Cách mạng Tháng Tám 1945 thường được tuyên truyền như “mốc son chói lọi” mở đầu kỷ nguyên độc lập của đất nước dân tộc Việt Nam. Nhưng với nhiều đồng bào tỵ nạn cộng sản hải ngoại và cả người dân đang sống dưới chế độ độc tài vô thần cộng sản, thì đó chỉ là khởi điểm của một chuỗi bi kịch lịch sử của dân tộc Việt Nam khi ý thức hệ Mác–Lênin cộng sản được Hồ Chí Minh du nhập vào Việt Nam. Gây cuộc nội chiến tương tàn “gà nhà bôi mặt đá nhau”, đưa dân tộc vào vòng bạo lực, độc tài giai cấp đấu tranh, “cải tạo” tẩy não tư tưởng, và chia sẽ thâm độc kéo dài đến tận hôm nay vẫn chưa kết thúc.
<!>
Bài viết này ôn lại từng giai đoạn lịch sử theo hai góc nhìn – bên thắng cuộc và bên thua cuộc gồm những chứng nhân nạn nhân cộng sản – để góp phần nhìn thẳng vào sự thật lịch sử Việt Nam dưới ách thống trị độc tài vô thần Cộng Sản.
I. Giai đoạn một (1945–1954): Giành chính quyền và gieo hạt mầm ý thức hệ cộng sản (1/3)
II. Giai đoạn 2 (1954–1975): Chiến tranh ý thức hệ và biển máu đồng bào vô tội (2/3)II. Giai đoạn 2 (1954–1975): Chiến tranh ý thức hệ và biển máu đồng bào vô tội (2/3)
Giai đoạn I đã phổ biến.Xin tiếp Giai Đoạn II
II. Giai đoạn 2 (1954–1975): Chiến tranh ý thức hệ và biển máu đồng bào vô tội (2/3)II.
Tôi còn nhớ hai câu thơ không biết tác giả là ai đăng trên tờ nhật báo Tia Sáng hay Tin Sáng trước khi rời Hà Nội di cư vào Nam năm 1954:
“Hôm qua trên tà áo mới em đợi anh về,
Hôm nay là ngày đình chiến, Ai chia Nam Bắc cho đời hết xanh!
2.1. Hiệp Định Genève 1954 chia đôi đất nước và một lựa chọn lịch sử
Sau gần chín năm chiến tranh Đông Dương, Hội nghị Genève được triệu tập nhằm tìm kiếm một giải pháp chấm dứt xung đột tại Việt Nam. Hội nghị khai mạc ngày 26 tháng 4 năm 1954 và kéo dài nhiều tháng trong bối cảnh cục diện quốc tế Chiến tranh Lạnh đang định hình trật tự thế giới sau Thế chiến II.
Một mốc lịch sử quan trọng thường bị cố ý làm lu mờ trong các sách giáo khoa cộng sản sau này, là ngày 7 tháng 7 năm 1954, khi chí sỹ Ngô Đình Diệm chính thức chấp chánh Thủ Tướng Quốc gia Việt Nam, do Quốc trưởng Bảo Đại bổ nhiệm, thì chỉ 13 ngày sau, vào đêm 20 rạng 21 tháng 7 năm 1954, Hiệp định Genève về Việt Nam được ký kết.
Việc sắp đặt thời gian này không phải ngẫu nhiên: Một chính phủ quốc gia non trẻ, vừa hình thành, đã bị đặt trước một “sự đã rồi” do các cường quốc quyết định.
2.2. Nội dung Hiệp định Genève và vấn đề chữ ký
Hiệp định Genève 1954 quy định:
-Ngừng bắn tại Việt Nam.
-Tạm thời chia cắt đất nước tại vĩ tuyến 17.
-Dự trù tổng tuyển cử thống nhất trong vòng hai năm (1956).
Tuy nhiên, về mặt pháp lý, cần nhấn mạnh một sự thật căn bản:
Quốc gia Việt Nam không ký Hiệp định Genève.
2.3. Các bên ký kết gồm:
-Pháp-
-Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
-Liên Xô, Trung Cộng, Anh (với tư cách bảo trợ)
Phái đoàn Quốc gia Việt Nam, do Ngoại trưởng Trần Văn Đỗ dẫn đầu, tham dự hội nghị nhưng kiên quyết từ chối không ký tên vào hiệp định chia đôi đất nước.
2.3. Tuyên bố lịch sử của Ngoại trưởng Trần Văn Đỗ
Tại hội nghị, Ngoại trưởng Trần Văn Đỗ đã long trọng tuyên bố lập trường của Quốc gia Việt Nam, đại ý:
-Không chấp nhận việc chia cắt đất nước Việt Nam.
-Không công nhận bất kỳ hiệp định nào được quyết định trên đầu người Việt mà không có sự đồng thuận của dân tộc.
-Không coi vĩ tuyến 17 là một biên giới chính trị hay pháp lý.
Lập trường này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, bởi nó xác lập rõ ràng rằng:
Quốc gia Việt Nam và sau này là Việt Nam Cộng Hòa không bị ràng buộc pháp lý bởi Hiệp định Genève 1954.
Đây không chỉ là một thái độ chính trị, mà là một tuyên bố pháp lý minh bạch trước cộng đồng quốc tế.
2.4. Hồi ức bên lề: tiếng sáo ở Genève
Trong ký ức của tôi – và của nhiều người cùng thời – Hội nghị Genève không chỉ là những bàn đàm phán lạnh lùng. Tôi còn nhớ hình ảnh nhân sỹ Võ Thành Minh thổi sáo bên hồ Leman, Genève 1954, trong suốt những ngày hội nghị diễn ra. Tiếng sáo ấy, trong trí tưởng của tôi khi ấy, như một lời than vãn cho vận mệnh đất nước: Một dân tộc nhỏ bé, chưa kịp tự quyết, đã bị lôi kéo vào cuộc mặc cả giữa các cường quốc.
Hình ảnh ấy vẫn mang giá trị biểu tượng sâu sắc: vận nước được quyết định trong phòng kín, còn tiếng lòng dân tộc Việt Nam thì lạc lõng bên ngoài.
2.5. Lựa chọn của chính quyền Ngô Đình Diệm
Khi nhậm chức ngày 7 tháng 7 năm 1954, Thủ Tướng Ngô Đình Diệm đã phải đối diện với một thực tế nghiệt ngã:
-Một đất nước bị chia đôi.
-Một hiệp định mà chính phủ ông không ký.
-Một đối phương cộng sản đã kiểm soát miền Bắc bằng bạo lực và thanh trừng.
Trong bối cảnh đó, chính quyền Ngô Đình Diệm lựa chọn:
-Không công nhận Hiệp định Genève.
-Không tổ chức tổng tuyển cử dưới sự kiểm soát của cộng sản.- tập trung xây dựng một thực thể quốc gia ở miền Nam, dựa trên nguyên tắc chủ quyền và tự quyết.
Dù lựa chọn này còn gây nhiều tranh cãi, nhưng xét trên phương diện lịch sử và pháp lý, đó là một lựa chọn có cơ sở, chứ không phải là hành động “phá hoại hòa bình” như cộng sản Việt Nam tuyên truyền sau này.
2.6. Kết luận hiệp ước Genève
Hiệp Định Genève năm 1954 là một ngã rẽ lịch sử. Sự chia cắt đất nước không phải là kết quả của ý chí toàn dân Việt Nam, mà là sản phẩm của thế cờ quốc tế. Trong hoàn cảnh ấy, việc Quốc Gia Việt Nam từ chối ký Hiệp định Genève là một hành động giữ gìn danh dự và chủ quyền pháp lý, dù phải trả giá bằng một cuộc chiến kéo dài thêm hai thập niên.
Chương sử này cần được nhìn lại một cách công bằng: không tô hồng, không bôi đen, nhưng trả lại cho lịch sử đúng tên gọi của sự việc và đúng vị trí của những lựa chọn đã được thực hiện.
Trong khi đó, miền Nam phát triển, đất đai trù phú, đã cưu mang hơn một triệu đồng bào di cư từ Miền Bắc, xuống Miền Nam năm 1954 để tỵ nạn cộng sản, bỏ cả quê cha đất mẹ, nơi “chôn nhau cắt rốn”, mồ mả tổ tiên của mình. Nhưng nhờ ở Miền Nam đất đai trù phú, sông nước nhiều thủy sản, người nông dân cấy cày làm ăn đỡ vất vả hơn Miền Bắc rất nhiều, nên chẳng bao lâu, người di cư làm ruộng, trồng cây ăn trái, làm nghề đánh cá, thương mại các ngành đều trở thành giàu có hơn lúc còn ở Miền Bắc, Miền Trung từ vỹ tuyến 17 trở lên Miền Bắc, đất cày lên sỏi đá, lũ lụt, hạn hán liên tục. Có lần mất mùa cả chục năm liền. nên cuộc sống khó khăn, tần tiện hơn đồng bào Miền Nam. Tôi còn nhớ khi mới vào Nam, mua cái gì đáng giá 50 xu, đưa trả tờ giấy một đồng, thì người bán hàng Miền Nam liền xé đôi tờ giấy bạc một đồng thành hai nửa tờ giấy bằng nhau, trả lại cho người mua nửa tờ giấy một đồng.
Về quân sự, lúc đó Miền Nam chia thành nhiều giáo phái, mỗi giáo phái có quân đội riêng hùng cứ một phương. Nhưng về sau quân lực Việt Nam Cộng Hòa lớn mạnh, các lực lượng quân sự giáo phái đều sáp nhập thành Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa lớn mạnh nhất vùng Đông Nam Á cho tới ngày mất nước.
Về kinh tế, hầu như đều do người Hoa buôn bán, nắm giữ độc quyền ở Chợ Lớn, chợ Kim Biên, Saigon. Nhưng sau khi Thủ Tướng Ngô Đình Diệm ký sắc lệnh cấm Người Hoa buôn bán “bảy nghề” quan trọng, thì lúc đó người Hoa mới đổi sang quốc tịch Việt Nam: Gọi là người Việt gốc Hoa. Tôi còn nhớ lúc đó đa số các tiệm ăn, cà phê bình dân đều do người Hoa làm chủ, bán hủ tíu và cà phê dớ (cà phê cho vào một cái túi vải lớn bằng chu vi cái chén (bát) ăn cơm, trên miệng túi vải có quai dây kẽm cầm tay. Nấu nồi nước sôi lớn, rồi nhúng túi cà phê vào trong đó, nhấc túi lên xuống vài lần là có cà phê đậm đặc ngay. Múc ra chén hay cái bát sành nhỏ ăn cơm, để trên cái đĩa sành sâu, những khách bình dân, lao động, tới uống cà-phê, thường co ro ngồi cả hai chân lên ghế đẩu uống cà phê dớ nóng. Nếu nóng quá thì đổ dần cà phê ra đĩa rồi uống bằng đĩa cho bớt nóng. Nhưng chẳng bao lâu, người di cư Miền Bắc vào nấu phở, bún bò Huế, cạnh tranh với Hủ tíu Mỹ Tho, cà phê phin, mà sau 1975 có một số người trẻ cộng sản gọi là “cái nồi ngồi trên cái cốc” vv...với chỗ ngồi ăn uống tươm tất. Khiến người Hoa cũng phải làm theo rồi các tiệm cà phê dớ cũng mất dần, không nhiều như trước nữa.
Về sắc phục, đàn ông con trai ăn mặc giống nhau, Phụ nữa Miền Bắc thời phong kiến mặc váy, có câu ca dao mà tôi còn nhớ: “Cái thúng mà thủng hai đầu, bên Tây thì có bên Tàu thì không”. Sau đó có lệnh vua cấm mặc váy, đổi sang mặc quần, với cái quần thâm hẹp gấu và cái áo cánh màu nâu nhuộm bằng "vỏ xó " hay "củ nâu" mà ai cũng tự nhuộm được bằng cách lấy vỏ xó hay củ nâu có màu nâu giã nhỏ ngâm vào nước cho màu tan ra, gạn lấy nước trong, rồi lấy vải trắng, thường là "vải trúc bâu Nam Định” nhúng vào đó cho đều, vắt khô, phơi nắng. Lúc đầu vải ngả sang màu nâu nhạt. Nhưng cứ làm thế nhiều lần nó sẽ trở thành màu nâu thẫm theo ý muốn. Nếu muốn nhuộm thâm thì lấy bùn dưới ao pha loãng, rồi nhúng vải nâu vào đó cho đều rồi đem phơi nắng, làm như thế nhiều lần nó sẽ có màu thâm đen như ý muốn để làm váy hay quần thâm. Đàn bà con gái hay nhuộm răng đen, đó là tôi nhớ theo thời phong kiến khi còn nhỏ. Nhưng đến năm 1954 cách ăn mạch cát tân rất nhiều so với thời phong kiến. Còn phụ nữ Miền Nam năm 1954 thì mặc quần rộng ống, áo cánh đen, trên cổ có khoác tấm vải rằn ri. Nhưng hơi rộng chứ không hẹp như phụ nữ Miền Bắc, thắt đáy lưng ong. Tôi còn nhớ hồi di cư 1954, quần ống rộng và quần ống hẹp cũng có lúc trở thành mạn đàm thời sự. Tôi còn nhớ Học Giả Vương Hồng Sển đã có lần nói “mặc quần ống rộng để đi tiểu cho nó dễ”. Viết tới đây tội lại nhớ mười năm tù tội cộng sản, lúc còn ở Trại Tù Yên Bái, do bộ đội cộng sản giam cầm, nhà giam không khóa cửa, nhưng ban đêm tù nhân muốn đi tiêu đi tiểu thì ra khỏi nhà giam phải hét lớn: “Báo cáo cán bộ tôi đi tiểu”. Cán bộ trên vọng gác hỏi: “Đi tiểu là cái gì? Tù nhân đáp: “Đi tiểu là đi đái”. Cán bộ nói: “Đi đái thì nói là đi đái, còn bày đặt nói đi tiểu làm gì? Đêm hôm sau tù hữu này lại đi tiểu và rút kinh nghiệm đêm hôm qua, hô lớn: “Báo cáo cán bội tôi đi đái”. Cán bộ trên vọng gác nói: Anh kia bất lịch sự, đi tiểu mà nói là đi đái”! Vì thế, Học Giả Vương Hồng Sển đã nói theo kiểu đi đa...chứ không nói theo kiểu đi ti...
Tôi cũng thích người Miền Nam thật thà, chân chất, rộng rãi, hiếu khách, vì đất đai màu mỡ, mưa gió thuận hòa, đầm đìa, vũng nước quanh nhà lúc nào cũng có nhiều cá, nên có của ăn của để dư thừa, chứ không tằn tiện như người Miền Bắc. Vì Miền Bắc có nhiều giông bão làm hư hại mùa màng thóc lúa. Đê Văn Giang vỡ lở 18 năm liền, cho nên người nông dân Miền Bắc ngay cả những năm được mùa có nhiều thóc gạo cũng vẫn tằn tiện, không dám tiêu pha rộng rãi hoang phí như người Miền Nam. Tôi cũng thấy làm lạ khi đi tàu Marine Serpent vào Nam, lúc mới cập bến Chương Dương xuống tàu, thấy bán nhiều hột vịt lộn và nhiều thứ trái cây miền Nam. Hồi bấy giờ còn có tiền năm cắc (năm mươi xu), khi mua cái gì giá năm xu mà đưa tờ giấy một đồng (100 xu), thì người bán hàng liền xé tờ giấy một đồng làm đôi, trả lại cho người mua nửa tờ giấy một đồng. Tôi cũng sưu tầm và biết khá nhiều câu ca dao tục ngữ Miền Nam:
-Đền Saigon cái xanh cái đỏ,
Đèn Mỹ Tho cái tỏ cái lu.
Anh về học lấy chữ nhu,
Chín trăng em đợi, mười thu em chờ!
-Đường Nam Vang đi dễ khó về,
Trai đi có vợ, gái về có con.
-Bạc Liêu nước chảy lờ đờ,
Dưới sông cá chốt, trên bờ Triều Châu”
-Vý dù tình bậu muốn thôi,
Bậu gieo tiếng dữ cho rồi bậu đi!
2.8. Cuộc di cư vỹ đại từ Bắc vào Nam
Năm 1954, cũng may là có hơn một triệu người Miền Bắc di cư vào Nam, chứ nếu giả dụ ngược lại, có hơn một triệu người Miền Nam di cư lên Miền Bắc, thì chỉ có cạp đất mà ăn. Vì thế, những người Miền Nam nghe lời dụ dỗ ngon ngọt của cộng sản di cư tới Miền Bắc, là đã thấy đời tàn ngay tức khắc!
2.9. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA VIỆT NAM CỘNG HÒA 1954–1975
Sau Hiệp định Genève năm 1954, Việt Nam tạm thời bị chia đôi ở vĩ tuyến 17 mà thực địa là Sông Bến Hải: miền Bắc do Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa kiểm soát, còn miền Nam thuộc Chính phủ Quốc gia Việt Nam dưới quyền Quốc trưởng Bảo Đại. Trong hoàn cảnh rối ren, quyền lực phân tán giữa các phe nhóm, chí sỹ Ngô Đình Diệm được Bảo Đại cử làm Thủ Tướng để chấn chỉnh tình hình. Thủ Tướng Ngô Đình Diệm kiên quyết thống nhất quân đội các giáo phái vào Quân đội Quốc Gia, dẹp tan nạn cát cứ, đặt nền tảng cho một chính quyền trung ương vững mạnh.
Sau cuộc trưng cầu dân ý năm 1955, Thủ Tướng Ngô Đình Diệm vì tình hình bất khả kháng và do như cầu chính trị của các đoàn thể Phong Trào Cách Mạng chống cộng thời đó, đã nhất định cương quyết khuyên ngăn Thủ Tướng Ngô Đình Diệm sang Paris theo lệnh triệu hồi của Quốc Trưởng Bảo Đại muốn thay thế Thủ Tường Ngô Đình Diệm. Phong Trào Cách Mạng Quốc Gia đòi phế truất Bảo Đại, tuyên bố thành lập Việt Nam Cộng Hòa và Thủ Tướng Ngô Đình Diệm trở thành Tổng Thống đầu tiên của Việt Nam Cộng Hòa. Dưới thời ông, miền Nam nhanh chóng ổn định: trật tự xã hội được vãn hồi, kinh tế được khôi phục, giáo dục và y tế được chú trọng. Các Khu Trù Mật được thiết lập để an cư cho hơn một triệu đồng bào di cư từ miền Bắc, trốn chạy chủ nghĩa cộng sản, tạo nên một miền Nam sinh động, trù phú, đầy sức sống.Mà bây giờ nhưng người Việt Nam tỵ nạn cộng sản hải ngoại và trong nước nhớ lại thời kỳ vàng son đã mất đó vẫn không khỏi nuối tiếc!
Sài Gòn, thủ đô của Việt Nam Cộng Hòa, từng được mệnh danh là “Hòn Ngọc Viễn Đông” – trung tâm thương mại, văn hóa và tự do báo chí bậc nhất Đông Nam Á. Nhưng trong khi Miền Nam Việt Nam Cộng Hòa đang trên đà phát triển, thì Miền Bắc lo sợ sự thịnh vượng ấy sẽ khiến chế độ cộng sản Miền Bắc nghèo khổ, mất chính danh chính nghĩa, nên đã phát động chiến tranh du kích, gài mìn, đặt bom, phá cầu, phá đập nước Đa Nhim, ám sát cán bộ xã ấp, gieo rắc bạo lực khắp nơi, nhằm phá hoại nền an ninh và kinh tế phồn thịnh của miền Nam.
Từ đó, đất nước bị cuốn vào cuộc chiến tranh ý thức hệ kéo dài hơn hai mươi năm, mà hậu quả là hàng triệu sinh mạng vô tội bị hy sinh. Thay vì cùng nhau xây dựng một Việt Nam hòa bình, độc lập và phú cường, dân tộc đã phải chịu đựng một hành trình đẫm máu, do tham vọng thống trị của chủ nghĩa độ tài cộng sản vô thần áp đặt lên toàn cõi Việt Nam. Mặc dù Việt Nam Cộng Hòa non trẻ, cũng có sai lầm chính trị khởi đầu mà nền dân chủ trưởng thành nào cũng đã kinh qua mắc phải ít nhiều sai sót lỗi lầm tương tự như thế. Nhất là trong khi vừa phải chiến đấu với chủ thuyết độc tài vô thần cộng sản gian dối quỷ quyệt. Lại bị đồng minh bỏ rơi bức tử. Nhưng người Việt tỵ nạn cộng sản hải ngoại sau 50 năm trên đất khách quê người cùng khắp các nơi trên thế giới vẫn luôn luôn giữ vững tinh thần Quốc gia chống cộng. Vẫn luôn nhớ lời Tổng Thống Ngô Đình Diệm: "Tôi tiến, hãy tiến theo tôi. Tôi lùi, hãy giết tôi. Tôi chết, hãy noi gương tôi" và lời của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu: “Đừng nghe những gì cộng sản nói, mà hãy nhìn kỹ những gì cộng sản làm”, “Đất nước còn, còn tất cả, đất nước mất, mất tất cả”!
2.10. Cuộc đảo chánh 1+2 tháng 11 năm 1863
Xin coi bài viết đã phổ biến: CUỘC ĐẢO CHÍNH NGÀY 1 THÁNG 11 NĂM 1963
PHÂN TÍCH NGUYÊN NHÂN ĐA TẦNG DỰA TRÊN TÀI LIỆU GIẢI MẬT ngày 05/11/25
2.11. Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam Việt Nam, con đẻ của Cộng Sản Miền Bắc
Từ 1960, Cộng Sản Hà Nội lập “Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam Việt Nam”, đưa người và vũ khí xâm nhập, biến Việt Nam Cộng Hòa thành chiến trường ủy nhiệm của Chiến Tranh Lạnh trong Khối Tự Do và Liên Xô Cộng Sản. Các sự kiện Tết Mậu Thân 1968 cộng sản Miền Bắc vi phạm thời gian ngưng chiến ăn tết, đã nổi dậy tổng tấn công khắp Miền Nam Việt Nam Cộng Hòa. Việt Cộng đã chiếm được cố đô Huế trong ba tuần lễ, Và trước khi bị Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đánh bật ra khỏi Huế, Cộng Sản đã thảm sát thường dân và tù binh Việt Nam Cộng Hòa vào khoảng từ hai ngàn tám trăm (2800) đến sáu ngàn (6000) nhân mạng bằng vũ khí, lưỡi lê, cuốc, xẻng và cả xô xuống khe đá chôn sống, trước khi rút lui. Những con số này là những ước tính có chuẩn mực trên mạng xã hội chứ không phải do người viết tưởng tượng ra.
Mùa Hè Đỏ Lửa 1972 cũng là những cuộc chiến cho thấy quy mô hy sinh khủng khiếp của Quân-Dân-Cán-Chính Việt Nam Cộng Hòa. Tổng số người chết trong trong chiến tranh ý thức hệ Tự Do – Cộng sản (1955-1975) là vào khoảng hai triệu (2.000.000) đến ba triệu tám trăm ngàn (3.800.000) nhân mạng, ước tính phổ biến nhất là ba triệu (3.000.000) sinh mạng, bao gồm: Một triệu một trăm ngàn (1.100.000) quân nhân “Sinh Bắc Tử Nam” và từ khoảng hai trăm ngàn (200.000) đến hai trăm năm mươi ngàn (250.000) Quân Nhân Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa và các thường dân ở cả Hai Miền Nam Bắc. Không kể tới năm mươi tám ngàn (58,000) binh sỹ Hoa Kỳ đã tử nạn tại Việt Nam trong cuộc chiến Việt Nam là tiền đồn chống cộng cho Thế Giới Tự Do.
2.12. Một cuộc nội chiến Quốc-Cộng “gà nhà bôi mặt đá nhau” cho tới một mất một còn, với biết bao mồ hôi, nước mắt, ly tán, chết thảm khốc như vậy mà Tổng bí Thư đảng cộng sản Lê Duẩn hung hăng tuyến bố: Ta đánh Mỹ-Ngụy là đánh cho Liên Xô, Trung Quốc!
Còn Tổng Bí Thư cộng sản Đỗ Mười thiến heo, thì tuyên bố: “ Giải phóng miền Nam, chúng ta có quyền tịch thu tài sản, trưng dụng nhà cửa, hãng xưởng, ruộng đất chúng nó. Xe chúng nó ta đi, vợ chúng nó ta lấy, con chúng nó ta bắt làm nô lệ. Còn chúng nó thì ta đày đi lao động khổ sai vùng kinh tế mới vào nơi rừng sâu nước độc. Chúng nó sẽ chết lần mòn… ” thì còn có Trời Đất nào chứng giám cho tội ác Cộng Sản trời không dung đất không tha, người không quên nữa hay không?
Mà quả thật là như thế, tôi đi “tù cải tạo” cộng sản mười năm, thì hai năm ở Miền Nam và tám năm ở Miền Bắc. Di chuyển đến trại mới nào cũng là “chém tre đẵn gỗ trên rừng, hữu thân hữu khổ phàn nàn cùng ai”. Và sau khi làm nhà cửa, lán trại cư trú xong là “đào ao nuôi cá Bác Hồ” nhưng không thấy ao nào có thả cá giống, nuôi cá cả. Tôi thầm nghĩ trong lòng, đó chẳng qua là cái mồ chôn tập thể, cộng sản đề phòng khi có biến động, có tuyệt thực, có nổi loạn không đàn áp được thì sẽ thảm sát, quăng xác tù nhân xuống “ao cá Bác Hồ” rồi vùi đất lên là xóa hết tăm tích.
Tất cả những oan khuất mất mát người, của trong cuộc nội chiến ý thức hệ đó của cộng sản, “hèn với giặc, ác với dân”. Tất cả đều do tội ác của Hồ Chí Minh, của Đảng Cộng Sản Việt Nam, là một vết nhơ rất lớn trong lịch sử bốn ngàn năm văn hiến của dân tộc Việt Nam mà cộng sản không thể tẩy xóa đi được. Vì cuộc nội chiến Quốc-Cộng là hoàn toàn do Đảng Cộng Sản Việt Nam gây ra. Còn Việt Nam Cộng Hòa chỉ là nạn nhân bị bức tử.
Vì nếu giả dụ Hiệp Định Genève 1954 chia đôi hai Miền Nam Bắc, mà cả hai bên không hiếu chiến, cứ an phận thủ thường, lo cho dân giàu nước mạnh như Đông Đức Tây Đức, thì chỉ 14-15 năm sau (1975-1989) khi chế độ Cộng Sản Đông Âu sụp đổ, kéo theo Liên Bang Xô Viết (1917-1991) tan rã thì dân tộc Việt Nam đã đứng đầu các nước Đông Nam Á, đâu có khốn khổ, nghèo khó như bây giờ! Cùng lắm nếu chưa thống nhất được thì chí ít cũng như Nam Bắc Hàn là cùng, đâu có tốn nhiều đến xương máu đồng bào hai Miền Nam Bắc đến như thế!
Đâu đến nỗi, ước lượng có tám trăm ngàn (800.000) thuyền nhân vượt biển trốn chạy cộng sản vào năm 1975, và đã có tới từ khoảng hai trăm ngàn (200.000) tới bốn trăm ngàn thuyền nhân (400.000) đã chết trên biển cả trong những con thuyền mong manh, do đắm tàu, bão tố, thiếu lương thực nước uống, bị cướp biển tấn công, hãm hiếp, bệnh tật. Và có sáu trăm ngàn (600.000) thuyền nhân đã tới bến bờ tự do tại các nước Đông Nam Á như: Malaysia, Indonesia, Hong Kong, Thái Lan, Philippines, Singapore vv… rồi từ đó được đi dịnh cư tại các nước trên thế giới tự do. Những số liệu này là do UNHCR Liên Hợp Quốc và tài liệu lịch sử ghi chép. Con số 600.000 thuyền thân sống sót là tương đối chính xác. Còn con số nạn nhân vượt biển vượt biên thì theo ước lượng còn nhiều hơn thế nữa, vì có nhiều con tàu, thuyền chìm đắm trên biển cả, vô tăm tích, Liên Hiệp Quốc không thể ước lượng được!
Và như thế, cái mà cộng sản gọi là “Giải phóng” Miền Nam ngày 30/4/1975 thực chất là sự áp đặt hệ thống độc tài vô thần cộng sản trên toàn quốc, dẫn đến làn sóng thuyền nhân tỵ nạn cộng sản khổng lồ bị giết, bị hãm hiếp và bị chết chìm trên biển với những ghe thuyền mỏng manh không chút an toàn, làm mồi cho cá, bị hải tặc hãm hiếp, cũng chỉ vì hai chữ Tự Do! Một câu nói đáng ghi nhớ trong giai đoạn vượt biên vượt biển là: “Một là con nuôi má, hai là má nuôi con, ba là con nuôi cá”.
[Hết giai đoạn II. Xin coi tiếp Giai Đoạn III].
Nguyễn Xuân Tùng
Diễn Đàn Kitô-hữu
25-09-22

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét