre lù lù hiện ra ở phía xa. Ba người dùng dây xích thật nặng bó chặt chiếc poncho rồi ném xuống biển.
Tưởng đâu việc thủ tiêu gián điệp hai mang nầy là kết thúc câu chuyện nhưng không ngờ nó lại bắt đầu một vụ án mà tạp chí Time gọi là “vụ bê bối tình báo nghiêm trọng chỉ đứng sau vụ Mỹ Lai mà thôi”.
6.2. Thái Khắc Chuyên và trung sĩ Alvin P. Smith
Ngày 15-10-1968, trung sĩ Alvin P. Smith, mật danh là Peter Sands, được cử đến toán biệt kích Mỹ B-57, căn cứ tại Mộc Hóa, Kiến Tường. Một tuần lễ sau, Thái Khắc Chuyên, 31 tuổi nguyên quán ở miền Bắc Việt Nam, đến Mộc Hóa nạp đơn xin làm thông dịch viên. Alvin Smith tuyển dụng anh ta dưới số nhân viên SF7-166. Từ đó, hai người trở thành bạn thân với nhau.
6.3. B-57 và Dự án Gamma
Tháng giêng năm 1969, đại úy Robert Marasco, mật danh là Mike Martin, được cử đến Mộc Hóa chỉ huy toán biệt kích B-57 để thực hiện một công tác bí mật có tên là Dự án Gamma. Mục đích là trinh sát thu thập tin tức tình báo về hoạt động của Cục R, đầu não của tổ chức Việt Cộng ở miền Nam Việt Nam. Cục R nằm ở vùng Mỏ Vẹt bên lãnh thổ Campuchia.
Công tác trinh sát thường xuyên vượt qua biên giới xâm nhập lãnh thổ nước nầy.
6.4. Sự mất tích của những cộng tác viên của toán B-57
Cuối tháng 4 đầu tháng 5 năm 1969, số người Việt Nam cộng tác với toán biệt kích B-57, bổng nhiên mất liên lạc, không có những báo cáo như trước kia.
Một số nghi vấn được đặt ra, không loại bỏ có Việt Cộng nằm vùng trong toán biệt kích.
Đại úy Bob Marasco gặp khó khăn trong việc sưu tra lý lịch của Thái Khắc Chuyên, anh ta nói tiếng Anh rất thông thạo nhưng không phục vụ với một cơ quan nào trước đó cả.
6.5. Báo cáo của trung sĩ McIntosh
Trung sĩ Terry McIntosh chỉ huy một toán mũ xanh gồm 12 người đi phục kích, Thái Khắc Chuyên có mặt trong toán đó. Khi chạm địch, giao tranh dữ dội xảy ra nhưng Chuyên cứ loay quay với khẩu súng mà không bắn ra viên đạn nào cả. Máy truyền tin bị trục trặc nên không gọi pháo binh yểm trợ được. Phải vất vả lắm toán biệt kích mới thoát ra khỏi tầm đạn của địch.
Sáng hôm sau, kiểm tra lại thì thấy máy truyền tin bị ai đó bật qua kênh khác, sai tần số nên không hoạt động. Chuyên cho biết là súng của anh bị kẹt đạn nên không bắn trả lại được.
Một vài tuần sau đó, trong một cuốn phim tịch thu được của Việt Công ở bên biên giới Campuchia, thấy hình ảnh của Thái Khắc Chuyên hội họp với các sĩ quan Việt Cộng. Bạn thân của Chuyên là trung sĩ Alvin Smith xác nhận hình ảnh đó đúng là của Chuyên.
Thế là Chuyên bị bắt giữ để thẩm vấn suốt 10 ngày. Chuyên không vượt qua được máy phát hiện nói dối (Polygraph) nhưng anh ta không công nhận hoạt động cho Việt Cộng, kể cả việc tiếp xúc với một nữ giao liên ở Mộc Hóa mà anh thường xuyên tiếp xúc, đã bị theo dõi.
B-57 liên lạc với văn phòng CIA Sài Gòn để xin ý kiến xem nên giải quyết vụ việc như thế nào. CIA im lặng. Thêm một công điện mật và khẩn, nhưng CIA trả lời lập lờ.
Cuối cùng đại tá Robert B. Rheault, tư lịnh Lực lượng Đặc biệt ở Việt Nam ra lịnh hạ sát và thủ tiêu đương sự.
Ngày 20-6-1969 Thái Khắc Chuyên bị giết, ném thây xuống Biển Đông.
Sau khi thủ tiêu Thái Khắc Chuyên lực lượng mũ xanh dàn dựng một câu chuyện để giải thích lý do mất tích của Chuyên. Đó là Chuyên được cử đi thực hiện một công tác bí mật bên biên giới Campuchia để kiểm chứng lòng trung thành của Chuyên sau vụ điều tra 10 ngày.
6.6. Nổ bùng vụ án Thái Khắc Chuyên
Trung sĩ Alvin P. Smith là người tuyển dụng Chuyên, cũng là bạn thân của Chuyên và là người duy nhất phản đối việc hạ sát Chuyên.
Khi thấy Chuyên bị thủ tiêu, Smith lo sợ cho số phận của anh ta, có thể giống như Chuyên, giết người diệt khẩu.
Smith liền chạy đến văn phòng CIA Nha Trang tố cáo hành động giết người và xin được tỵ nạn. CIA Nha Trang báo cáo về CIA Sài Gòn và vụ việc được báo cáo lại cho tướng Creighton Abrams Jr. Tướng Abrams gọi đại tá Rheault về trình diện. Rheault trình bày với các viên chức cao cấp trong MACV, cho biết Thái Khắc Chuyên được cử đi công tác bên biên giới Campuchia không thầy trở về.
Tướng Abrams nổi giận vì bị đại tá Rheault nói dối để gạt ông ta, ông ra lịnh bắt điều tra những người liên hệ.
Đại tá Rheault, đại úy Ramasco và 6 quân nhân khác bị bắt để điều tra, và bị kết tội giết người và đồng lõa giết người. Tám người bị đưa về giam ở căn cứ Long Bình ngày 21-7-1969.
6.7. Xếp lại vụ án
Luật sư của các bị cáo đòi tướng Abrams và những lãnh đạo CIA ra trước tòa làm nhân chứng. Những người nầy từ chối ra tòa.
Theo chỉ thị của Toà Bạch Ốc (Tổng thống Nixon), Bộ trưởng Lục quân Mỹ, Stanley Reson, tuyên bố bãi bỏ vụ truy tố vì lý do an ninh quốc gia. Đó là các toán biệt kích B-57 hoạt động tình báo bên trong lãnh thổ Campuchia, vi phạm luật quốc tế và lộ bí mật quân sự.
Đại úy Marasco cho biết, ông là quân nhân thi hành mệnh lịnh của cấp trên nên không chịu trách nhiệm. Việc truy tố được bãi bỏ, tất cả các bị cáo được tự do.
Riêng đại tá chỉ huy trưởng Lực Lượng Đặc Biệt ở Việt Nam, Robert B. Rheault bị buộc phải nghỉ hưu. Ông từ trần ngày 16-10-2013 tại nhà riêng thuộc Owls Head, bang Maine hưởng thọ 87 tuổi.
Dự án Gamma ngưng hoạt động sau đó, ngày 31-3-1970.
6.8. Liên Xô phát động chiến dịch tuyên truyền ầm ĩ
Vụ án Thái Khắc Chuyên nổ ra bị cho là “bê bối tình báo chỉ đứng sau vụ Mỹ Lai mà thôi”, tạp chí Time nhận định như thế.
Liên Xô lợi dụng sự việc nầy phát động chiến dịch tuyên truyền rầm rộ. Đài phát thanh Moscow, Hà Nội và báo chí Cộng Sản tố cáo lực lượng mũ xanh Hoa Kỳ là những kẻ suy thoái tâm thần, bản chất cướp bóc, phá hủy, chà đạp phần còn lại của thế giới loài người tiến bộ. Tố cáo lính mũ xanh giết nông dân, không thương xót, không buông tha phụ nữ, người già và trẻ em Việt Nam.
7* Kết luận
Việt Cộng nằm vùng thời nào cũng có, ở đâu cũng có. Thời nay, ở nước ngoài cũng không vắng bóng cái đám lăng nhăng lố nhố đó.
Số phận của người dân nước Việt Nam Cộng Hòa ở miền Nam bị mất tự do, dân chủ, mất nước cũng do cái bọn sâu bọ nầy. Tệ nhất là quý vị trở cờ, quý vị háo danh, ăn cơm quốc gia thờ ma Cộng Sản sẵn sàng chịu nhục để bợ đít Việt Cộng, đau nhất là khi không còn lợi dụng được nữa thì bị “vắt chanh bỏ vỏ”. Quý vị trí thức “vịt kiều yêu quái” gồm các luật sư, giáo sư đại học, đại tá, trung tá trở cờ, lén lén lút lút, thập thập thò thò nâng bi Cộng Sản. Bề ngoài được ca ngợi yêu nước nhưng bên trong khinh vì bản chất phản bội.
Những bộ mặt nham nhở đó đã bị nhận diện, cô lập, tẩy chay…
Trúc Giang
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét