Nhìn Ra Bốn Phương

Thứ Sáu, 27 tháng 6, 2025

TRUNG TƯỚNG NGÔ QUANG TRƯỞNG, - Phan Nhật Nam


1 ĐỜI TRUNG LIỆT, 3 LẦN GIỮ NƯỚC. P2.
Phan Nhật Nam
LẦN GIỮ NƯỚC THỨ HAI
Đêm Giao Thừa 1967 sang 1968, Đài Hà Nội phát ra lời “Thơ Chúc Tết” của Hồ Chí Minh có nội dung: Xuân nầy hơn hẳn mấy xuân qua Thắng lợi tin vui khắp mọi nhàNam -Bắc thi đua đánh giặc Mỹ Tiến lên toàn thắng ắt về ta! -  Pháo ở Sài Gòn, các thành phố Miền Nam nổ nhiều hơn tất cả mọi năm. Nương theo tiếng pháo nầy, bộ đội chính quy miền Bắc, lực lượng vũ trang giải phóng, du kích địa phương cộng sản miền Nam đồng nổ súng hiện thực lời “Thơ Chúc Tết” trên.
<!>
Đêm Mồng 1 rạng Mồng 2 Tết Mậu Thân, 1968, Huế, thành phố cổ hơn trăm năm, kinh đô của Nước Việt thuở hưng thịnh, lặng chìm vũng tối. Nhưng, bất thình lình, cảnh tượng bình lặng nầy bị xé rách bởi tiếng đạn súng cối, hỏa tiễn rít ngang bầu trời nháng lửa soi bóng dáng chập chờn những hình người mang lá nguỵ trang lẫn lút nương theo màn đêm trên những lối đi dưới tàng cây, lề đường kín cửa. Lực lượng cộng sản đánh Huế phối trí trận địa theo kế hoạch:

- Đoàn 5 do Nguyễn Vạn chỉ huy gồm những đơn vị K4A, K4B, K10 và Tiểu Đoàn 12 ĐặcCông phối hợp với Thành Đội Huế từ vùng núi thượng nguồn sông Hương hành quân bôn tập tấn công những cơ sở chính quyền, chiếm lĩnh vùng dân cư hữu ngạn con sông, phía Nam thành phố.

- Đoàn 6 gồm có các Tiểu Đoàn K1, K2, K6 và 12 Đặc Công với bốn đại đội cơ hữu 15, 16, 17, 18 tăng cường một đại đội súng phòng không, toàn bộ lực lượng địa phương thuộc hai quận Hương Trà, Phong Điền và hai đại đội Biệt động có nhiệm vụ tấn công từ hướng Bắc vào các mục tiêu: Bộ Tư Lệnh SĐ1BB đóng tại Mang Cá; sân bay Tây Lộc; Đại Nội hoàng thành Huế.

Hai lực lượng trên được chi viện thêm các Tiểu Đoàn 416, 418 thuộc Đoàn 9 xuất phát từ vùng núi thung lũng A-Sao Tây-Nam Huế. Đơn vị nầy trước chiến dịch mang danh hiệu Cù Chính Lan, tên một thủ trưởng đã chỉ huy đoàn nầy trong chiến dịch Hòa Bình, Bắc Việt, 1951. Vào giai đoạn sau của chiến dịch, lực lượng cộng sản được Đoàn 8 (Hậu thân Trung Đoàn Sông Lô) tăng cường, bôn tập về Huế từ mật khu hướng Tây-Bắc.

Mũi tiến công chính do Thủ Trưởng Đoàn 6, Nguyễn Trọng Dần chỉ huy đánh chiếm tất cả cơ sở quân sự trú đóng trong khu thành nội một cách nhanh chóng; ngoại trừ sân bay Tây Lộc, các cơ sở trên đều bị chiếm đóng dễ dàng bởi chỉ do các đơn vị chuyên môn, không tác chiến phòng thủ. Đoàn nầy còn có nhiệm vụ lớn, “bắt sống Tướng Trưởng” giải về Bắc.

Trận phản công liên quân Việt- Mỹ đã diễn ra rất mực hào hùng vì chiến trường nầy đã có mặt từ trước những đơn vị ưu tú nhất của hai quân lực: Sư Đoàn 1 Bộ binh/VNCH với đại đội xung kích trinh sát lừng lẫy Hắc Báo; Chiến Đoàn1Nhẩy Dù tăng phái gồm các Tiểu Đoàn 2, 7, 9 dưới quyền của Trung Tá Lê Quang Lưỡng. Về phía Mỹ có Tiểu Đoàn 2 Trung Đoàn 5 TQLC với chi đoàn thiết vận xa cơ hữu; Chiến Đoàn Đặc Nhiệm X-Ray do Tướng Foster Lahue, cựu chiến binh của Thế Chiến II và Triều Tiên chỉ huy gồm ba tiểu đoàn TQLC. Ngoài ra phải kể đến hai lực lượng mạnh, hai Lữ Đoàn 1 và 2 thuộc Sư Đoàn Nhẩy Dù 101 Mỹ đóng tại Phú Bài, và một Lữ Đoàn Không Kỵ (Air Cavalry) chiếm giữ vùng núi Tây-Nam Huế, ứng chiến cho chiến trường Khe Sanh. Tất cả lực lượng quan trọng tinh nhuệ nầy đã hoàn thành nhiệm vụ một cách xuất sắc theo diễn tiến sau:

Đại Đội Hắc Báo, thành phần xung kích, trinh sát Sư đoàn I Bộ Binh (đơn vị đại đội QLVNCH có huy chương tuyên công nhiều nhất từ hai chính phủ Việt, Mỹ, kể cả những đơn vị biệt lập của quân lực đồng minh), có nhiệm vụ trấn giữ khu Đại Nội, Điện Thái Hòa, nơi thiết triều của các Vua Triều Nguyễn. Nhưng Đại Úy Phan Gia Lâm chỉ huy đại đội nầy với quân số thiếu hụt (do số lớn binh sĩ đã về nhà ăn tết) không thể nào chống cự nổi mũi tiến công một tiểu đoàn vào khu vực đại nội. Sau năm giờ cầm cự, 5 giờ sáng ngày Mồng 2, đại đội của Lâm phải rút ra khỏi khu cấm thành để cố thủ kỳ đài, nhưng cuối cùng, lúc 8 giờ sáng, ổ kháng cự kỳ đài cũng đành lâm chịu thất thủ. Lá cờ ba “ngôi sao vàng giữa hai nửa xanh, đỏ” của Mặt Trận Giải Phóng được bộ đội cộng sản kéo lên trên nền trời mù sương xứ Huế ngày mưa phùn.

Nhưng lần mất sân bay Tây Lộc, Đại Nội chỉ là những tai nạn ắt có đầu tiên phải gánh chịu, phía VNCH lập tức phản công với những đơn vị chưa hề thất bại. Tiểu đoàn 2 Nhẩy Dù đơn vị từ lúc mới thành lập 1965 (do Thiếu Tá Lê Quang Lưỡng chỉ huy) đã đánh những trận mở đầu ở Bà Điểm, ngoại ô Sàigòn 1966, vùng Phi Quân Sự 1967, để nên thành đơn vị được xuất sắc tuyên công chỉ sau ba năm thành lập. Đêm mồng 1, từ Quận Quảng Điền, đông-bắc Thị Xã Huế, đơn vị đã hành quân cấp tốc chạy qua cây số với tất cả sức nặng ba-lô vũ khí trên lưng người lính. Nhưng lần chạy việt dã băng đồng khó nhọc nầy không hoàn toàn bình an vì quân cộng sản đã phục kích ngay trên đoạn đường độc đạo từ quận lỵ đổ ra Quốc Lộ 1 ở An Lỗ, trên cầu sông Bồ, tuy nhiên tiểu đoàn cũng đã kịp đến cầu An Hòa, (cửa ngỏ đường lên phía bắc, hướng Quảng Trị), hiệp đồng với đơn vị bạn, Tiểu Đoàn 7 Dù, đánh qua mục tiêu làng Đốc Sơ, chiếm giữ đầu cầu, cắt đường tiếp vận về những căn cứ, mật khu cộng sản thuộc vùng Phong Điền, An Lỗ, Cổ Bi, Hiền Sĩ. Những căn cứ địa vùng Tây-Bắc Thừa Thiên - Huế đã nổi tiếng từ chiến tranh 1946-54 là những an toàn khu bất khả xâm phạm. Từ cầu An Hoà vào đến đồn Mang Cá, bản doanh Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh chỉ hơn cây số đường chim bay, nhưng hai tiểu đoàn Dù 2 và 7 phải mất một ngày sau mới vào tới được. Nơi nầy, Chuẩn Tướng Ngô Quang Trưởng đang đích thân chỉ huy cuộc chống đở với nón sắt, áo giáp, súng cá nhân như một khinh binh. Hai đơn vị Dù đi hết đoạn đường ngắn ngủi kia với hơn hai mươi-bốn giờ tác chiến liên tục, với kết quả số thương vong hao hụt hơn một nửa quân số cơ hữu. Trưa mồng 4, Tiểu Đoàn 9 Dù, đơn vị đã chạm địch từ đêm Giao Thừa ở mặt trận Quảng Trị với Trung Đoàn 812 cộng sản Bắc Việt được không vận về Huế tiếp sức với hai tiểu đoàn nhẩy dù bạn bảo vệ thành Mang Cá để từ đây Tướng Trưởng chỉ huy cuộc phản công tái chiếm thành phố.

Khi Huế bị đánh, về phía Mỹ không có một lực lượng tác chiến nào trong thành phố, ngoài Bộ Chỉ Huy MACV ở sát cạnh Tiểu Khu Thừa Thiên. Mãi đến chiều ngày mồng 3 tết (2-2) mới có một đại đội TQLC đầu tiên đến tăng cường giữ MACV. Liên tiếp trong ba ngày 1, 2, 3 tháng 2, lực lượng của Tiểu Đoàn 2/5 TQLC như trên đã nói mới vào vùng hành quân với mục tiêu là Khu Đại Học Huế và Bộ Chỉ Huy MACV. Hồi 16 giờ chiều ngày 10 tháng 2, một đơn vị TQLC trực thăng vận tăng viện cho Tiểu Đoàn 2/5. Tuy thời tiết rất xấu, nhưng cuộc chuyển quân cũng hoàn tất; trong cùng lúc một tiểu đoàn TQLC khác được đưa từ Phú Bài vào Huế bằng xe. Chính quyền và dân chúng đồng lòng nô nức trước lần tăng viện mang lại phấn khởi nầy.

Giai đoạn quyết định giải tỏa mặt trận Thành Phố Huế được đánh dấu bởi lần thay thế Chiến Đoàn I Dù bởi Chiến Đoàn A TQLC/VN. Chiến đoàn nầy được không vận từ Sài Gòn đến sân bay Phú Bài, từ đây di chuyển đến cầu tàu hữu ngạn Sông Hương, dùng thuyền đổ bộ lên bến Bao Vinh để tiếp xâm nhập vào Thành Nội Huế. Chiến Đoàn A gồm ba tiểu đoàn bộ chiến do Thiếu Tá Hoàng Thông chỉ huy, khai diễn Hành Quân Sóng Thần 739/68 với mục tiêu là khu vực Tây-Nam Thành Nội Huế, để từ đây mở rộng ra hướng cầu Bạch Hổ.

Trận chiến ở khu vực TQLC được mô tả như sau dưới mắt nhìn của Nguyễn Tú, phóng viên niên trưởng của làng báo Sài Gòn ba mươi năm trước: “Đại Đội 4 Tiểu Đoàn 1 TQLC do Trung Úy Nguyễn Xuân Tòng chỉ huy; anh chỉ cho tôi hướng tiến quân:”Địch đang ở trong cái chùa cách chúng ta 30 thước và cách trường học phía bên trái 60 thước..” Bất ngờ tiếng nổ ầm cách chúng tôi khoảng mười thước, ném tung đất bùn lên đám lính đang ngồi thấp chờ lệnh. Phía cộng sản bắn hỏa tiễn vào đội hình của đoàn quân. Đại bác chiến xa đồng khai hỏa, tiếp loạt đại liên 50 ly chém gẫy cây cành, lá rơi tơi tả. Đạn súng đã bắn ra mà tiếng dội còn vang vọng trong sương mai lạnh lẽo. Trung Úy Tòng ra lệnh cho toán quân Chuẩn Úy Nhựt tiến chiếm ngôi chùa. Nhựt dẫn đầu toán lính, vừa bắn vừa chạy, tản rộng hai bên bọc lấy những bức tường của ngôi chùa, sau đó tiếp tục đánh vào mục tiêu thứ hai, khu trường học, nơi những địch quân vừa từ chùa chạy về cố thủ.. Bỗng có tiếng la lớn: “Chết cha, Chuẩn Úy Nhựt chạy trước kìa.. Đâu đã có lệnh cho lên?!” Người lính chưa kịp nói dứt lời thì tràng đạn “tắc, tắc”nổ dòn...Một bóng người ngã gục trên khoảng đất trống, cách chùa mười lăm thước.. Có ai đó đã lấy một tấm pông-sô phủ lên hình hài Chuẩn Uý Nhựt. Gần chỗ cỏ xanh loang máu đỏ lẫn với bùn, nơi Chuẩn Uý Nhựt ngã xuống cho lần giải phóng Thành Nội Huế, một chiếc nón sắt nằm trơ, ngữa lên bầu trời vẩn mây xám, mưa phùn, gió rét. Hai bên nón sắt có giòng chữ và chữ ký ngang tàng, phóng túng:”Sống bên em. Chết bên bạn” của người lính đã chết trong buổi đầu xuân. Người lính còn rất trẻ.

Mặt trận Thành Phố Huế chấm dứt với lần tham chiến của hai Tiểu Đoàn 21 và 39 Biệt Động Quân có nhiệm vụ tảo thanh khu Gia Hội, vùng cư dân nằm dọc theo Sông Đào và Sông Hương. Vùng nầy nhà cửa ít bị thiệt hại nhưng dầy đặc những hầm xác người bị thảm sát do lần rút đi trong thất bại của lực lượng cộng sản sau 26 ngày chiếm đóng. Bốn giờ chiều ngày 24 tháng Hai, năm 1968, hình ảnh bi tráng linh thiêng của chiến tranh Việt Nam hiện thực: Người Huế, những người lính chiến đấu ở Huế đồng bật khóc khi LÁ CỜ VÀNG BA SỌC lên cao trên kỳ đài giữa mù sương và mưa bay. Và cũng như lần chào cờ đầu năm cách đó 26 ngày, Chuẩn Tướng Ngô Quang Trưởng, tư lệnh toàn thể lực lượng giải tỏa thành phố Huế suốt khoảng thời gian dài kia đã không hề nghỉ ngơi, với trang bị nón sắt, áo giáp như một người lính ở đầu tuyến. Ông có mặt nơi trung tâm hành quân, theo dõi các vụ ném bom, phản pháo, cố thủ những vị trí tái chiếm, điều quân tăng viện. Ông đến đầu giường của thương binh vừa được chuyển về quân y viện, ông có mặt với những ca mổ nghiêm trọng, an ủi thân nhân binh sĩ thiệt mạng. Ông đã là tướng lãnh độïc nhất của quân lực miền Nam sống trọn vẹn với chiến trường, với mỗi người lính, khi cần có những quyết định khẩn cấp, hiệu quả kể từ ngày khởi đầu trận đánh, để đến hôm nay trong buổi oanh liệt, chỉ huy lễ thượng kỳ. Khuôn mặt khắc khổ chĩu nặng ưu tư của người chỉ huy chiến trường lặng xuống trong khoảng khắc.

Quân và Dân thật một lần bật khóc

Khi lá Cờ Vàng Ba Sọc

Lừng lững lên cao

Giữa mù sương xứ Huế mùa Xuân nào..

LẦN GIỮ NƯỚC THỨ BA.

Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, ảnh chụp tháng 3, 1975

Mùa Hè 1972, Tháng Ba, từ ngày Bắc quân khởi cuộc đại tấn công Miền Nam, thêm một lần Quảng Trị, Thừa Thiên, hai vùng đất trước tiên hứng chịu tai ương tàn khốc của bom đạn. Và người dân lại thêm một lần lập lại tình cảnh thương tâm, tay bế con, lưng cõng cha mẹ già xuôi theo Đường Số I dưới che chở độc nhất hay mối hy vọng cuối cùng - Người Lính - Lính cộng hòa ơi, cứu bà con...lính cộng hòa ơi..!! Trên đoạn đường máu La Vang, Hải Lăng, Mỹ Chánh dọc đường Số I giữa Quảng Trị và Huế không phải đôi ba người trong một tình thế riêng biệt nào đó, nhưng toàn khối dân bi thương nguy biến cùng gọi lên như thế một lần. Họ gọi với hơi thở cuối, mồm há hốc, mắt trợn đứng, khi máu chảy, nằm xuống giãy dụa, tay lần chuỗi hạt, mắt nhắm nghiền, trên đầu, chung quanh đại pháo Bắc quân nổ liên hồi, nổ tàn ác.. Đạn nổ không bỏ sót một phần đất, không quên một thân người.. Lính Cộng Hòa ơi! Người dân rất nhiều lần kêu lên như thế. Nhưng hôm nay, tháng 5, 1972 người Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế nhất định trở về, sống lại cùng làng xưa, chốn cũ bởi: Ông Trưởng đã ra Huế! Ông Trưởng đã tới ngoài Huế rồi bà con ơi! Người dân hăm hở,ï tin tưởng thúc dục nói cùng nhau, và những chuyến hàng Đà Nẵng - Huế (a) bắt đầu trở lại với hành khách chen chúc đầy ngập. Trên đoạn đường lây lất, ươn ướt thịt da người phía nam La Vang, lối “về ngoài mền..” thấp thoáng từng toán người gồng gánh chạy theo đoàn quân với lời nhắn nhủ.. “Mềm về Quảng Trị thôi bà con ơi, ông Trưởng đã vô ở trung Mang Cá (b) giư kỳ Tết Mậu Thân với mền rồi bà con nè(c)” ((a) Đà Nẵng- Huế: Khoảng cách 103 cây số, Đà Nẵng ở về phía nam Đèo Hải Vân, địa giới thiên nhiên giữa Quảng Nam - Thừa Thiên (Huế).(b) Mang Cá: Cơ sở quân sự đông-bắc Thành Nội Huế: Nơi đặt Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn I Bộ Binh, Bộ Tư Lệnh Tiền Phương của Quân Đoàn I, chỉ huy mặt trận phía bắc đèo Hải Vân trong chiến dịch phản công năm 1972.

(Chú thích (c)”mền=mình”; “trung= trong”; “giư=như”)

Chiếc xe jeep mang cờ hiệu tư lệnh màu đỏ với ba ngôi sao trắng chạy chậm dọc đường Trần Hưng Đạo hướng cầu Gia Hội. Vị tướng quân khẻ liếc về hai bên, che dấu cảm xúc trong ánh mắt u uất, cố giữ vẻ bình thản, ông đưa tay lên vành nón sắt tỏ ý nhấc khẻ để đáp lễ những người dân kính cẩn chào ông với cách nhìn hàm ân, trân quý. Chợ Đông Ba ngầu đục váng vất những đường khói nhỏ bốc mùi khét, và loang lỗ vết nám đen trên lớp tường sơn vôi vàng nhạt - dấu vết của lần hỗn loạn hai ngày trước, 30 tháng 4, 1972 khi mặt trận Quảng Trị tan vỡ và đám lính phẫn nộ tràn vào thành phố với những người dân đang nháo nhác rùng rùng di tản. Huế mau chóng lâm cơn hấp hối cũng bởi ảnh hưởng, tác động kinh khiếp của Mậu Thân mà dấu vết vẫn còn rất mới - Từ đêm Giao Thừa 1968 nối tiếp, mở rộng, thấm sâu ấn tượng bi thảm của lần thất thủ kinh đô 1885, mà nay vẫn hằng lưu trong tâm hồn người Huế.. Giặc vào và hiện thực cảnh tượng nhà tan, cửa nát, người chết hằng hằng lớp lớp. Gần một thế kỷ qua kể từ năm tháng bi thảm kia, mối đau không hề giảm bớt, mà lại càng tăng thêm sắc độ khốn cùng, thương tâm. Chỉ một điều khác biệt: Thực Dân Pháp năm 1885 khi tiến đánh Kinh Đô Huế, không có được “ý niệm chính trị tiến bộ của kẻ ngụy danh cách mạng giải phóng” sau nầy - Họ chưa biết cách thực hiện, không hề có cơ tâm tàn nhẫn thực hiện kỹ thuật giết người rẻ tiền và im lặng của quần lũ gọi là “bộ đội nhân dân” - chôn sống những đồng bào, đồng loại mình. Thế nên người người hớt hải xuôi Nam hướng Đà Nẵng, rần rật chen chúc lên tất cả mọi phương tiện di chuyển. Lại một lần bỏ quê hương chạy giặc. Đấy là cảnh tượng của những ngày cuối tháng Tư, năm 1972. Nhưng, nay tình thế đã hoàn toàn khác hẳn. Bởi, Quân Lệnh Thứ Nhất của Trung Tướng Tư Lệnh Quân Đoàn I/QK1 loan báo khẳng định:

“Tất cả quân nhân các cấp QLVNCH trong lãnh thổ Khu 11, Vùng I Chiến Thuật (kể cả thành phần tăng phái, thuộc dụng hành quân), quân phạm, lao công đào binh phải trở về trình diện đơn vị, hoặc tại địa điểm quân sự gần nhất trong vòng 24 giờ kể từ “Không Giờ” ngày 2 tháng 5, năm 1972.

Các trường hợp vắng mặt bất hợp pháp tại đơn vị coi như đào ngũ trong thời chiến, khi đối diện địch quân, sẽ bị truy tố ra trước tòa án quân sự mặt trận với trường hợp khẩn cấp.

Tất cả hành vi cướp giật, phá hoại, khủng bố sẽ bị trừng phạt, xử bắn tại chỗ do các đơn vị Quân Cảnh Quân LựcViệt Nam Cộng Hòa toàn quyền áp dụng, thi hành”.

Huế hồi sinh từ những giòng quân lệnh mạnh mẽ và sự hiện diện uy nghiêm của vị Tướng Quân Tư Lệnh. Và người Huế, Quảng Trị chuẩn bị trở về.

Để mở đầu cho Ngày 28 tháng 6, khai diễn chiến dịch giải tỏa toàn thể Quảng Trị, Trung Tướng Ngô Quang Trưởng đã chuẩn bị, thực hiện những điều kỳ lạ kể từ ngày nhậm chức tư lệnh 1 tháng 5, chỉ hơn một tháng trước. Những điều kỳ lạ nầy không do phía người Việt chủ quan tự định đặt, nhưng hiện thực trong báo cáo của Tướng Fred Kroesen, cố vấn trưởng Quân Đoàn I với Đại Tướng Abrams: “Ông ta đã làm cho ban tham mưu hoạt động chưa từng có ở Quân Đoàn I. Tướng Trưởng đã đẩy bộ máy kia chạy với một cách thế khẩn cấp không bao giờ thấy từ trước đến nay. Sau đây là trận đánh điễn hình dựng nên buổi oanh liệt với mục tiêu Cổ Thành Đinh Công Tráng, Thị Xã Quảng Trị .

Sau cuộc lui binh oan nghiệt, hỗn loạn, rời bỏ Đồng Hà, Quảng Trị, căn cứ Aùi Tử, và những vị trí quan yếu bắc sông Thạch Hãn, kể từ ngày 1 tháng 5, phòng tuyến cực bắc của miền Nam dừng lại ở Sông Mỹ Chánh. Con sông rộng không quá một trăm thước chiều ngang kia thật sự không thể là tuyến phòng thủ thiên nhiên hữu hiệu, hơn thế nữa, đường tiếp cận trong Trường Sơn, qua ngã thung lũng A-Sao, A-Lưới để về Huế đã hoàn toàn thuận lợi khi các binh đoàn cộng sản chiếm được những căn cứ hỏa lực Bastogne, Checkmate, cửa vào thành Phố Huế từ ngõ tây-nam. Nếu lực lượng cộng sản tiếp tục lấn chiếm được đoạn phía nam Huế (đường đi Đà Nẵng), và cắt Đường Số I ở khoảng An Lỗ, theo chiều ngang của sông Bồ thì lực lượng thủy quân lục chiến nơi phòng tuyến Mỹ Chánh nầy sẽ nằm gọn trong một chiếc túi bị thắt chặt cả hai đầu nam lẫn bắc, không cần bị tấn công cũng sẽ phải rút đi, mà chắc gì thoát được về Đà Nẵng (Chiến trận tháng 3, 1975 sau nầy là minh chứng cụ thể của ý niệm vừa trình bày). Đoạn Mỹ Chánh- Huế chỉ khoảng năm mươi cây-số, và sau Huế là Đà Nẵng với hơn 100 cây-số còn lại. Chiến dịch tấn công Miền Nam của bộ tổng quân ủy Miền Bắc với tên hiệu Nguyễn Huệ ắt sẽ trở thành hiện thực với cuộc “Nam tiến ngụy danh giải phóng” nếu như phòng tuyến Mỹ Chánh vỡ từ đầu những ngày tháng 5, 1972. Nhưng Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến của Đại Tá Bùi Thế Lân (Đại Tá Lân thay Trung Tướng Lê Nguyên Khang giữ chức tư lệnh sư đoàn cùng ngày 1 tháng 5) với những Lữ Đoàn 147 và 258 TQLC dẫu bị tổn thất nặng trong suốt trận chiến kể từ tháng 3 nơi những căn cứ hỏa lực Holcomb, Sarge, Núi Bá Hổ, Mai Lộc nam sông Bến Hải, đã không để mưu định kia nên hiện thật. Từ phòng tuyến mong manh nầy, với lòng tin cậy đối với những đơn vị tăng phái hành quân, Trung Tướng Trưởng trả lại quyền điều động đơn vị cho Đại Tá Lân trong khu vực trách nhiệm - Lần đầâu tiên kể từ ngày thành lập, Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến được xử dụng hết sức mạnh tổng hợp đúng kích thước của một sư đoàn. Nói lại thêm một lần cũng chưa đủ- Trung Tướng Ngô Quang Trưởng đã trả lại cho người lính ở mặt trận Trị-Thiên sức chiến đấu thần kỳ của họ.

Ngày 27 tháng 7, Thủy Quân Lục Chiến thay thế Nhẩy Dù để “dứt điểm” Cổ Thành Quảng Trị. Thật ra, kể từ 25 tháng 7, Tiểu Đoàn 5 Dù đã bám được bức tường đá Cổ Thành Quảng Trị với yểm trợ tiếp cận của phi cơ A37 Không Quân Việt Nam, nhưng khi Đại Uùy Nguyễn Tấn Sĩ, Đại Đội Trưởng Đại Đội 51 của tiểu đoàn nầy thúc lính bò lên thành thì cũng là lúc Không Quân Hoa Kỳ can thiệp, dội bom nội thành.. Do những lý do kỹ thuật, hai trái bom đã đánh nhầm vào đội hình quân bạn, Tiểu Đoàn 5 mất đà, khựng lại và dội ngược. Sư Đoàn Dù lại để trống ngã Bến Chùa, đường qua sông Thạch Hãn về Nhan Biểu, Ái Tử: Đường tiếp vận quan yếu của hệ thống hậu cần Bắc quân. Chín tiểu đoàn Dù hiện có chỉ vừa đủ rải dài từ Mỹ Chánh đến Quảng Trị, từ đường chiến thuật 556B ra đến Quốc Lộ I; thế nên, cần phải có thêm một lữ đoàn (với ba, hoặc bốn tiểu đoàn bộ binh tác chiến) tăng cường để chận con đường Ái Tử - Nhan Biều - Cổ Thành là ước vọng tha thiết của Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn Dù hay cũng chính của Tướng Trưởng.

Gần hai tháng qua đi kể từ ngày khởi cuộc phản công, tất cả các đơn vị tham chiến bị ngừng lại bên bờ hào của vòng thành đá tảng, tuyến chiến đấu của ta và địch cách nhau đúng 400 thước (hai tầm đạn súng cá nhân), nhưng cũng có nơi không còn thước nào cả, bởi các chốt kháng cự đan kín vào nhau, nên nay đã đến lúc cần phải thay đổi kế hoạch tác chiến để thực hiện lời nguyền trước quốc dân và lịch sử.

Tư Lệnh chiến trường, Trung Tướng Ngô Quang Trưởng quyết định cùng hai viên tư lệnh Nhảy Dù và Thủy Quân Lục Chiến - Hai tướng lãnh vừa được vinh thăng tại mặt trận, trên chiến địa Trị -Thiên nầy - Chuẩn Tướng Lê Quang Lưỡng và Bùi Thế Lân một kế hoạch tái phối trí: Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến nhận trách nhiệm phần đất bên trái Quốc Lộ I chạy dài ra đến biển; Sư Đoàn Dù từ trái quốc lộ đổ sâu vào hướng núi. Tiểu Đoàn 6 TQLC thay chỗTĐ6 Dù chịu trách nhiệm góc tây-nam cổ thành, ngã tư đường Trần Hưng Đạo- Quang Trung; 3 TQLC đổi 5 Dù chịu trách nhiệm phòng tuyến dọc đường Lê Văn Duyệt đối diện Cửa Tiền; 9 TQLC đổi 11 Dù, Trâu Điên (2 TQLC), Quái Điểu (1 TQLC) chận đường cửa Bắc ngang sông Thạch Hãn, cũng là đường tiếp vận cho lực lượng cộng sản cố thủ cổ thành. Chúng ta hãy sống cùng những giờ phút dũng liệt với xương máu của mỗi một người lính - Những Người Lính Vô Danh mà linh thiêng sông núi đã hun đúc nên thành, gánh chịu suốt cuộc chiến điêu linh.

Đại Tá Ngô Văn Định, Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 369 TQLC, vị lữ đoàn trưởng thâm niên nhất của sư đoàn nhận nhiệm vụ chỉ huy đơn vị xung kích tái chiếm Cổ Thành Quảng Trị từ hướng tây- nam; Lữ Đoàn 147 chịu trách nhiệm mặt phía Đông từ quận Triệu Phong ra đến biển. Sư Đoàn TQLC kể từ ngày thay thế nhảy dù tuy đã chiến đấu không hề ngưng nghỉ nhưng cũng chỉ đẩy các chốt địch từ ngoài vào trong cổ thành, và điểm gần nhất cũng còn cách bờ hào thành khoảng hai trăm thước. Không thể chần chờ hơn nữa, Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn I dưới điều hành trực tiếp của Tướng Trưởng soạn thảo Kế Hoạch Lôi Phong/Giai Đoạn 2 xử dụng tối đa hỏa lực phi, pháo trong 48 giờ liên tiếp theo diễn tiến: Không quân chiến lược B52 liên tục trải thảm từ sông Thạch Hãn (bắc cổ thành) đến Đông Hà (Bắc Quảng Trị 50 cây-số), có nhiệm vụ đập nát tất cả vị trí pháo binh, hoả tiễn, bộ chỉ huy, điểm tiếp vận; tiếp đến hải pháo từ Hạm Đội 7 bắn vào các điểm nghi ngờ liên tục trong suốt chiến dịch vào những lúc phi cơ tạm rời vùng; pháo binh diện địa 175 ly từ Phong Điền tăng cường quấy rối, đặc biệt chiếu cố thật kỹ vị trí toạ độ cổ thành; 12 khẩu đại bác 155 ly, 54 khẩu 105 ly cơ hữu của Sư Đoàn TQLC được lệnh tác xạ không ngừng một phút, pháo thủ chỉ thay nhau ngủ vài giờ nửa đêm, từng khẩu pháo được điều chỉnh để không một trái đạn rớt ra ngoài bờ thành. Đạn bắn không cần đếm, hàng trăm xe vận tải hạng nặng chở đạn đi suốt ngày đêm trên lộ trình Đà Nẵng- Quảng Trị, đạn giở xuống để ngay trên Quốc Lộ I dài hàng cây-số, lính pháo binh cứ tự động đến lấy mang đến vị trí pháo khỏi phải làm phiếu lãnh. Có người đã ôm viên đạn trong tay nhưng kiệt sức, không nạp nổi vào nòng, anh ta ngã gục bên khẩu pháo. Trong vòng 48 giờ, đã có 60.000 ngàn quả đạn bắn đi, không một phân đất nào của khu vực chung quanh cổ thành, trong thị xã không có dấu đạn rơi.

Về phần bốn bờ tường thành được dành cho không quân chiến thuật Việt Nam và Mỹ từ Đà Nẵng, Chu Lai, Tuy Hòa, Hạm Đội 7 đồng thực hiện. Các phi công phải lựa chiều đánh bom làm sao quả bom rơi đúng trên năm thước bề dày của chiếc thành, cốt triệt hạ khối đá vuông vức kia thấp xuống, càng thấp càng tốt; phải đập nát bốn lô-cốt ở bốn góc, khoá họng những thượng, đại liên mà xạ thủ đã bị xích chân vào súng. Và cuối cùng cũng phải cầu viện đến “bom mắt thần”, những quả bom nặng 500 cân Anh, điều khiển bằng ra-đa để đánh xuống những đoạn thành quá kiên cố mà pháo và bom thường không triệt hạ được. Nhưng cái tường thành ngạo nghễ kiên cố kia dầu chỉ còn thấp khoảng vài ba thước, gạch đá ngỗn ngang vẫn còn những đám con cháu “Bác Hồ” ẩn sâu trong những căn hầm chữ A, loại hầm cứng chắc có khả năng chịu được phi pháo- chỉ trừ khi bom rơi ngay vào miệng hầm. Thế nên, cứ dứt pháo thì lính cộng sản không đường rút lui nầy lại nhô đầu ra bắn điên cuồng về phía trước mặt, hiệp cùng cối pháo hỏa tiễn bên kia bờ Thạch Hãn, trong núi, nam sông Bến Hải dội xuống dồn dập. Không để bị bó buộcvì tình thế, Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn Thủy quân Lục Chiến lại thêm một lần thay đổi ý định điều quân: Lữ Đoàn 369 bàn giao vị trí cho bạn, lui binh làm thành phần trừ bị, cái “bánh chưng” gọi là cổ thành kia được cắt ra làm hai: Nửa phía Đông giao cho Lữ Đoàn 147, xử dụng hai Tiểu Đoàn 3 và 8 đánh từ hướng Đông qua và chính diện mặt Nam. Lữ Đoàn 258 điều động “Trâu Điên”, 2 TQLC đánh từ hướng Tây, “Ó Biển”, 6 TQLC đánh chính diện Cửa Hữu theo Đường Quang Trung, vùng cư dân trước đây gọi là Phường Thạch Hãn. Lực lượng tấn công dứt điểm sẵn sàng trên tuyến xung phong đợi Lôi Phong chấm dứt sau 48 giờ bão lửa.

Tại hầm chỉ huy Tiểu Đoàn 3 TQLC, Thiếu Tá Cảnh nói cùng Đại Uy Thạch, Đại Đội Trưởng Đại Đội 3: “Anh Thạch, tôi biết anh mới lui về nghỉ có mấy ngày, nay giao cho anh nhiệm vụ nầy thì kỳ quá, nhưng tiểu đoàn mình chỉ còn anh là đại đội trưởng cứng nhất, kế hoạch Lôi Phong 2 đã bắt đầu từ ngày hôm qua, đợi giờ chấm dứt, tối nay anh đem đại đội lên trám tuyến cho “thằng 1” (Đại Đội 1), rồi tìm cách tiến sát vào chân thành kia trước khi trời sáng. Nếu không được thì lui về, để trời sáng tụi nó nhìn rõ là hỏng việc..” Đại Úy Thạch về họp cùng với các trung đội trưởng để bàn định kế hoạch đột kích. Anh nói với những trung đội trưởng đang ngồi chen chúc trong chiếc hầm chìm bóng tối; những tròng mắt khô rốc mệt nhọc trừng trừng nhìn xuống tấm bản đồ đặt trên đất: “Đây, cái bờ thành nầy, làm thế nào đại đội mình cũng phải leo lên cho được, điều tôi dặn kỹ là binh sĩ không được bắn vu vơ, đến sát bờ thành thì tung lựu đạn thật nhiều rồi leo lên, bám chặt vào đó. Đừng để tên nào leo xuống. Bám vào được thì mình mới có thể bung ra hai bên..”

Đại Đội 3 Tiểu Đoàn 3 TQLC vượt tuyến tấn công lúc nửa đêm, ba giờ sáng, đoàn quân đến mục tiêu ấn định - Bờ tường Cổ Thành Quảng Trị, nơi cách hầm đóng quân hai trăm thước - hai trăm thước khoảng cách được vượt qua bởi những người lính bò im lặng trong đêm trên gạch đá, mìn bẫy, và dưới trùng điệp lưới lửa, đạn đại pháo của cả hai bên.. Đột nhiên, một loạt đạn pháo binh nổ rền ngay đầu hướng tiến của đại đội, Thạch (Đại đội trưởng) qua ống nói máy truyền tin nghe tiếng la mừng rỡ của người trung đội trưởng: “Trình đại bàng (người chỉ huy), thằng Xuân của tôi đã qua hào vào sát bờ thành, pháo đang nổ trên đầu nó, thẫm quyền bảo ông phở Bắc (pháo binh) ngưng đi để tụi nó leo lên..” Báo cáo được nghe tiếp với những lời nói đứt khoảng dồn dập lẫn trong âm động đạn súng tay, lựu đạn, đại liên, và pháo, cối từ phía Bắc bắn xuống yểm trợ đám bộ đội cộng sản..”Thằng Xuân đã lên đến bờ tường rồi.. Chúng tôi đã sang.. bên kia.. bờ hào nước..Tụi nó.. tụi nó bắn ghê quá.. Lên.. lên.. đi”. Không đợi nghe hết lời báo cáo, Đại Uùy Thạch đứng sỗng dậy hét to: Xung phong.. xung phong! Tất cả đại đội vụt chạy nhanh qua chiếc hào thành đã cạn nước vì đất đá hai bên đổ xuống. Những người lính đồng thanh hòa theo lời hô của viên đại đội trưởng.. Xung phong! Xung phong!! Những thân người ngã xuống vật vã trên gạch đá tan vỡ, máu tươi rói bắn ra tia thấm đẫm bạt vào người bên cạnh. Không biết ai trúng đạn, ai còn sống- khoảng cách quá gần và trời quá tối - những người thoát đạn xốc tới.. Xung phong.. xung phong!!

Cùng lúc, phía tây-nam, đại đội của Đại Uùy Định (Định “con”, để phân biệt với Đại Tá Định, Lữ Đoàn Trưởng 369) thuộc Tiểu Đoàn 6 TQLC khi nghe tiếng hô rền từ cánh quân bạn cũng đồng bật dậy, bỏ vị trí xốc tới.. Xung phong.. xung.. xung phong!! Giữa bóng tối mù mịt, qua ánh chớp đạn pháo binh địch, và loé sắc của lựu đạn đánh cận chiến, bóng hình người lính thủy quân lục chiến ào lên, thấp thoáng, vùn vụt trên những khối đen của dãy tường thành loang lỗ chập chờn lửa dậy. Bốn giờ sáng, trời vừa hừng đông, được tăng thêm độ sáng do đạn lửa của pháo, hỏa tiễn cộng sản bắn tràn lên vị trí để các đơn vị bộ đội địch tháo chạy, những người lính củacác Tiểu Đoàn Thần Ưng (TĐ6), Sói Biển (TĐ3) hoàn toàn làm chủ, tràn ngập trên bờ thành phía Nam; về phía Đông, khu trách nhiệm của Tiểu Đoàn 8, Tiểu Đoàn Trưởng, Trung Tá Nguyễn Văn Phán vượt lên tuyến đầu đích thân thúc quân ép sát vào bờ thành bởi nhận ra sức chiến đấu của đám lính cộng sản cố thủ yếu dần, đang thất thần tìm đường lẫn trốn trước đợt tiến công dồn dập uy mãnh của lính miền Nam; những tên không tháo chạy được đồng bị thanh toán tại hầm bằng lựu đạn, hoặc súng tay bắn với khoảng cách gần nhất, đạn xuyên vào da thịt người nghe lụp bụp, thân người nẫy ngược lên. Hướng chính Tây, mặt tấn công của Tiểu Đoàn 2 “Trâu Điên” cùng Thiết Đoàn 20 Chiến Xa, lực lượng xung kích ào vào chân thành như thác lùa, lũ lớn theo những khoảng vỡ đỗ của bức tường thành nay đã biến dạng nên thành khối hình ngỗn ngang chồng chất, lính “Trâu Điên” xốc tới như tên hiệu đơn vị.. Đến chiều 14 tháng 9, lực lượng Thủy Quân Lục Chiến kiểm soát toàn phần bờ thành, khu vực phía nam, chia quân lục soát những khu hầm nhốt tù (do người Pháp xây dựng đầu thế kỷ) mà sau nầy, trước tháng 4, 1975, Tiểu Khu QuảngTrị, Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 3 Bộ Binh đặt trung tâm hành quân; đám lính cộng sản ném súng, lội sông Thạch Hãn tháo chạy về phía Bắc như đàn vịt nháo nhác trên khoảng sông phơi đáy cát. Một chiếc L19 (máy bay quan sát) bay lờ lững trên cao, anh phi công tinh nghịch rà xuống sát mặt nước, bắn ra trái đạn khói, những tên lính cộng sản chạy trốn hốt hoảng đưa tay đầu hàng, đứng ngơ ngác trên giòng sông mờ đục trống trải.

Đêm 14 tháng 9, lần đầu tiên sau 48 ngày, đêm, Đại Úy Thạch, Đại Đội Trưởng Đại Đội 3, Tiểu Đoàn “Sói Biển”, đơn vị tiên phong của đợt đột kích dứt điểm cổ thành được ngủ một giấc dài vì đôi giày đã được cởi ra. Nhiều người lính của mặt trận Quảng Trị cũng được “hạnh phúc” nhỏ bé tầm thường tội nghiệp nầy. Sáng hôm sau, ngày 15 tháng 9, 1972 từ căn hầm phòng thủ nơi đặt ban chỉ huy đại đội, qua lỗ hỗng, Thạch thấy rừng rực lá cờ Vàng Ba Sọc bay uy nghi trong gió sớm lẫn màn khói đạn, bom chưa tan hẵn. Anh thấy cay cay trong mắt với cảm giác nôn nao thầm lắng.. Cảm xúc từ rất lâu anh không có - Cảm giác muốn khóc về một điều bi phẫn.

Nơi Trung Tâm Hành Quân Bộ Tư Lệnh Tiền Phương Quân Đoàn I ở thành Mang Cá, Huế, Trung Tướng Ngô Quang Trưởng cất chiếc nón sắc đã đội suốt từ bao ngày đêm. Người chỉ huy chiến trường ngồi lặng im rất lâu. Nét mặt không gợn nét, đổi sắc.

Để kết luận, ta thử tìm so sánh.

Người Đức bao vây Stalingrad 76 ngày; người Mỹ giữ Bataan trong 66 ngày, Corregidor 26 ngày; quân lực Anh và Khối Thịnh Vượng Chung tử thủ Tobruk trong 241 ngày; phải mất đến bốn ngày kịch chiến, một trung đội thuộc Trung Đoàn 28/Sư Đoàn 5 TQLC Mỹ mới dựng được ngọn cờ oai dũng Sao và Sọc lên đỉnh núi Suribachi của Đảo Iwo Jima.

Và thập niên 50, Điện Biên Phủ (miền Bắc nước Việt) thực sự bị bao vây 56 ngày dưới sức công phá của những sơn pháo 75 ly, và đại pháo (Trung Cộng) tương đương 105 ly.. Những trận đánh để đời của quân sử toàn cầu kia đó có là gì so với Quảng Trị, chỉ từ 27 tháng 7 đến 14 tháng 9 là 48 ngày, và nếu kể từ ngày 7 tháng 7, lúc Tiểu Đoàn 7 Dù vượt qua Ngã Ba Long Hưng, vào cách Chi Khu Mai Lĩnh 300 thước thì mặt trận thành phố Quảng Trị thực sự đã kéo dài trong 68 ngày. Trong 68 ngày ấy, lực lượng bộ chiến gồm bốn Tiểu Đoàn Dù (5, 6, 7, 11) trong giai đoạn đầu; hoặc tám Tiểu Đoàn TQLC, một liên đoàn BĐQ, và một thiết đoàn chiến xa của giai đoạn 2. Trong 68 ngày đó, chỉ riêng 48 ngày của Thủy Quân Lục Chiến, những người lính quân đội Miền Nam đã phải chiến đấu liên tục trên một chiến trường dài hai cây-số năm-trăm thước từ ngã Ba Long Hưng, ngõ vào Thị Xã Quảng Trị đến sát bờ sông Thạch Hãn, và bề ngang một cây số hay một ngàn thước - Những con số nầy phải viết chính xác để nói đủ về một chiến trường hẹp cứng, gai góc vượït hết ý niệm chiến trận - Chiến trường có diện tích “Hai ngàn năm- trăm thước vuông” đó đã được 15 tiểu đoàn bộ chiến bao vây, quét sạch từng thước đất, phải nói từng tấc đất, nếu muốn giữ độ chính xác trong 68 ngày. Quảng Trị! Muốn được kêu lên một tiếng, muốn nhỏ xuống giòng nước mắt - Không một nơi chốn nào trên địa cầu nầy phải chịu đựng cảnh huống điêu linh khốc liệt bằng vùng đất gọi tên Quảng Trị, nơi thị xã có khối Cổ Thành Đinh Công Tráng.

Người Lính Việt Nam Cộng Hòa đã chiến đấu và tồn tại như một nhiệm mầu. Trên mầu nhiệm bình thường lặng lẽ này Tổ Quốc điêu linh thở từng hơi ngắn đớn đau nhưng bền bỉ. Chữ nghĩa hoàn toàn vô nghĩa trước chân dung bi tráng hùng vĩ của Người và Quê Hương- Nơi ĐẤT PHƯƠNG NAM với NGƯỜI CHỈ HUY GIỮ NƯỚC tên gọi là NGÔ QUANG TRƯỞNG.

PHAN NHẬT NAM

Để nhớ ngày Người Lính lẫm liệt giữ vững Quê Hương, Tướng Quân Ngô Quang Trưởng về trời.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét