Nguyễn Phú Chính PĐ237
Xin giới thiệu hồi ký một thời binh lửa của Trung Tá Không Quân Nguyễn Phú Chính, vị phi công tài ba của Không Lực Việt Nam Cộng Hòa, viết về những ngày cuối cùng UẤT HẬN, những đau thương, mất mát chiến hữu, người thân trong thời gian chưa tàn cuộc chiến.Bài anh viết rất sống động, chân thực và có nhiều giá trị lịch sử vì anh chính là người trong cuộc của những ngày Tháng Tư Đen của Miền Nam chúng ta. Văn anh viết rất hay, văn phạm rất chỉnh.
Xin giới thiệu hồi ký một thời binh lửa của Trung Tá Không Quân Nguyễn Phú Chính, vị phi công tài ba của Không Lực Việt Nam Cộng Hòa, viết về những ngày cuối cùng UẤT HẬN, những đau thương, mất mát chiến hữu, người thân trong thời gian chưa tàn cuộc chiến.Bài anh viết rất sống động, chân thực và có nhiều giá trị lịch sử vì anh chính là người trong cuộc của những ngày Tháng Tư Đen của Miền Nam chúng ta. Văn anh viết rất hay, văn phạm rất chỉnh.
<!>
Cám ơn anh chia sẻ cho diễn đàn Quốc Ngữ Việt Nam Văn Hiến
(Tác giả là hội viên của nhóm, tên hiệu Cậu Út Long Xuyên, không rành cách gởi đăng bài, nên Tím xin phép làm giúp Cậu Út).
BIÊN HÒA - KHÔNG LỜI TỪ BIỆT
Nguyễn Phú Chính PĐ237 (Nén hương cho anh em Biên Hòa đã nằm xuống)
Nhân dịp tháng TƯ ĐEN thứ 49 trở về, Cậuut xin phép Ban Điều Hành trang “Quốc Ngữ Việt Nam Văn Hiến” cho phép Cậuut đăng bài: “Biên Hòa Không Lời Từ Biệt” của Cậuut, câu chuyện bi thương của Căn Cứ Không Quân Biên Hòa những ngày hấp hối.
Cậuut chân thành cám ơn Ban Quản Trịvà cầu chúc quý anh chị em quyết tâm giữ gìn sự trong sáng tiếng Việt thành công.
---oo0oo---
Ngày 28 tháng Tư năm 1975, đúng 49 năm trước, ngày Biên Hòa hấp hối. Bộ chỉ Huy Sư Đoàn 3 Không Quân (SĐ3KQ) tạm thời đặt tại Không Đoàn (KĐ) yểm cứ, gần cổng 1 Biên Hòa, vì Bộ Tư Lệnh Sư đoàn 3 (BTLSĐ) bị pháo kích, có nội tuyến điều chỉnh nên rất chính xác. Tôi vô tình là một trong 3 người được nghe quyết định cho số phận Biên Hòa của Trung Tướng Trần Văn Minh, Tư Lệnh Không Quân (TLKQ). Hai người kia là Chuẩn Tướng Huỳnh Bá Tính, Sư Đoàn Trưởng SĐ3KQ và Chuẩn Tướng Từ Văn Bê, Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ Huy Kỹ Thuật Tiếp Vận (BCHKTTV). Mấy năm nay, tôi cứ lưỡng lự mãi vì đây là một câu chuyện buồn. Tự biết tôi không đủ khả năng diễn tả hết cảnh tang thương, oan nghiệt nầy, nên đành bỏ ý định viết… Giờ đây ba tướng đã quy thiên, bản thân tôi cũng không biết trước lúc nào. Tôi mạnh dạn viết, ít nhứt để ba đứa con tôi biết thêm phần nào nơi chúng đã sống êm đềm trong những ngày thơ ấu. Và cũng xin gửi đến những người bạn đã một thời từng chết sống, gắn bó với Biên Hòa, một khung trời kỷ niệm.
“Nhà Bè nước chảy chia hai
Ai về Gia Định Đồng Nai thì về.”
Lúc tôi đang làm Sĩ Quan Liên Lạc tại Fort Wolters, Mineral Wells, Texas năm 1969-1970, Thiếu tá Trưởng Phòng Liên Lạc muốn tôi về làm Phi Đoàn Phó (PĐP) PĐ Chinook tân lập do ông làm Phi Đoàn Trưởng tại Biên Hòa. Vì biết nhau từ lúc còn bay chung ở PĐ213 tại Đà Nẵng nên tôi quyết định về Đồng Nai với ông.
Phi Đoàn 237 Chinook thành lập ngày 30 tháng 9 năm 1970 tại Biên Hòa, tuy nhiên PĐ vẫn còn bay chuyển tiếp hành quân chung với Đại Đội 225 Chinook của Mỹ tại Căn cứ Phú Lợi, tỉnh Bình Dương. Sau khi học xong khóa chuyển tiếp Chinook tại Fort Rucker, Alabama, tôi về Phi Đoàn cuối tháng 12 năm 1970, vẫn lên xuống Saigon-Phú Lợi để bay với anh em. Đây là lần thứ hai tôi ở Biên Hòa. Lần đầu, tháng 6 năm 1969 tôi học chuyển tiếp UH-IH với Phi Đoàn Spartan của Mỹ một tháng. Trong thời gian nầy, tôi chịu đại tang, người Mẹ yêu thương của tôi qua đời đột ngột tại thị xã Long Xuyên. Trước đó một tuần, tôi theo trực thăng về thăm Cha Mẹ. Bữa cơm vui vẻ với ba má và hai đứa cháu gái đang ở đây học. Trông rất khỏe, đâu ngờ Mẹ tôi ra đi vội quá, mới trên 71 tuổi. Là con út nên bao nhiêu tình thương của Mẹ dồn hết cho tôi. Tôi hụt hẫng như mất hồn. Và lần nầy tôi trở lại Biên Hòa cho đến ngày mất nước.
Sơ lược vài dòng lịch sử về Biên Hòa. Cuối thế kỷ 17, Biên Hòa nói riêng, miền Nam, nói chung, chưa phải là đất của Việt Nam mà là của nước Chân Lạp. Năm 1679, sau khi nhà Thanh lật đổ nhà Minh, lập nhà Mãn Thanh bên Trung Hoa, Tướng nhà Minh là Trần Thượng Xuyên, Tổng Binh, cùng chủ tướng là Dương Ngạn Địch đem 50 chiến thuyền cùng 3.000 quân xuống Miền Nam xin thần phục Chúa Nguyễn của An Nam. Chúa Nguyễn Phúc Tần chấp thuận và thương lượng với Phó Vương Chân Lạp là Ang Nan cho hai tướng vào khai khẩn sinh sống. Tướng Dương Ngạn Địch dẫn quân vào Mỹ Tho còn tướng Trần Thượng Xuyên vào Bàn Lân, Biên Hòa ngày nay, lập nghiệp.
Đến năm 1699, nước ta có sự bất hòa với Chân Lạp, Chúa Nguyễn sai tướng Nguyễn Hữu Cảnh vào Nam cùng Trần Thượng Xuyên đánh với Chân Lạp. (Đền thờ của ông tại đình Mỹ Phước- Thị xã LongXuyên). Quân ta toàn thắng và năm 1700 sát nhập các vùng Biên Hòa, Gia Định, Vĩnh Long và An Giang vào nước ta. Đây là bài học mà chính quyền cộng sản Việt Nam phải học thuộc lòng: Cho nước láng giềng mượn đất khai thác, rồi gây sự, đánh chiếm lấy luôn. Lúc nầy Biên Hòa còn hoang vu không người ở. Nhờ công của Tướng Trần Thượng Xuyên khai quang mà trở nên trù phú ngày nay.
(Tham khảo tiểu sử Tổng Binh Trần Thượng Xuyên).
Vì linh hiển nên dân Biên Hòa sùng bái ông như Thần. Nhìn từ ngoài vào trong đình thờ, ngoài các hoa văn chạm trổ, thếp vàng, phần còn lại sơn toàn là màu đỏ
Khi về đây, bạn bè tôi ai cũng lưu ý tôi về màu đỏ, vì màu đỏ chỉ có ông Thần Trần Thượng Xuyên độc tôn mà thôi. Đứa nào không tin, dùng xe màu đỏ thì y như rằng sẽ “đi đoong” ngay. Điều nầy tôi không tin đến khi ứng nghiệm cho nhân viên PĐ của tôi. PĐ thiệt hại nặng sau mùa Hè “Bình Long Anh Dũng”, nhưng bù lại được tuyên dương công trạng và được nhận đỡ đầu, đồng thời nhận đươc tiền thưởng bay phi diễn hạng nhứt đồng hạng. Ngày Quân Lực 19/6/1973 (6 chiếc Chinook thường thấy trong vài DVD hải ngoại). Vì vậy, tôi có ý định tổ chức sinh nhựt PĐ 3 tuổi. Vì chiến tranh nên không tổ chức năm 1972. Một hôm Thiếu Úy Nguyễn Hiền của PĐ mời tôi qua quán cà-phê của chú ở khu gia binh. Nói quán cho ra vẻ, thực ra đây là một “barrack” cũ, gia đình ở 1/3 còn 2/3 mở quán kiếm thêm tiền chợ. Tôi do dự, vì thỉnh thoảng tôi cũng xuống uống ủng hộ gà nhà. Lần nầy khi vào tôi rất ngạc nhiên, một màu đỏ hiện ra: tất cả tấm trải bàn và màn cửa sổ đều màu đỏ. Vì không tin nên tôi không có ý kiến. Hiền bảo, nếu tôi tổ chức sinh nhựt PĐ, chú xin đóng góp phần rượu. Tôi dọa, tổ chức cho 4-5 trăm người, tiền rượu ít nhứt cũng phải trên trăm ngàn. Chú bảo chú đủ khả năng. Tôi cám ơn và giải thích: Tiền rượu do đơn vị đỡ đầu hứa đài thọ. Hơn nữa các đơn vị bạn trong Vùng 3 mỗi người vài chai cũng uống mệt nghỉ.
Phần ban nhạc do tiểu đoàn Chiến Tranh Chính Trị (CTCT) Quân Đoàn 3 và SĐ3KQ đảm trách. Ca sĩ toàn gạo cội như Anh Khoa, ban tam ca Sao Băng, kịch có Tú Trinh, La Thoại Tân v.v. .và vũ đoàn Maxim, do Tổng Cục CTCT quân đội giúp vui. Nghe nói có ca sĩ Ngọc Minh, Sơn Ca do anh em trẻ PĐ mời được nữa. PĐ chỉ lo thức ăn nhẹ là đủ, không tốn kém bao nhiêu. Mùa hè năm 1973 hai cô em vợ của Hiền nghỉ học, lên giúp chạy bàn và thu tiền nên quán càng đông khách. Trong thời gian nầy, ban đêm phi trường Biên Hòa cũng bình yên, ít bị pháo kích. Lý do địch cũng sợ bị trả đũa: nhẹ thì cho mấy chiếc trực thăng võ trang lên diệt ngay, nặng thì sáng hôm sau mấy chục chiếc A-37 từ Cần Thơ và F-5 Biên Hòa lên Lộc Ninh rải thảm bom xả láng. (Lộc Ninh là một quận lỵ của tỉnh Bình Long giáp Cambodge địch chiếm, nơi đặt chính phủ ma mặt trận giải phóng miền Nam)
Tuy nhiên, có một đêm khoảng 4giờ sáng, một đợt pháo kích 5-7 trái , một trái lọt vào khu gia binh ngay “barrack” của Hiền. Được tin, tôi đến nơi, xe cứu thương cũng mang những người bị thương ra gần hết. Đến bịnh viện Biên Hoà, đợi đến sáng biết kết quả: vợ chồng và 2 cô em vợ của Hiền đều chết, trừ đứa con gái 3 tuổi chỉ bị thương nhẹ. Quá đau buồn trước cảnh chết thê thảm nầy, tôi thẫn thờ trở lại hiện trường. Phòng ngủ của vợ chồng Hiền rộng, 2 giường cách nhau khá xa. Máu me loang lổ, nệm mền, quần áo tung tóe khắp nơi. Đây là khu nhà thời Pháp để lại, khung nhà bằng sắt. Trái hỏa tiễn 122ly xuyên qua mái, chạm thanh sắt xà ngang nổ, miểng tạt qua ngay hai giường nằm làm chết cả 4 người.
PHI ĐOÀN 237
Phi Đoàn 237 là PĐ Chinook đầu tiên của Không Quân VN nên thu hút một số đông sĩ quan cấp Đại úy nhiều kinh nghiệm chiến trường từ 5 PĐ trực thăng hiện hữu tình nguyện gia nhập. Thêm vào đó, những hoa tiêu tốt nghiệp hàng đầu các khóa trực thăng huấn luyện tại Fort Hunter- GA, được tuyển chọn bay xuyên huấn Ch-47 Chinook tại Fort Rucker, Ala. Những hoa tiêu kỳ cựu đều biết nhau trước, còn các anh em mới, tôi đã gặp tại các trường bay nên xem nhau như trong gia đình, rất thân thiện cởi mở. Là PĐ đầu nên quân số đầy đủ, phi cơ hiện hữu 25 chiếc trên cấp số 18. Do đó phải tham dự các cuộc hành quân qua Cambodge và biệt phái cả 4 vùng chiến thuật. Tổng kết tổn thất về nhân mạng và phi cơ rất cao.
Riêng mùa Hè đỏ lửa 1972, mặt trận An Lộc, PĐ 237 hy sinh 14 nhân viên, trong đó có Thiếu Tá Phi Đoàn Phó Nguyễn Hữu Nhàn. Một Thiếu Tá Phi đội trưởng Nguyễn Tấn Trọng & Trung Úy Nguyễn Văn Thành bị bắt làm tù binh, cơ phi, xạ thủ, áp tải đều hy sinh. Ba phi cơ bị thiêu hủy hoàn toàn. Sau chiến trường An Lộc, phi đoàn được chọn là đơn vị xuất sắc của Quân Đoàn 3 và được tuyên dương công trạng trước Quân Đoàn. Nhân dịp nầy, Tổng Cục CTCT Quân lực VNCH giới thiệu PĐ để Tổng Công Đoàn Công Kỹ Nghệ VN (TCĐCKNVN) đỡ đầu với số tiền $50.000 hàng tháng. Đây là đơn vị thứ hai được Tổng Công Đoàn đỡ đầu, sau Sư Đoàn Dù. Buổi lễ đỡ đầu được tổ chức long trọng, trang nghiêm tại BTL SĐ3KQ và phi đạo 237 với sự hiện diện hai phái đoàn của ông Thứ Trưởng Công Kỹ Nghệ Phạm Minh Dưỡng và ông Chủ tịch TCĐCKNVN, Nguyễn Văn Quí (cũng là chủ hãng gạch Thanh Danh, cạnh rạp Khải Hoàn). Nghe nói sau tháng Tư Đen, bác Quí sống trong túp lều tranh cạnh cầu xa lộ và chết theo sản nghiệp đồ sộ tiêu tan. Thật tội nghiệp cho bác!
Tổng kết của PĐ năm 1973 tương đối nhẹ hơn: tổn thất 8 nhân viên, 3 chiếc Chinook bị phá hủy hoàn toàn: 1 bị SA-7 bắn rớt tại núi Bà Đen, Tây Ninh, phi hành đoàn của Trung Úy “Quang mắt nhung”, cả 5 đều hy sinh. Phi vụ biệt phái Cần Thơ, phi cơ bị bắn rơi tại Chương Thiện, xạ thủ Nguyễn Văn Lạc quyết định ở lại ôm đại liên bắn đoạn hậu để phi hành đoàn chạy thoát vào đồn nên đã anh dũng hy sinh. Trong phi vụ trao trả tù binh giữa VNCH và cộng sản (cs) Biên Hoà-Lộc Ninh: Trung Sĩ áp tải Hoàng bị việt cộng (vc) bội ước bắn tử thương. Ủy Ban Liên Hợp 4 bên và báo chí trong, ngoài nước có mặt tại Biên Hòa chứng kiến, nhưng cuối cùng cũng vào quên lãng. Đây là cái thói hèn hạ của vc, mỗi lần trao trả tù binh, trong phi vụ cuối cùng trong ngày, trên đường về đều bị bắn, mặc dù phi cơ có sơn huy hiệu trao trả tù binh, bay đúng cao độ và lộ trình do Uỷ Ban Liên Hợp định trước. Cuối năm tôi lại nhận một phi vụ thí quân: Phi vụ chuyển quân vào Tống Lê Chân, tỉnh Tây Ninh. Tiền đồn nầy do Tiểu đoàn 92 Biệt Động Quân (BĐQ) trấn giữ. Đây là cửa ngõ trọng yếu để cs xâm nhập vào thủ đô Saigòn. Cơ Phi: Thượng Sĩ Nguyễn Văn Tranh hy sinh, Trưởng Phi Cơ: Đại Úy Lê Văn Cầu bị thương chân. Một số Biệt Động Quân chết và bị thương.
Đến năm 1974 chiến trường khốc liệt, dù có đủ 4 PĐ Chinook cho 4 Vùng Chiến Thuật, nhưng thỉnh thoảng PĐ tôi cũng phải biệt phái tăng viện trong những cuộc hành quân lớn.
Tháng 2/1974 lại một tháng buồn của PĐ và gia đình tôi. Nhân dịp ông bà nhạc lên Biên Hòa thăm, tôi kể cho bà nghe về sự xui xẻo của tôi: chỉ trong tuần lễ mà tôi mất chiếc đồng hồ Longine 5 sao, mua ở Mỹ và hộp quẹt Dupont bằng vàng do người bạn chí thân cho. Dù là giáo viên thời Pháp, nhưng bà vẫn tin vào tử vi. Bà cười bảo: năm nay là năm tuổi, tháng tuổi của con nên “của đi thay mạng người đó con”. Tuy đau lòng vì 2 vật thiết thân bị mất, nhưng tôi cũng cười cho vui lòng bà. Dù không tin, nhưng tôi cũng thuật cho Thiếu Tá Võ Châu Phê, vừa là bạn cùng khóa vừa là PĐP của tôi. Cùng tuổi, số quân 2 đứa chỉ khác nhau số cuối: tôi 522, anh 523. Tôi căn dặn anh phải thận trọng, thế thôi. Tuy nhiên, một buổi sáng gặp Phê ngoài phi đạo lúc 6giờ 30 vừa đem 1 chiếc Chinook từ Tân Sơn Nhứt lên. Tôi bảo anh: hôm nay tôi đi bay hành quân, ông ở PĐ không đi bay hay đi đâu hết, vì mấy sếp gọi không có tôi cũng không có ông, tôi bị la phiền lắm.
Khoảng 8giờ 30 từ Lai Khê, tôi cất cánh dẫn 4 chiếc vào tiếp tế cho An Lộc. Nghe đài không lưu Paris gọi bảo tôi kiểm soát lại Chinook, tôi gọi điểm số đủ 4 chiếc. Tôi hỏi tại sao, Paris cho tôi biết có một chiếc Chinook rớt. Tôi liền liên lạc về Không Đoàn 43CT, mới biết chiếc đó là chiếc bay huấn luyện của Thiếu Tá Phê rớt ở căn cứ Long Bình, Biên Hòa. Chiều về, tôi về ngay bịnh viện Cộng Hòa thăm Phê.
Được biết phi hành đoàn gồm 6, 5 người chết tại chỗ, Thiếu Tá Phê cũng đang hấp hối. Tôi xúc động, đau lòng nước mắt chảy dài trước sự thiệt hại của PĐ. Mới sáng nay, hai đứa còn uống ca-phê, nói chuyện vui vẻ, bây giờ bạn nằm thoi thóp đầy dây nhợ, đau đớn. Vợ anh là một y tá nhiều kinh nghiệm ở bịnh viện Từ Dũ, biết không qua khỏi nên xin phép tôi về trước để lo hậu sự. Trước đó một tuần có Đại Úy Đào Quang Vinh, vì lý do gia cảnh nên được đổi về PĐ237. Theo nguyên tắc, Vinh chỉ cần bay với huấn luyện viên 30 phút để xác định hành quân là xong. Nhưng vì PĐ bận hành quân, hơn nữa muốn để Vinh nghỉ ngơi và quen với đơn vị mới nên không vội. Hôm đó anh Phê rảnh rỗi nên bay huấn luyện lên hoa tiêu chánh cho Trung Úy Ngô Minh Châu “Dốc Sõi”, nhân tiện kéo Vinh đi bay luôn cho xong, đâu ngờ chiếc Chinook anh vừa đem từ Tân Sơn Nhất lên bị đặt “plastic”. Đó là kết quả sau hơn một tháng điều tra của Công ty Boeing, nơi sản xuất Chinook. Sau gần tuần lễ việc ma chay, buồn và mệt nên cùng vài anh em xả hơi vài chai bia.
Khoảng 10 giờ tối về nhà, gặp ông bà nhạc lên chơi. Đang chuyện vui gia đình, có điện thoại từ bịnh viện Cần Thơ gọi báo cậu em vợ, Chuẩn Úy Nguyễn Văn Huế vừa tử trận. Thế là chuyện buồn lại đến. Gọi KĐ43CT xin trực thăng sáng mai xuống Cần Thơ nhận xác em. Sau một ngày cùng ông bà nhạc ở bịnh viện Cần Thơ làm thủ tục và nghi lễ và một đêm ở Tử Sĩ Đường Không Quân Tân Sơn Nhất, sáng hôm sau đưa ông bà nhạc cùng quan tài em lên phi cơ về Huế. Tưởng vậy là xong, lai rai với mấy em độc thân bẫy được mấy chục chim mía cho bõ những ngày buồn mệt nhọc. Về đến Biên hòa khoảng 9 giờ tối. Tôi rất ngạc nhiên vì thấy trong nhà đèn sáng và đông người. Khi vào mới biết đứa con út mới 2 tháng bị sốt. Huy, bác sĩ gia đình, bảo đưa nó về bịnh viện Nhi Đồng Saigòn ngay vì sợ bị sốt xuất huyết. Vì bịnh viện không có bãi đáp trực thăng nên phải ngồi xe cứu thương đưa con đi. Sau một đêm thức trắng, ngồi hành lang vừa theo dõi tình trạng con, vừa hiến máu cho muỗi. Sáng hôm sau theo Chinook về Biên Hòa lo việc PĐ.
Cũng trưa hôm đó, vợ tôi đưa con về. Lý do: con không bị sốt xuất huyết. Tôi thở dài nhẹ nhõm. Gần một tháng “kỵ tuổi”, tôi mất thêm thằng bạn thân cùng khóa với 5 anh em trong PĐ. cùng cậu em vợ mà tôi thương mến. Đây là thằng bạn cùng khóa thứ hai đều là PĐP/ PĐ237của tôi. Nói tới “năm kỵ tháng tuổi”, nhớ lại Tết Mậu Thân 1968, tôi bị bắn rớt và bị thương tại thành phố Huế, rất may còn sống. Nhưng nghĩ lại, không lẽ tất cả hơn 6 ngàn đồng bào Huế vô tội bị chết oan đều kỵ tháng Dần năm Thân hết sao. Kết quả thảm khốc tầy trời nầy đều do “tòa án nhân dân”của mấy tên trí thức cuồng tín Huế: Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Đắc Xuân và Nguyễn Thị Đoan Trinh cùng đồng bọn mất hết nhân tính gây nên.
Căn cứ Biên Hòa có 2 đơn vị lớn: SĐ3KQ và Bộ Chỉ Huy Kỹ Thuật Tiếp Vận. SĐ3KQ gồm các Không Đoàn 23 khu trục, KĐ63 F-5, KĐ43CT trực thăng, KĐ Yểm Cứ và KĐ Bảo Trì-Tiếp Liệu. Chúng tôi đã sát cánh chiếu đấu, vui buồn, sống chết đều có nhau, sống gần nhau lâu năm, cũng không lạ gì với anh em BCHKTTV.
Từ ngày Hiệp Định Paris được ký kết 27/1/1973, tình hình chính trị sôi động, thành phần thứ ba và phe đối lập trong quốc hội VNCH cũng lộ mặt rõ hơn. Ngoài xã hội, do kích động xúi giục của báo chí thiên cộng, cán cộng nằm vùng, sinh viên học sinh xuống đường rần rộ, làm xáo trộn sinh hoạt người dân lương thiện tại Thủ Đô Saigon, nên dân chúng oán ghét. Ông già ba tri gần nhà ông nhạc tôi, ăn ngay nói thẳng bảo: “Thành phần thứ ba là đám cầm c...c chó đái, để cháu coi chẳng làm nên trò trống gì đâu”. Còn báo chí giữ lập trường quốc gia bảo: “đám nầy là đám đứng giữa, là gạch nối giữa đàn ông và đàn bà”.
THÁNG BA TANG TÓC
Đầu năm 1975, tin tức chiến trường dồn dập, bất lợi:
Ngày 6/1 Phước Long, một tỉnh Đông Bắc giáp Biên Hoà thất thủ.
Ngày 10/3 Ban Mê Thuột bị tấn công. Sau 3 ngày quân-dân ta chống trả mãnh liệt, nhưng cũng mất về tay địch.Tiếp theo di tản chiến thuật, rút quân khỏi Pleiku tái phối trí. Khoảng đầu tháng 3, cậu em họ bên vợ tôi vừa tốt nghiệp Bác sĩ Quân Y lên trình diện hậu cứ Liên Đoàn Biệt Động Quân của Đại Tá Tây, anh ruột của các anh Tám, Chín, Mười của KQ, đang đóng tại Long Bình. Tiện đường cậu ghé Biên Hòa thăm vợ chồng tôi. Ngồi nói chuyện mà cậu cứ liếc hai hoa mai vàng mới toanh trên ngực có vẻ vừa lòng lắm. Cậu thích thú kể chuyện huyên thiên về ông Tiểu Đoàn Trưởng trẻ, trông rất oai hùng và quá chịu chơi.
Tuần lễ sau, Tiểu Đoàn lên Pleiku, chưa được 10 ngày, Pleiku triệt thoái, cậu thất lạc, mất tích. Cả nhà ông chú lo lắng, thất điên bát đảo vì đứa con cưng mới ra trường không biết sống chết ra sao. Vậy là 3 tỉnh Cao Nguyên Trung Phần vào tay địch. Mấy ngày sau, vợ thằng bạn chí thân của tôi chạy lên Biên Hòa khóc lóc, làm sao cho chồng chị (Biệt Động Quân) bị thương nặng rút từ Pleiku về, đang nằm ở Quân Y Viện Nha Trang. PĐ tôi tăng phái cho Nha Trang để triệt thoái quân ở Khánh Dương, nhưng tôi cũng rất bận rộn, thì giờ đâu đi tìm bạn.
Cũng trong tháng 3, vì tối mật nên nửa đêm tôi phải đích thân qua Quân Đoàn III họp. Khi tôi vào phòng đang họp. Đại Tá thuyết trình viên bảo tôi 6 giờ sáng mai cho 6 chiếc Chinook lên Lai Khê nhận lệnh. Nhiệm vụ của tôi chỉ có thế, họp không quá 3 phút. Sáng hôm sau, tôi dẫn 6 chiếc lên Lai Khê. Trời tờ mờ sáng, vừa xuống máy bay, một đám đàn bà trẻ con bu lại hỏi phải hôm nay rút An Lộc không? Tôi không trả lời và hỏi lại: các chị ở đâu đến đây. Họ bảo hôm qua ở Sài Gòn nghe tin hôm nay rút An Lộc nên lên đây đón chồng. Tôi thầm nghĩ, chính tôi còn không biết, chỉ biết lên đây nhận lệnh, thế mà người dân đã biết hôm qua. Lộ hết rồi!.
Khi vào nhận lệnh, đúng như vậy: hôm nay triệt thoái An Lộc. Sáu chiếc câu 6 cây đại bác105 giả và một túi bao đựng cát. Ở xa trông giống như câu súng và đạn thật. Tuy nhiên vì quá nhẹ, chao đảo rất khó bay. Chuyến đầu đáp xuống Xa Cam trên quốc lộ 13 gần An Lộc. Bỏ súng đạn giả xuống, lấy súng thật và bốc quân về Chơn Thành, cũng trên quốc lộ 13, cách Lai Khê khoảng 10km. Tại An Lộc khi cất cánh, địch pháo kích vài quả. Các chuyến sau cũng bị pháo kích dọa sau khi chúng tôi cất cánh xong. Chắc biết rút quân nên họ không muốn làm gián đoạn. Xong phi vụ, chiều về, không chiếc nào trúng pháo kích cả.
Cuối tháng 3 Huế, Quảng Ngãi di tản. Chiều 29/3/75, tôi cất cánh từ Hàm Tân về Biên Hòa, nghe trên tần số tiếng anh Phi đoàn Trưởng PĐ247 Đà Nẵng, tôi đùa có đem gì về nhậu không và được biết Đà Nẵng vừa rút bỏ hôm nay. Tôi ngỡ ngàng như trên trời vừa rớt xuống. Phù Cát, Nha Trang triệt thoái ngày 1tháng 4. Thế là vô vọng, kể như thằng bạn kẹt luôn ở Nha Trang…Chuyện xảy ra nhanh như cơn ác mộng. Mấy ngày sau 2 chiếc của PĐ ra Phan Rang tăng phái, chiều về, tối Phan Rang bỏ ngỏ.
Nguyễn Phú Chính PĐ237
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét