Trước hết, với tư cách là một tín đồ Công Giáo, khi đọc bài luận thuyết của huynh về đạo Công Giáo, là một tôn giáo khác với tín ngưỡng mà huynh đang tôn thờ, tôi rất mến phục huynh khi đã trình bầy khái niệm của huynh về đạo Công Giáo trên phương diện triết lý và khoa học. Việc nghiên cứu về Công Giáo của huynh là việc làm đáng trân trọng, giúp cho chúng tôi có cơ hội nghiên cứu lại lý thuyết của đạo mình và những điều mà chúng tôi vẫn đặt niềm tin vào từ khi có trí khôn để hiểu thêm về đạo. Tuy nhiên, vì đây là một bài thuyết lý liên quan đến Tôn Giáo của chúng tôi, nhất là đến vị Chúa Tể mà chúng tôi đang tôn thờ, Jesus Christ, và Đấng đáng tôn kính, Bà Maria, người hạ sinh Chúa Jesus, nên chúng tôi bất đắc dĩ phải viết vài hàng minh định lại vài điều, mà theo chúng tôi, Chân Lý của đạo Công Giáo khó có thể được thể hiện chỉ trong vài trang giấy. Thật ra, những điều trình bầy thô thiển của cá nhân tôi cũng chỉ trong một phạm trù nhỏ hẹp, chắc chắn rằng sẽ có những điều còn thiếu sót rất nhiều với lời giảng dậy của Chúa Jesus khi Ngài còn tại thế, và cũng sẽ thiếu sót với Cựu Ước, đôi khi còn có thể ngược lại Cựu Ước nữa. Thí dụ như khi Cựu Ước diễn tả Bẩy Ngày Thành lập Vũ Trụ trong Genesis Book, tôi thiển nghĩ rằng đó là một cách ẩn dụ mà các Tiên Tri đã được Thiên Chúa “mặc khải”, chứ không phải sự Thật, vì khi đó, trời đất còn mênh mông, thì lấy Ai là người nhìn thấy những sự kiện ấy mà ghi lại.
Còn về thuyết Big Bang: Theo tòa Tổng Giám Mục Saigon: Nguồn gốc ra đời của lý thuyết Big Bang, theo nhà thiên văn học Trịnh Xuân Thuận, nhà vật lý lý thuyết Stephen Hawking và nhiều học giả nổi tiếng khác thì thuyết Big Bang được khởi sự với công trình nghiên cứu của nhà khoa học người nga Alexandre Friendman (1888-1925) và của một linh mục người Bỉ tên là Georges Lamaitre (1894-1966). Năm 1948 nhà vật lý người mỹ gốc nga George Gamow (1904-1968) đã kế thừa quan điểm của Alexandre Friendman và Georges Lamaitre, cùng với lý thuyết tương đối rộng của Albert Einstein để cho ra đời một lý thuyết vũ trụ nóng và đặc, có điểm khởi đầu. Tuy nhiên, tên gọi Big Bang lại do Hermann Bondi, Thomas Gold và Fred Hoyle một địch thủ của thuyết này đặt ra với ý châm biếm. Giả thuyết Big Bang dần dần được cũng cố khi vào năm 1929 nhà thiên văn học người mỹ Edwin Hubble đã dùng kính thiên văn quan sát vũ trụ. Ông đã ngạc nhiên khi phát hiện ra rằng đa số các thiên hà đều có quang phổ dịch về phía đỏ, chúng đang chuyển động ra xa chúng ta. Như thế, vũ trụ của chúng ta không phải là tĩnh như trước kia người ta vẫn thường nghĩ, mà thực tế nó đang giãn nở, khoảng cách giữa các thiên hà ngày càng tăng lên theo thời gian. Theo lý thuyết này, vũ trụ đang giãn nở khắp nơi và không tồn tại một điểm trung tâm. Với sự quan sát của nhà thiên văn học Hubble, người ta đi ngược lại thời gian để trở về trước cách đây khoảng 15 – 16 tỷ năm đã có một vụ nổ lớn xảy ra đó chính là Big Bang, phát hiện này đã làm thay đổi nhiều quan niệm về vũ trụ học.
Cá nhân tôi không tin vào lý thuyết Big Bang là khởi thủy của nhân loại. Thuyết này cũng huyễn hoặc, cũng “tự nhiên mà phát khởi” tương tự như lý thuyết của Charles Darwin (The Origin of Species): Một đơn bào “bỗng nhiên xuất hiện”, “naturally” tự biến hóa thành đa bào, rồi đa bào cũng “naturally” biến hóa thành sinh vật sống động đầu tiên là Cá. Cá bò lên cạn rồi “naturally” leo lên cây thành Khỉ, Khỉ ở trên cây chán rồi, bò xuống đất, “naturally” biến thành Người! Tất cả các sự biến hóa đó đều Tự Nhiên – Naturally, không có động lực nào thúc đẩy. Thuyết Big Bang cũng thế, đột nhiên, naturally, môt vụ nổ xẩy ra, rồi phóng vào trái đất những sinh vật, cây cỏ, côn trùng, vi khuẩn, và Con Người. Lý thuyết này không khác chi chuyện Tôn Ngộ Không, một ngày kia, môt tảng đá lớn nứt ra, và Tôn Ngộ Không nhẩy ra ngoài, múa võ, quyền phép vô song…
Theo như sự hiểu biết hạn hẹp của tôi, thì các diễn tiến khoa học đều theo 3 chu kỳ: Giả Thuyết (hypothesis, assumption), Lý Thuyết (theory), và Luật (law). Thoạt tiên, một vị khoa học gia, lý thuyết gia suy nghĩ, tìm tòi ra môt khám phá mới, và phổ biến. Đó là một Hypothesis. Sau đó, tìm cách chứng minh khám phá của mình là thực, được gọi là Theory. Đến đây, thì có những cuộc tranh cãi, của những nhà khoa học, triết gia khác. Nếu được toàn thể thế giới khoa học chứng mình là “bất khả tranh luận” thì điều khám phá đó thành Luật – Law. Như luật Bảo toàn Năng Lượng, Định luật chuyển động và Vạn Vật hấp dẫn của Newton, Định luật về nhiệt, Định luật về điện từ Maxwell, Luật Tương đối của Einstein.. Trong khi đó, thì thuyết về sự biến hóa Tự Nhiên (Natural selection, The Origin of Species), thuyết Big Bang.. sẽ mãi mãi là LÝ THUYẾT – THEORY, không bao giờ là Luật cho đến ngày tận thế.
Thuyết Big Bang và thuyết Chọn lọc Tự nhiên không thể giải thích được muôn vàn câu hỏi: Tại sao hoa cỏ lại đẹp như thế? Tại sao cây cỏ có hương thơm? Tại sao có những loại chim đẹp rụng rời như chim Thiên Đường (paradise birds)? Tại sao 100% sinh vật trên trái đất, dưới biển sâu, trong rừng già đều được cấu tạo theo đúng một khuôn mẫu: có đầu, đầu có 2 mắt, có mũi, có miệng, có chỗ để nuốt vào, và có chỗ để thải ra (trừ bạch tuộc, vừa ăn, vừa tiêu hóa cùng một chỗ); sinh vật nào cũng có tứ chi, nếu không có tay thì có vây (cá), tứ chi có thể là hai tay, hai chân mà cũng có thể là có 4 chân. Sinh vật, nếu không có tay thì có cánh như chim, như bướm. Súc vật nuôi, hay thú rừng đều có hậu môn và bộ phận xả nước ở gần hậu môn. Nói chung, loài người và sinh vật, súc vật đều được cấu tạo theo môt nguyên tắc, một Luật (Law) bất di dịch là có tiêu thụ và có thải bã. Một điều thích thú đáng ngạc nhiên là với những con thú khổng lồ của thời tiền sử như Carcharodontosauridae, T-Rex.. nặng vài tấn, dài cả 10-12 mét mà có thể đứng và chạy rất nhanh trên 2 chân, không đổ nghiêng ngả! Lý do, bắp đùi của chúng và chân dưới của chúng tạo thành một góc nhọn, với nhiều đường gân bọc theo nhiều hướng, để có thể chạy mà xương đùi không đâm lủng ruột nếu được chế tạo thẳng đứng.
Thưa huynh Tuệ Tôn,
Vì thế, để tránh một sự tranh cãi vô lý về tôn giáo, tôi đã không phân tích những lý luận mà huynh đã viết trong bài tiểu luận có tính khoa học này, mà chỉ thưa chuyện về tín ngưỡng mà chúng tôi đang tin tưởng mà thôi. Cá nhân tôi cũng tin rằng Phật Giáo là một Đạo chính nghĩa, chân thực, với triết lý cao diệu, nhằm đưa nhân loại đến chỗ hạnh phúc. Tôi kính ngưỡng Đức Thế Tôn, vì từ sau khi di cư vào Nam, tôi ở với Dì tôi, một Phật Tử thuần thành, đã biến nhà mình thành một nơi thờ phượng Đức Phật. Mỗi chủ nhật, thằng bé 11 tuổi vẫn lẽo đẽo theo Dì đến Chùa, nghe giảng kinh. Về nhà, mỗi ngày vẫn nằm gần bên Dì nghe Dì tụng kinh đến khi ngủ thiếp. Khi lớn lên một chút, không ở với Dì nữa, thì Dì cho tôi một cuốn sách về Đạo Phật, loại cổ thư, giấy mỏng lét, chữ nhỏ xíu, trình bầy rõ nét về Đạo Phật, về Bát Chánh Đạo, Tứ Diệu Đế… Tôi say mê nghiền ngẫm, và đến thư viện tìm hiểu thêm về đạo Phật, như đọc Bát Nhã Tâm Kinh. Cách đây gần 20 năm, tôi có duyên được đọc sách của Tiến Sĩ Phật Học Dương Ngọc Dũng, Giáo Sư Phật Học. Tôi rất trân trọng cuốn này, và hay chia sẻ với bạn hữu. Do đó, cách đây hơn 10 năm, bất ngờ tôi nhận được thư mời của Cố Hòa Thượng Thích Minh Tâm, chùa Khánh Anh, Paris, mời tôi qua đàm đạo với Thầy vài ngày. Sau đó, Hòa Thượng Thích Như Điển, Đức Quốc cũng mua vé cho vợ chồng tôi qua thăm chùa và ở lại đây cho đến hết mùa tụng kinh. Khi Thầy và tôi bàn luận về đạo Phật, Thầy có nói: “Tôi không nghĩ rằng anh là Công Giáo khi anh nói về đạo Phật”.
Cách đây vài năm, tôi lại được Hòa Thượng Thích Huyền Châu mời tôi hai lần lên Saigon Performing Arts Center ở Fountain Valley, để chia sẻ về hai đề tài: Phật Giáo và Âm Nhạc, và Phật Giáo và Điêu Khắc. (Một vị Bác Sĩ, Giáo Sư Đại Học, đã giải nghệ, xuống tóc quy y tại chuà của Hòa Thượng giới thiệu tôi với Thầy). Hai bài nói này đã được Hòa Thượng Thích Huyền Châu chứng thực trước khi tôi lên sân khấu và Thầy giới thiệu tôi trước hơn 1000 tăng ni, Phật Tử. Khi gặp Thầy lần đầu tiên, tôi hỏi Thầy: “Thầy có biết con là Công Giáo không?” (Tôi kính trọng Tăng Ni nên xưng “con” mặc dù Thầy còn trẻ hơn tôi cả chục tuổi) Thầy trả lời: “Tôi biết chứ, nhưng chú hiểu về đạo Phật khá sâu sắc”. Nói chung, ở miền Nam California này, tôi có sự quan hệ thân thiết với nhiều vị Hòa Thượng. Lý do: Tôi đã mời một số vị Hòa Thượng, Thượng Tọa lên đài TV để trao đổi về Phật Sự. Ngoài ra tôi cũng đến Chùa để phỏng vấn quý vị Trụ Trì như Hòa Thượng Thích Chơn Thành về Phật Pháp rồi viết bài đăng báo “Con Đường Giải Thoát”. Hòa Thượng Thích Nguyên Trí còn nhận lời đi với chúng tôi, qua Paris, vào Quốc Hội Pháp, để nói chuyện về nhân quyền.
Vì những lý do và sự kiện trên, cá nhân tôi tối kỵ việc phê bình, nhận xét về tôn giáo trên mạng. Cho dù quý vị trí thức cao siêu, nhưng cũng không thể nào tránh khỏi những thiếu sót khi nói về tôn giáo khác, nếu quý vị không phải là Chuyên viên nghiên cứu về Tôn Giáo. Đặc biệt là trong thời đại đáng xấu hổ khi ở Mỹ có cả trăm Linh Mục bị tù vì tội sách nhiễu tình dục trẻ em, làm Giáo Hội Công Giáo phải đền cả tỷ đô la. Còn ở Việt Nam, đa số là Cha Quốc Doanh nếu muốn được tự do thờ phụng. Các linh mục Phan Khắc Từ, Vương đình Bích, Huỳnh Công Minh đã bỏ tư cách Linh Mục để làm tay sai, chỉ điểm cho Nhà Nước Cộng Sản. Vì những gương xấu như thế, giới trẻ bỏ đạo rất nhiều. Trong khi đó, đa số Tăng Ni ở Việt Nam là Công An đầu trọc, các Ma Tăng Thích Nhật Từ, Thích Chân Quang, Thích Trúc Thái Minh và một số nữa sống đời tục lụy hơn người thế trần. Một ngôi chùa lớn nhất Việt Nam lại thờ Bồ Tát Hồ Chí Minh, và để tượng họ Hồ ngang với Đức Phật. Còn ở Canada, Thích Chân Tuệ mệnh danh là Viện Phật Học Tịnh Quang Canada, chuyên gửi hình ảnh dâm bôn lên mạng để chửi bới Công Giáo một cách tục tằn kinh khủng. Hiện nay ở Việt Nam có lẽ chỉ còn hai vị Chân Tu đáng kính trọng là Hòa Thượng Thích Không Tánh và Thượng Tọa Thích Thiện Minh, mà theo thế tục thì hai vị Chân Tu này dũng cảm không khác gì những anh hùng của Dân Tộc.
Như vậy, đàm luận về Tôn Giáo thì mênh mông như biển cả, càng nói nhiều càng sai sót. Có lẽ chỉ có một vị có đủ tư cách nói về cả đạo Công Giáo và đạo Phật là Linh Mục Kim Định (1). Vì thế, tôi mạn phép ngừng ở đây, nếu có sơ sót gì, xin được quý thức giả chỉ dẫn và tha thứ cho sự mạo muội này.
Thành tâm kính chúc huynh và quý quyến Thân Tâm Thường An Lạc.
Chu Tất Tiến.
(1)-Giáo Sư, Triết Gia, Linh Mục Lương Kim Định: Thụ phong linh mục năm 1943. Năm 1943 đến 1946, Giáo Sư dạy triết học tại Đại Chủng viện Quần Phương của Giáo phận Bùi Chu. Năm 1947, Giáo Sư lại sang Pháp nghiên cứu về triết học 10 năm. Giáo Sư tốt nghiệp TRIẾT HỌC tại Học viện Công giáo Paris (Institut Catholique de Paris), và tốt nghiệp NHO HỌC tại Học viện Trung Hoa Paris (Institut des Hautes Études Chinoises), Paris. Năm 1958 Linh Mục Triết gia Kim Định dạy triết học phương Đông tại Học viện Lê Bảo Tịnh, Trường Đại Học Văn Khoa Sài Gòn, Viện Đại học Vạn Hạnh và Viện Đại học Đà Lạt. Cùng với Nguyễn Văn Thích và giáo sư Nguyễn Đăng Thục, Giáo Sư là người khai mở khoa Triết học Đông phương tại Trường Đại học Văn khoa từ năm 1958 và sau này tại vài trường đại học khác. Từ những năm 1960, Giáo Sư bắt đầu cho ra mắt một loạt những cuốn sách về minh triết Việt, mở đầu là cuốn Nguyên Nho / Cửa Khổng.
-Đính kèm: Danh sách các Khoa Học Gia Công Giáo, những vị đã đặt nền móng cho Khoa Học Hiện Đại

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét