Nhìn Ra Bốn Phương

Thứ Hai, 14 tháng 4, 2025

VẺ VANG DÂN VIỆT! GIÂY PHÚT LỊCH SỬ! XẢY RA HÔM NAY, THỨ HAI, NGÀY 14 THÁNG 4 LÚC 8:30 SÁNG GIỜ TEXAS. AMANDA NGUYỄN, LÀM NÊN LỊCH SỬ! NGƯỜI PHỤ NỮ MỸ GỐC VIỆT, ĐẦU TIÊN BAY VÀO VŨ TRỤ! VÀ KÍNH CHUYỂN VÀI TIN ĐÁNG CHÚ Ý - Lê Văn Hải


VẺ VANG DÂN VIỆT! GIÂY PHÚT LỊCH SỬ! THẾ GIỚI NÓI CHUNG, VIỆT NAM NÓI RIÊNG, XẢY RA HÔM NAY, THỨ HAI, NGÀY 14 THÁNG 4 LÚC 8:30 SÁNG GIỜ TEXAS. AMANDA NGUYỄN, LÀM NÊN LỊCH SỬ! NGƯỜI PHỤ NỮ MỸ GỐC VIỆT, ĐẦU TIÊN BAY VÀO VŨ TRỤ!
<!>


*Cả thế giới theo dõi hôm nay! Phi thuyền không gian Blue Origin thông báo, chuyến bay có người lái thứ 11, có tên là NS-31 sẽ được phóng từ Launch Site One ở miền Tây Texas, vào hôm nay! thứ Hai, ngày 14 tháng 4 lúc 8:30 sáng giờ Texas. Ngoài phi hành đoàn toàn phụ nữ, nhưng đặc biệt, người được sự chú ý nhất là phi hành gia Amanda Nguyễn, người phụ nữ Việt đầu tiên, trong lịch sử, bay vào vũ trụ!

Nhà hoạt động dân quyền nổi tiếng Amanda Nguyễn, chia sẻ về việc trở thành người phụ nữ Việt Nam đầu tiên, bay vào vũ trụ!


Amanda Nguyễn đã luôn hướng tới các vì sao từ khi cô còn bé và là người phụ nữ Hoa Kỳ gốc Việt đầu tiên bay vào vũ trụ.
"Tôi luôn mơ ước trở thành phi hành gia", Cô Amanda chia sẻ với Juju Chang của ABC News tại Trung tâm Khoa học Liberty ở New Jersey. "Tôi có mối liên hệ với các vì sao, vì đó là điều đã đưa gia đình tôi đến bến bờ tự do!".
Gia đình mẹ cô là những người tị nạn trên thuyền từ Việt Nam, họ đã dựa vào hướng các vì sao để tìm đường đến bờ được an toàn. Giờ đây, con gái của những người nhập cư đó, sắp tạo nên lịch sử khi trở thành người phụ nữ Đông Nam Á đầu tiên bay vào vũ trụ! trong chuyến đi hôm nay trên tàu vũ trụ Blue Origin New Shepard, nhờ tổ chức phi lợi nhuận Space for Humanity tài trợ cho chuyến đi này.
Cô Amanda là động lực chính thúc đẩy cả Quốc hội Hoa Kỳ và Liên Hiệp Quốc đồng nhất thông qua quyền cho những người sống sót sau vụ tấn công tình dục.

"Tôi hét lên rằng, tôi cảm thấy như một lời nguyền đã được giải trừ", cô nhớ lại khoảnh khắc khi Tổng thống Barack Obama ký thành luật những gì cô đã đấu tranh.
Cô Amanda có ước mơ vươn tới các vì sao và cô nói rằng tim cô tràn ngập lòng biết ơn sâu sắc khi Space for Humanity nói rằng họ sẽ giúp cô có được một vé, trên phi thuyền Blue Origin.
"Tôi là giấc mơ của tổ tiên tôi -- và tôi rất biết ơn vì trong trái tim tôi lúc nào cũng yêu những vì sao. Tôi có thể nói với mẹ tôi, người đã vượt đại dương -- chúng ta sẽ được bay vào vũ trụ," cô ấy nói khi nhắc đến một lời tri ân gần đây mà cô ấy đã viết về chủ đề này.
Và giấc mơ của cô Amanda đã thành sự thật bởi vì Phi thuyền không gian Blue Origin thông báo, chuyến bay có người lái thứ 11, có tên là NS-31, sẽ được phóng từ Launch Site One ở miền Tây Texas vào hôm nay, thứ Hai ngày 14 tháng 4 lúc 8:30 sáng giờ Texas. Ngoài phi hành đoàn còn có những nhân vật nổi tiếng như ca sĩ Katy Perry và vợ sắp cưới của nhà tỷ phú Jeff Bezos, là Lauren Sanchez. Nhưng đặc biệt nhất là có mặt của phi hành gia Amanda Nguyễn. Ngoài ra còn có các phi hành gia khác là Aisha Bowe, Gayle King và Kerianne Flynn.

Video này diễn tả hành trình của cô từ khi bị hảm hiếp, cho đến khi cô trở thành phi hành gia.

Chung niềm tự hào! Đầu tiên trong lịch sử! Hôm nay, người phụ nữ gốc Việt Amanda Nguyễn bay vào không gian!
- Biến cố đánh dấu một bước ngoặt đáng nhớ trong hành trình chinh phục không gian của nhân loại, khi các phi hành gia đều là nữ giới.
Vào lúc 20h30 hôm nay 14/4, Amanda Nguyễn, Katy Perry cùng 4 người phụ nữ khác sẽ bước vào lịch sử, khi tham gia chuyến bay vào vũ trụ, toàn phi hành gia nữ đầu tiên! Chuyến bay được thực hiện trên tàu New Shepard của Blue Origin tại bãi phóng West Texas, Hoa kỳ.

Chuyến bay với 6 thành viên đều là nữ giới


(Phi hành gia của sứ mệnh NS-31 đều là nữ giới. Ảnh: Blue Origin).

Theo Blue Origin, sứ mệnh NS-31 gồm 6 phụ nữ nổi bật trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Đó là: nhà báo Lauren Sánchez- hôn thê của tỷ phú Jeff Bezos (nhà sáng lập Blue Origin), Katy Perry - ngôi sao nhạc pop quốc tế, Gayle King- người dẫn chương trình CBS Mornings, Amanda Nguyễn- nhà khoa học và nhà hoạt động nhân quyền, Aisha Bowe- kỹ sư hàng không vũ trụ từng làm việc tại NASA, và Kerianne Flynn- nhà sản xuất phim.
Sứ mệnh NS-31 có thời lượng bay ngắn, chỉ khoảng 11 phút, với mục tiêu đưa phi hành đoàn vượt qua Đường Kármán- ranh giới không gian quốc tế ở độ cao 100 dặm.
Đây là một bước tiến không chỉ mang tính khoa học, mà còn khẳng định lại vai trò ngày càng rõ nét của phụ nữ, trong ngành không gian vũ trụ, lĩnh vực vốn trước đây, bị thống trị bởi nam giới.

Đây là cột mốc đặc biệt không chỉ bởi yếu tố giới tính, mà còn bởi tinh thần kết hợp giữa khoa học công nghệ vũ trụ và thời trang hiện đại, thể hiện qua bộ đồ bay được thiết kế riêng bởi thương hiệu Monse.
Nhà thiết kế Fernando Garcia và Laura Kim, hai người sáng lập thương hiệu thời trang Monse, đã đích thân tạo nên mẫu đồ bay mới, bằng chất liệu vải neoprene co giãn chống cháy, đồng thời loại bỏ đi những chi tiết cồng kềnh, như miếng đệm vai và các điểm nhấn màu đen, từng thấy trên đồ bay truyền thống của Blue Origin.
Thay vào đó, bộ đồ có màu xanh đặc trưng, bóng bẩy, tôn dáng đẹp và mang hơi hướng của trang phục đua xe hoặc bộ đồ trượt tuyết, thể hiện rõ nét sự kết hợp giữa tính thẩm mỹ và hiệu xuất.
"Chúng tôi muốn thứ gì đó đơn giản, thoải mái, vừa vặn - nhưng cũng thật quyến rũ", nhà thiết kế Fernando Garcia chia sẻ về bộ đồ bay.
Theo Lauren Sánchez - người phụ trách tổ chức sứ mệnh, bộ đồ không chỉ đơn thuần như trang phục, mà còn là biểu tượng của sự thanh lịch, sức mạnh và cá tính. Qua đó, nó hoàn toàn phù hợp với mục đích tôn vinh phái nữ, mà sứ mệnh lịch sử mang tới.
Đặc biệt có người phụ nữ gốc Việt đầu tiên bay vào không gian


(Amanda Nguyễn, 34 tuổi, là nhà sáng lập kiêm Chủ tịch tổ chức phi chính phủ RISE. Ảnh: Getty).
Cô Amanda Nguyễn, sẽ là người phụ nữ gốc Việt đầu tiên làm nên lịch sử!
Trong cuộc phỏng vấn, Amanda Nguyễn tự hào nói bằng tiếng Việt: "Tôi là người Việt Nam".
"Tôi bay vào vũ trụ, để những phụ nữ trẻ Việt Nam, có thể nhìn thấy mình giữa những vì sao. Điều quan trọng đối với tôi, là tôi có thể mang cộng đồng người Việt của mình ở bên cạnh. Tôi có thể là người đầu tiên, nhưng tôi sẽ không phải là người cuối cùng", Amanda Nguyễn cho biết trong một video được công bố.

Thông qua những thành tựu đột phá của mình, Amanda không chỉ phá vỡ định kiến, mà còn truyền cảm hứng cho một thế hệ mới. Cô đã chứng minh rằng, không có trở ngại nào là không thể vượt qua, trong quá trình theo đuổi ước mơ của mình.
Được biết, tại Viện Khoa học Hàng không Quốc tế, Amanda Nguyễn đã dành 3 năm, để nghiên cứu và luyện tập, chuẩn bị cho chuyến đi vào không gian.
"Tôi phải trải qua quá trình đào tạo nghiêm ngặt để có thể trở thành phi hành gia. Từ việc học cách vận hành trong môi trường không trọng lực, huấn luyện khẩn cấp, bằng cách thoát khỏi tàu con thoi dưới nước. Đào tạo phi hành gia, là một trải nghiệm vô cùng thử thách, khó khăn, nhưng nó cho tôi vô vàn kiến thức bổ ích và trải nghiệm thú vị", Amanda chia sẻ.
"Chúng ta hãy có niềm hy vọng", Amanda Nguyễn nhắn nhủ đến những bạn trẻ Việt Nam
"Ngay cả khi cánh cửa đóng lại, ngay cả khi có những lúc bạn cần phải chọn, những con đường khác nhau, tôi hy vọng rằng bạn, sẽ không bao giờ đánh mất ước mơ và bạn hãy đi theo ngôi sao Bắc Đẩu của cuộc đời mình", cô nói.
Sao Bắc Đẩu là chòm sao, có vai trò quan trọng, trong việc định hướng và định vị trên mặt đất.


Chuyện ít người biết: Đưa hạt sen Việt Nam, bay lên vũ trụ cùng nữ phi hành gia đầu tiên gốc Việt!

- Việt Nam sẽ hợp tác với nữ phi hành gia người Mỹ gốc Việt Amanda Nguyễn, đưa 169 hạt sen Việt Nam vào không gian, trong sứ mệnh không gian lịch sử NS-31 với phi hành đoàn toàn nữ đầu tiên của Blue Origin.
Tàu New Shepard sẽ bay vào không gian lúc 20h30 ngày 14/4/2025 tại Van Horn, Texas, Hoa Kỳ, đánh dấu một cột mốc quan trọng trong khám phá không gian và mối quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và Hoa Kỳ.
Chuyến bay suborbital kéo dài khoảng 11 phút, với phi hành đoàn trải qua vài phút không trọng lực ở độ cao tối đa khoảng 105 dặm, chiêm ngưỡng đường cong của Trái Đất và bóng tối của vũ trụ, trước khi hạ cánh an toàn bằng dù, tại Tây Texas.


(Tàu New Shepard của Blue Origin. Nguồn: VNSC.)
Chuyến bay được tài trợ bởi Space for Humanity. Đồng hành cùng Amanda trong sứ mệnh NS-31, là năm phi hành gia nữ xuất sắc: Aisha Bowe, nguyên kỹ sư hàng không vũ trụ người Mỹ gốc Bahamas; Gayle King, nhà báo nổi tiếng; Katy Perry, ca sĩ và nhà từ thiện; Kerianne Flynn, nhà sản xuất phim và Lauren Sánchez, phi công trực thăng và nhà báo.
Đây là đoàn phi hành gia toàn nữ đầu tiên kể từ chuyến bay của Valentina Tereshkova năm 1963, thể hiện bước tiến bình đẳng giới tính trong ngành không gian.
Trong hành trình này, phi hành đoàn sẽ đưa vào không gian, 169 hạt sen giống của Việt Nam. Đây là loài cây biểu tượng của sự tinh khiết và sức sống mãnh liệt trong văn hóa Việt Nam.
Những hạt giống này được tuyển chọn từ Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Hoa, Cây cảnh thuộc Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam.
Những hạt sen sẽ được đưa ra khỏi trái đất, sau đó trở về, mở ra các nghiên cứu về ảnh hưởng của không gian lên sự sinh trưởng, góp phần vào khoa học thực vật và khám phá vũ trụ.


(Khoang phi hành đoàn của tàu New Shepard.)
Hành trình diệu kỳ của 169 hạt sen lên không gian, là một câu chuyện vượt thời gian, nơi hoa sen – loài hoa nở rộ từ bùn lầy – trở thành biểu tượng của lòng kiên định và hy vọng.
Sứ mệnh này được thực hiện trên tàu New Shepard của Blue Origin – một kỳ tích công nghệ do Jeff Bezos sáng lập, nổi bật với khả năng tái sử dụng và đưa con người vượt qua đường Kármán, ranh giới không gian ở độ cao 100 dặm trên mực nước biển.
Với động cơ BE-3 mạnh mẽ chạy bằng oxy lỏng và hydro, New Shepard không chỉ là biểu tượng của công nghệ tiên phong, mà còn là bước đệm cho tương lai du hành vũ trụ thương mại hóa.
Trong tương lai, sau khi tiếp nhận 169 hạt sen, Trung tâm Vũ trụ, sẽ triển khai kế hoạch nghiên cứu và lan tỏa giá trị khoa học đến cộng đồng thế giới, đặc biệt là giới trẻ, nhằm khơi dậy đam mê khám phá không gian.


(Amanda Nguyễn - Người phụ nữ Mỹ gốc Việt đầu tiên bay vào không gian.)
Cô Amanda Nguyễn sinh ra tại California trong một gia đình người Việt tị nạn, lớn lên với giấc mơ chinh phục các vì sao. Là nhà sáng lập tổ chức Rise, bà trở thành người phụ nữ Mỹ gốc Việt đầu tiên bay vào không gian, mang theo niềm tự hào của cộng đồng Việt Nam toàn cầu.


Hành trình gần một thập kỷ giúp đỡ những nạn nhân bị tấn công tình dục, thành nữ phi hành gia!
-Năm 2013, Amanda Nguyễn là nạn nhân của một vụ tấn công tình dục khi đang học đại học tại trường Đại học Harvard ở Massachusetts, Mỹ.,
Sau vụ việc kinh hoàng, cô quyết định không buộc tội ngay lập tức vì cảm thấy mình không có đủ thời gian và nguồn lực cần thiết để tham gia vào một phiên tòa có thể kéo dài nhiều năm.
Sau khi gặp gỡ với những nạn nhân bị tấn công tình dục khác với những câu chuyện tương tự, Amanda Nguyễn nhận thấy rằng các biện pháp bảo vệ pháp lý hiện tại đối với nhóm người yếu thế ở Mỹ là chưa đủ.


(Từng là một nạn nhân bị tấn công tình dục, Amanda Nguyễn quyết tâm đứng lên để bảo vệ quyền lợi của nhóm người yếu thế trong xã hội)
Tạm gác lại những dự án còn dang dở, cô quyết tâm sẽ đứng ra để bảo vệ quyền lợi, mang lại công lý cho bản thân và những nạn nhân bị lạm dụng, tấn công tình dục khác.
Năm 2014, cô thành lập Rise, một tổ chức phi lợi nhuận nhằm bảo vệ quyền công dân của những nạn nhân bị tấn công tình dục và cưỡng hiếp.
Một trong những phát kiến tạo ra bước ngoặt của Amanda Nguyễn trong hành trình của mình, là việc được luật pháp công nhận, cho phép sử dụng "bộ dụng cụ thu thập chứng cứ hiếp dâm" (rape kit).

Đây là bộ dụng cụ nhằm thu thập bằng chứng DNA từ hiện trường vụ án hiếp dâm, có thể là từ cơ thể, quần áo, và các vật dụng cá nhân của nạn nhân. Theo Amanda Nguyễn, thủ tục này nhằm mục đích thu thập, tiến hành điều tra và cuối cùng là tìm ra kẻ phạm tội.
"Bộ dụng cụ chống hiếp dâm của tôi mất 6 giờ trong bệnh viện để tìm ra hung thủ, và đưa hắn ra ngoài ánh sáng", Amanda Nguyễn cho biết trên website cá nhân.
Amanda sau đó cũng tham gia vào đề xuất, soạn thảo Đạo luật về Quyền của những người sống sót sau vụ tấn công tình dục, được nhất trí thông qua tại Quốc hội trước khi được cựu Tổng thống Mỹ Barack Obama ký thành luật vào ngày 7/10/2016.

Những chuyện chưa biết, về Amanda Nguyen, người phụ nữ gốc Việt đầu tiên du hành vũ trụ!

-Cuối tháng 3 vừa qua, Tổ chức phi lợi nhuận Space for Humanity công bố Amanda Nguyen sẽ du hành vào không gian, trong đợt phóng phi thuyền New Shepard tiếp theo của Tập đoàn hàng không vũ trụ Blue Origin.
Thông tin này được bùng nổ, chia sẻ mạnh không chỉ trong cộng đồng người Việt ở Mỹ mà còn ở Việt Nam, bởi Amanda Nguyen (từng được đề cử giải Nobel Hòa bình năm 2019), sẽ trở thành người phụ nữ gốc Việt đầu tiên bay vào vũ trụ.


(Amanda Nguyen - Ảnh: NVCC)
Amanda Nguyen (32 tuổi) sinh ra và lớn lên tại tiểu bang California, Mỹ.
Cô tốt nghiệp Đại học Harvard và từng thực tập tại Cơ quan Hàng không và Vũ trụ Mỹ (NASA) vào năm 2013.
Cô cũng từng làm việc tại Trung tâm Vật lý thiên văn Harvard - Smithsonian.
Lần giở những ký ức về nơi khởi nguồn của tình yêu với không gian, Amanda nói rằng sự quan tâm của cô với vũ trụ xuất phát từ Hiệu ứng toàn cảnh (Overview Effect).
"Đó là trải nghiệm mà nhiều phi hành gia có được khi lần đầu tiên du hành vào vũ trụ. Đó là góc nhìn từ không gian rằng mọi sinh vật sống, đều đang hiện diện ở trên chấm màu xanh nhạt này.

Các phi hành gia rời Trái đất với tư cách là những nhà khoa học kỹ thuật, nhưng họ trở về địa cầu trong vai trò là những nhà hoạt động được thôi thúc thực hiện các công việc vì lợi ích nhân loại", nữ phi hành gia tương lai của Blue Origin nói.
Amanda Nguyen lựa chọn đồng hành với chương trình Phi hành gia công dân của Tổ chức Space for Humanity, vì sứ mệnh của tổ chức này cũng được dẫn dắt bởi Hiệu ứng toàn cảnh.
Các ứng viên cho chương trình Phi hành gia công dân trải qua tổng cộng ba vòng tuyển chọn, bắt đầu với vòng nộp hồ sơ trực tuyến, trình bày về đam mê, sứ mệnh cá nhân và những hoạt động lãnh đạo, phát triển cộng đồng.


Vài Tin Đáng Chú Ý

Chính sách thuế quan của ông Trump làm gợi lại một lý thuyết kinh tế bị lãng quên
Thuế quan Tối ưu: Ý tưởng đứng sau chiến lược thương mại của ông Trump

(Breitbart News)
-Suốt nhiều thập niên, giới tinh hoa Hoa Kỳ vẫn thường nói về tự do mậu dịch như thể đó là một điều răn thiêng liêng được khắc lên bia đá —không thể bàn cãi, thiêng liêng và vĩnh cửu. Thuế quan, theo họ, chỉ là: Di tích của quá khứ; một dị giáo về kinh tế; một con đường tất yếu dẫn tới giá cả gia tăng, sản lượng sụt giảm, và sự trả đũa lan rộng trên toàn thế giới.
Nhưng điều mà họ không nói với bạn— hay đúng hơn, điều mà hầu hết họ không hay biết— chính là một số kinh tế gia lỗi lạc nhất trong lịch sử đã từng phát triển một lý thuyết chứng minh điều ngược lại: trong những điều kiện thích hợp, thuế quan có thể khiến quốc gia trở nên giàu mạnh hơn.
Ý tưởng ấy mang tên lý thuyết thuế quan tối ưu (optimum tariff theory), và nó đã tồn tại từ rất lâu trước khi các nhà kinh tế học hiện đại bắt đầu giả vờ xem tự do mậu dịch là một chân lý không thể bàn cãi. Rất lâu trước khi ông Donald Trump thốt ra từ “thuế quan”, các kinh tế gia cổ điển người Anh đã tìm ra chính xác cách thức, thời điểm và lý do tại sao một quốc gia hùng mạnh có thể tác động đến thương mại toàn cầu theo hướng có lợi cho mình.

•Lý thuyết thuế quan tối ưu (optimum tariff theory) là học thuyết kinh tế khẳng định rằng: (1) Nếu một quốc gia đủ mạnh (có quyền lực thị trường) (2) Quốc gia biết áp thuế quan đúng mức (không quá cao, không quá thấp) (3) Thì quốc gia đó sẽ ép được đối tác thương mại giảm giá hàng hoá xuất khẩu, mang lại lợi cho chính mình cũng như tăng thu nhập quốc dân.
Và nếu điều đó nghe có vẻ quen thuộc, thì đúng là như vậy. Bởi lẽ, chính sách thương mại của ông Trump — đặc biệt là mức thuế quan cơ bản 10% đối với tất cả hàng hóa nhập khẩu — là một ứng dụng hoàn hảo trong thực tế của lý thuyết thuế quan tối ưu này.
Nhưng trước khi đi sâu hơn vào vấn đề, chúng ta cần dừng lại đôi chút để hiểu lý thuyết ấy thật sự nói gì.
Điểm cốt lõi của lý thuyết là thế này: khi một quốc gia đủ lớn, quốc gia ấy có thể tác động tới giá cả toàn cầu. Hoa Kỳ không phải là một nền kinh tế nhỏ và hoàn toàn mở cửa. Trái lại, Hoa Kỳ là bên mua lớn nhất thế giới. Khi Hoa Kỳ mua ít đi một món hàng nào đó, thế giới sẽ phải chú ý. Giá cả sẽ dao động.

Bây giờ hãy thử tưởng tượng Hoa Kỳ áp thuế quan lên hàng nhập khẩu. Về bản chất, đó chỉ là một loại thuế thu tại biên giới. Nó khiến giá trong nước của hàng ngoại tăng lên. Kết quả là người dân mua ít đi. Nhưng nếu Hoa Kỳ chiếm tỉ trọng lớn nhu cầu toàn cầu đối với sản phẩm đó — như thép, chất bán dẫn, ô tô, tấm pin mặt trời, hay bất cứ thứ gì — thì giá cả toàn cầu sẽ bắt đầu sụt giảm. Quốc gia bán hàng không dễ gì tìm được người mua khác. Cung vượt cầu. Và thế là, giá cả sẽ giảm.
Trong trường hợp này, thuế quan không làm cho sản phẩm trở nên đắt đỏ hơn trong nước. Thuế quan còn đẩy giá của sản phẩm trên thế giới xuống, vì vậy Hoa Kỳ sẽ phải trả ít hơn cho mặt hàng đó so với khi không có thuế quan. Đúng là Hoa Kỳ hy sinh một phần khối lượng giao thương—nhưng những gì Hoa Kỳ giao dịch, đất nước này giao dịch theo các điều khoản tốt hơn. Đây là những gì các nhà kinh tế gọi là lợi ích từ tỷ giá thương mại (terms-of-trade gain).
•“Terms-of-trade gain” (lợi ích từ tỷ giá thương mại) đề cập đến lợi ích kinh tế mà một quốc gia thu được khi tỷ giá thương mại (terms of trade – TOT) cải thiện. Tỷ giá thương mại là tỷ lệ giữa giá xuất khẩu và giá nhập khẩu của một quốc gia.

Và đó chính là lý do lý thuyết có tên gọi thuế quan tối ưu. Nếu quý vị nâng thuế quan lên quá cao, chúng ta mất quá nhiều khối lượng giao thương và lợi nhuận sẽ tiêu tan. Nếu không nâng thuế chút nào, quý vị sẽ lại bỏ phí quyền lực thương lượng của mình trên bàn đàm phán. Nhưng khi có một mức thuế “vừa đủ” — ở một mức mà việc cải thiện tỷ lệ thương mại lớn hơn khối lượng thương mại bị mất. Đó là thuế quan tối ưu.
Hãy hình dung thế này: nếu siêu thị duy nhất trong thị trấn của quý vị tăng giá gấp đôi vào ngày mai, có lẽ quý vị sẽ phải đi mua ở nơi khác. Nhưng nếu chỉ có một cửa hàng duy nhất trong thị trấn, và nó chỉ tăng giá một chút thôi, phần lớn người mua vẫn sẽ ở lại và đành phải trả tiền. Cửa tiệm đó có quyền lực thị trường. Và Hoa Kỳ cũng vậy.
Dĩ nhiên, lý thuyết này có một mặt trái. Nếu mọi quốc gia đều làm như vậy — ai nấy cũng cố gắng tăng thuế để có được những thỏa thuận tốt hơn— thì thương mại toàn cầu có thể sẽ thu hẹp lại. Tệ hơn nữa, các quốc gia khác có thể trả đũa bằng thuế quan của riêng họ. Đó là điều mà nhiều kinh tế gia cổ điển phát triển lý thuyết này cảm thấy lo ngại. Và suốt nhiều thập niên, nỗi lo này đã trở thành lý do để người ta phớt lờ lý thuyết này. Tự do mậu dịch chẳng còn là một chính sách kinh tế thuần túy nữa, mà đã được tôn vinh như một phẩm hạnh đạo đức, một chuẩn mực mà các nước phải tuân thủ.

Nhưng lý thuyết ấy chưa từng biến mất.
Lịch sử bị lãng quên của các biện pháp thuế quan chiến lược

Vào giữa thế kỷ 19, một kinh tế gia người Anh tên là Robert Torrens đã chỉ ra rằng thuế quan có thể cải thiện vị thế thương mại của một quốc gia bằng cách làm thay đổi cán cân nhu cầu giữa các nước. Ông John Stuart Mill tiếp bước bằng cách phát triển học thuyết này với cách tiếp cận sâu sắc hơn, đưa ra luận điểm rằng lợi ích mà một quốc gia thu được từ thuế quan sẽ tùy thuộc vào mức độ co giãn của nguồn cung từ đối tác thương mại của họ (elasticity of its trading partner’s supply) —tức là nếu nước Mỹ giảm mua hàng, thì đối tác có dễ dàng tìm khách hàng mới để bán hay không.
Về sau, vào cuối thế kỷ 19, các kinh tế gia như Alfred Marshall và Henry Sidgwick đã xây dựng nên những mô hình biểu đồ cho thấy cách các quốc gia có thể điều chỉnh khối lượng giao thương để thu lợi nhiều hơn ra sao. Ông Francis Edgeworth còn khai triển ý tưởng về đường cong bàng quan trong thương mại (trade indifference curves) — những bản đồ kinh tế mô tả mức độ lợi ích kinh tế quốc gia — và chứng minh chính xác đâu là điểm mà một quốc gia có thể đạt được lợi ích tối đa từ thuế quan. Lý thuyết ấy càng về sau càng trở nên tinh tế, chuẩn xác, và khó lòng bị bỏ qua hơn.

•Đường bàng quan trong thương mại (Trade Indifference Curves): là đường thể hiện các mức kết hợp giữa hàng nhập khẩu & hàng xuất khẩu, mà quốc gia đó cảm thấy hài lòng như nhau trong mua bán — tức là đổi hàng kiểu nào cũng được miễn sao ở trên đường đó thì quốc gia không lời cũng không lỗ thêm.
Rồi đến năm 1906, nhà kinh tế học C.F. Bickerdike đã tung ra cú đấm đo ván trên vũ đài toán học. Ông Bickerdike đã chứng minh — bằng các phương trình rõ ràng — rằng: một mức thuế quan khiêm tốn, do một quốc gia có sức mạnh thị trường áp đặt— tức là quốc gia đó nhập khẩu những mặt hàng mà nguồn cung trên thế giới không co giãn hoàn hảo (perfectly elastic) [nếu Mỹ giảm mua, thế giới không dễ bán chỗ khác]— có thể làm tăng thu nhập quốc dân. Thậm chí, ông Bickerdike còn đưa ra một công thức toán học, cho đến nay vẫn còn được các nhà kinh tế học trích dẫn — dù họ chỉ dám thừa nhận trong những chú thích nhỏ dưới chân trang rằng: vâng, thuế quan thật sự có thể phát huy hiệu quả.

•Không co giãn hoàn hảo (perfectly elastic): Là trạng thái mà bất kể thế giới mua nhiều hay ít, giá bán không đổi.
Vào thời điểm ông Nicholas Kaldor xuất bản bài luận nổi tiếng của mình vào năm 1940, “Ghi chú về Thuế quan và Điều khoản Thương mại”, thì những phần khó nhọc nhất của học thuyết này đã được những bậc tiền bối hoàn tất. Nhưng ông Kaldor đã làm một việc thiết yếu: ông đã hệ thống hoá và chắt lọc học thuyết ấy thành một khuôn mẫu rõ ràng, dễ giảng dạy, dễ minh họa, và dễ dàng áp dụng lại. Ông Kaldor đã lấy những yếu tố cực kỳ phức tạp của lý thuyết: cung cầu đối ứng và đường bàng quan kinh tế, rồi trình bày nó trong một mô hình đơn giản hóa: hai quốc gia — hai mặt hàng. Trong phiên bản của Kaldor, thuế quan đẩy đường cung thương lượng của quốc gia dịch ra xa—có nghĩa là mua bán với cùng số lượng cũ nhưng đòi hỏi điều kiện tốt hơn. Khi đó, điểm tiếp xúc giữa đường cung của quốc gia ấy với đường cung của đối tác thương mại sẽ di chuyển lên một đường bàng quan cao hơn — biểu thị cho mức lợi ích kinh tế tăng trưởng.

Ông Kaldor đã dẫn dắt người đọc qua từng bước lập luận: nếu một quốc gia đủ lớn để gây ảnh hưởng đến giá cả toàn cầu, thì thuế quan sẽ làm giảm lượng hàng nhập khẩu, giảm giá toàn cầu của hàng hóa đó, và rồi quốc gia đó có thể nhập khẩu trở lại với giá rẻ hơn. Kết quả là gì? Quốc gia ấy vẫn giữ lại được nhiều giá trị hơn trên mỗi giao dịch — tức là mức phúc lợi quốc gia gia tăng thực sự.

Dĩ nhiên, ông Kaldor đã hết sức thận trọng. Ông cảnh báo không nên áp dụng thuế quan quá cao. Ông giả định rằng sẽ không có trả đũa. Ông thậm chí còn mở đầu luận văn của mình bằng việc tái khẳng định bản thân vẫn ủng hộ nguyên tắc tự do mậu dịch nói chung. Nhưng tác động của bài viết thì không thể chối cãi: ngay cả trong giới ủng hộ tự do mậu dịch, lập luận về thuế quan tối ưu giờ đây đã trở thành điều không thể phủ nhận.

Sau này, các nhà kinh tế học đã đưa sơ đồ của Kaldor vào sách giáo khoa — nhưng thường là tách rời nó ra khỏi bối cảnh thực tế. Họ trình bày nó như một sự hiếu kỳ của các nhà kinh tế, một lý thuyết phụ, thay vì nhìn nhận bản chất thực sự của nó: một lời bác bỏ sắc bén đối với ý tưởng cho rằng tự do mậu dịch luôn luôn là chính sách tốt nhất.
Vậy vì sao học thuyết ấy lại bị vùi lấp? Bởi vì nó làm sụp đổ những lời hứa ngọt ngào về đôi bên cùng có lợi. Bởi vì nó chỉ ra một sự thật: thương mại không phải là đôi bên cùng có lợi, mà thường là có kẻ thắng, người thua. Bởi vì nó chứng minh rằng: các cường quốc có thể trở nên giàu có hơn bằng cách chuyển gánh nặng sang các quốc gia yếu thế hơn.

Ông Trump không hề trích dẫn những nhà kinh tế gia ấy. Ông cũng chẳng cần phải làm vậy. Bản năng mách bảo ông điều mà họ đã chứng minh về mặt lý thuyết: Nước Mỹ có đòn bẩy. Nước Mỹ là khách hàng mà cả thế giới đều khao khát tiếp cận. Và khi nước Mỹ đặt ra một mức giá — dù rất khiêm tốn — để có quyền tiếp cận thị trường của mình, thì đất nước này sẽ có được những thỏa thuận tốt đẹp hơn. Đó chính là lập luận đằng sau mức thuế quan cơ sở 10%. Đó cũng chính là lập luận đằng sau chính sách thuế quan đối ứng.


Dịch sởi tại Mỹ vượt mốc 700 ca: Áp lực dồn lên bộ trưởng Robert F. Kennedy Jr.
(Tú Liên)
WASHINGTON, D.C. – Số ca mắc bệnh sởi tại Hoa Kỳ vừa chính thức vượt mốc 700, đánh dấu một trong những đợt bùng phát nghiêm trọng nhất trong những năm gần đây và gây sức ép lớn đối với Bộ trưởng Y tế và Dịch vụ Nhân sinh, ông Robert F. Kennedy Jr.
Theo dữ liệu từ Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh (CDC), tính đến thời điểm hiện tại đã có 712 ca bệnh sởi được ghi nhận trên toàn quốc, trải rộng trên 25 tiểu bang. Các bang mới phát hiện thêm ca nhiễm bao gồm Kansas, Ohio và Indiana.

Texas – Tâm dịch của cả nước
Trong một cuộc họp nội các tại Nhà Trắng đầu tuần này, Bộ trưởng Kennedy từng cho rằng số ca mắc đang có dấu hiệu chững lại. Tuy nhiên, số liệu mới nhất cho thấy số ca tiếp tục tăng.
Tiểu bang Texas đang là điểm nóng nhất, với 514 ca được xác nhận, chiếm hơn 70% tổng số ca toàn quốc. Quận Gaines một mình ghi nhận 355 ca, biến nơi đây thành tâm điểm của làn sóng lây nhiễm.
Theo Sở Y tế Texas, chỉ trong đầu tuần này, tiểu bang đã ghi nhận thêm 36 ca mới. Tính từ khi đợt bùng phát bắt đầu, ít nhất 56 người tại Texas đã phải nhập viện vì các biến chứng nghiêm trọng. Hai trẻ em trong độ tuổi đi học đã tử vong – cả hai đều chưa được tiêm vaccine MMR và không có bệnh nền.

Kennedy đối mặt với khủng hoảng
Đợt bùng phát này đánh dấu lần đầu tiên ông Kennedy buộc phải đối mặt và điều chỉnh quá khứ từng là một trong những người phản đối vaccine hàng đầu, kể từ khi đảm nhận vai trò lãnh đạo, trong bối cảnh các đợt cắt giảm ngân sách dưới thời chính quyền Trump đã ảnh hưởng đến các cơ quan y tế công cộng chịu trách nhiệm theo dõi và phòng ngừa dịch bệnh.
Trong một chuyến thăm không công bố trước tại quận Gaines, ông đã đến chia buồn cùng gia đình bé gái 8 tuổi vừa qua đời vì bệnh sởi.
“Tôi đến đây không phải với tư cách quan chức, mà là một người muốn ở bên cộng đồng trong thời khắc đau buồn”, ông Kennedy phát biểu.
Quan trọng hơn, ông Kennedy đã công khai ủng hộ vaccine sởi – quai bị – rubella (MMR), gọi đây là “phương pháp hiệu quả nhất để ngăn ngừa dịch bệnh”.

Tình hình tại các bang khác
New Mexico: Có tổng cộng 58 ca mắc, trong đó 6 người đã tiêm ít nhất một liều vaccine MMR. Một trường hợp tử vong đang được điều tra, nạn nhân được xác nhận chưa tiêm chủng.
Kansas: Ghi nhận 32 ca, với một nửa là trẻ em từ 5–17 tuổi – nhóm tuổi vốn đang trong giai đoạn học đường dễ lây lan.
Indiana: Phát hiện 6 ca, tất cả đều tại quận Allen.

Chính quyền Trump chấm dứt tư cách bảo vệ tạm thời đối với hàng nghìn người Afghanistan
(Phạm Duy)

-Chính quyền Trump sẽ chấm dứt tư cách bảo vệ đối với hàng nghìn người Afghanistan đã nhập cảnh vào Hoa Kỳ sau sự kiện rút quân hỗn loạn khỏi Afghanistan vào năm 2021 dưới thời chính quyền Biden.
Bộ An ninh Nội địa Hoa Kỳ (DHS) không có kế hoạch gia hạn tư cách bảo vệ tạm thời (TPS) của người Afghanistan, tư cách này kéo dài từ sáu đến 18 tháng và áp dụng cho những người từ các quốc gia đang có chiến tranh hoặc gặp thiên tai hoặc một số sự kiện khác, khiến việc trở về đất nước mình trở nên nguy hiểm.
Quân đội Hoa Kỳ đã sơ tán hơn 82.000 người Afghanistan khỏi đất nước họ khi Hoa Kỳ rút quân vào năm 2021 và Taliban tiếp quản quốc gia Nam Á này.
Hàng nghìn người Cameroon cũng dự kiến sẽ mất tư cách bảo vệ tạm thời.
Phát ngôn viên Bộ An ninh Nội địa (DHS), bà Tricia McLaughlin, nói với Fox News: “Ít nhất 60 ngày trước khi TPS hết hạn, bà Bộ trưởng — sau khi tham khảo ý kiến với các cơ quan chính phủ Hoa Kỳ có liên quan — phải xem xét tình hình tại quốc gia được chỉ định để xác định liệu các điều kiện hỗ trợ cho việc chỉ định đó có còn được đáp ứng hay không, và nếu có, thì quyết định thời hạn gia hạn tư cách. Nếu Bộ trưởng xác định rằng quốc gia đó không còn đáp ứng các điều kiện theo quy định pháp luật để tiếp tục được chỉ định, bà ấy phải chấm dứt tư cách này“.

Bà McLaughlin nói thêm: “Bộ trưởng xác định rằng Afghanistan không còn tiếp tục đáp ứng các yêu cầu theo luật định để được chỉ định TPS và do đó bà [Bộ trưởng] đã chấm dứt TPS đối với Afghanistan“.
Bà McLaughlin cho biết quyết định này “dựa trên đánh giá của Cơ quan Di trú và Nhập tịch Hoa Kỳ (USCIS) về các điều kiện tại Afghanistan. Là một phần của quy trình đánh giá, USCIS đã tham vấn Bộ Ngoại giao“.
Ông Shawn VanDriver, người từng phục vụ trong quân đội và là chủ tịch của #AfghanEvac, không đồng ý với đánh giá của chính quyền Trump về Afghanistan.
“Tình hình thực tế không được cải thiện — chúng còn tệ hơn“, ông VanDriver nói với NPR. “Những người Afghanistan được mời đến đây, những người đã xây dựng cuộc sống ở đây, giờ đây được cho biết rằng họ không quan trọng. Thật tàn nhẫn, hỗn loạn và làm suy yếu mọi thứ mà nước Mỹ tuyên bố bảo vệ khi chúng ta hứa sẽ không bỏ lại các đồng minh của mình phía sau“.

Hơn 14.000 người Afghanistan và 7.000 người Cameroon dự kiến sẽ mất quyền bảo vệ TPS.
Chính quyền Biden đã gia hạn quyền bảo vệ TPS cho người Afghanistan vào năm 2023.
Quyền bảo vệ TPS của Afghanistan kết thúc vào tháng Năm và quyền bảo vệ của Cameroon vào tháng Sáu. Vào thời điểm đó, công dân hai nước này đang cư trú tại Hoa Kỳ sẽ đủ điều kiện bị trục xuất.
Tháng trước, một thẩm phán đã trì hoãn nỗ lực của chính quyền Trump nhằm chấm dứt quyền bảo vệ TPS đối với người Venezuela.
Cả Afghanistan và Venezuela đều được Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ liệt kê là “Cấp độ 4: Không được đi du lịch” vì nguy cơ khủng bố, giam giữ trái phép, bất ổn dân sự và bắt cóc.
Cameroon được liệt kê là “Cấp độ 2: Tăng cường thận trọng” vì nguy cơ khủng bố, bắt cóc và bạo lực có vũ trang.

Công ty dược phẩm Thụy Sĩ Novartis công bố khoản đầu tư 23 tỷ USD vào Hoa Kỳ
(Gia Huy)

(Novartis là công ty dược phẩm lớn thứ hai trên thế giới).
-Công ty dược phẩm Thụy Sĩ Novartis đã công bố kế hoạch xây dựng 7 cơ sở mới và mở rộng các cơ sở khác tại Hoa Kỳ với khoản đầu tư 23 tỷ USD trong vòng 5 năm. Động thái này được Novartis đưa ra sau khi Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump thông báo sắp áp đặt thuế quan đối với dược phẩm nhập khẩu.
Hãng dược phẩm Thụy Sĩ đã công bố kế hoạch đầu tư lớn này trong một thông cáo báo chí.

Thông cáo này cho biết một số chi tiết: “Cam kết [đầu tư] này cho phép Novartis mở rộng hoạt động sản xuất, nghiên cứu và công nghệ hiện tại trên khắp đất nước [Hoa Kỳ] với 10 cơ sở, bao gồm 7 cơ sở hoàn toàn mới, tạo ra gần 1.000 việc làm tại Novartis và khoảng 4.000 việc làm bổ sung tại Hoa Kỳ”.

Sáu trong số các cơ sở này sẽ là nhà máy sản xuất, hai trong số các nhà máy đó sẽ tập trung vào liệu pháp xạ trị tại tiểu bang Florida và tiểu bang Texas. Vẫn chưa biết bốn nhà máy còn lại sẽ được xây dựng ở đâu.

Ngoài ra, một phần của gói đầu tư này, Novartis sẽ thành lập một trung tâm đổi mới nghiên cứu y sinh ở thành phố San Diego thuộc tiểu bang California. Đồng thời hãng dược phẩm Thụy Sĩ này sẽ mở rộng ba cơ sở sản xuất tại các tiểu bang Indiana, New Jersey, và California.

Novartis cũng lưu ý rằng mục tiêu đầu tư của họ là để đảm bảo “tất cả các loại thuốc quan trọng của Novartis dành cho bệnh nhân Hoa Kỳ sẽ được sản xuất tại Hoa Kỳ”.
Đáng chú ý, hôm thứ Ba (8/4), Tổng thống Trump đã cam kết sẽ áp đặt thuế quan đối với các loại thuốc được sản xuất ở các quốc gia khác nhập khẩu vào Hoa Kỳ.
Tối thứ Ba (8/4), khi phát biểu tại bữa tiệc tối của Ủy ban Quốc hội Cộng hòa Quốc gia (NRCC), Tổng thống Trump nhấn mạnh: “Vì vậy, chúng tôi sẽ sớm công bố mức thuế quan lớn đối với dược phẩm. Và…khi họ [các công ty dược phẩm] nghe thấy điều đó, họ sẽ rời khỏi Trung Quốc, họ sẽ rời khỏi các nơi khác, bởi vì…hầu hết sản phẩm của họ được bán ở đây [Hoa Kỳ]. Và họ sẽ thành lập các nhà máy của họ trên khắp đất nước của chúng ta”.

Tổng thống Trump tiếp tục khẳng định lại tuyên bố áp đặt thuế quan đối với dược phẩm vào thứ Tư (9/4).
Phát biểu với các phóng viên, vị tổng thống Đảng Cộng hòa đề cập lý do áp đặt thuế quan: “Chúng tôi nhận ra rằng trong thời kỳ COVID, chúng ta không sản xuất thuốc hoặc dược phẩm tại đất nước này [Hoa Kỳ]”.
Tuy nhiên, theo Reuters, Giám đốc điều hành Vas Narasimhan của Novartis đã phủ nhận rằng thuế quan tiềm ẩn là nguyên nhân chính dẫn đến động thái đầu tư của Novartis
Ông Narasimhan giải thích: “Chúng tôi tin rằng chúng tôi có thể xoay xở được các mức thuế quan này – mặc dù tất nhiên chúng sẽ gây ra rất nhiều khó khăn – Vì vậy mặc dù đó là một yếu tố [đằng sau khoản đầu tư này], nhưng nó không phải là yếu tố thúc đẩy”.
Đây là động thái mới nhất trong làn sóng đầu tư vào Hoa Kỳ kể từ khi Tổng thống Trump quay trở lại nhiệm sở và bắt đầu cảnh báo sẽ áp đặt chính sách thuế quan. Trước đó, một số kế hoạch đầu tư lớn vào Hoa Kỳ đã được công bố, chẳng hạn như OpenAI, Oracle và SoftBank công bố một dự án chung cam kết đầu tư 500 tỷ USD vào Hoa Kỳ, trong khi Apple cũng thông báo khoản đầu từ 500 tỷ USD vào Hoa Kỳ. Đây chỉ là một vài ví dụ trong làn sóng đầu tư vào Hoa Kỳ gần đây.

Los Angeles Xem Xét Kết Nghĩa Với Hà Nội Với Điều Kiện: “Cấm Buôn Bán Thịt Chó, Mèo”

LOS ANGELES – Hội Đồng Thành Phố (HĐTP) Los Angeles đang xem xét đề nghị kết nghĩa với Hà Nội, thủ đô Việt Nam, với một điều kiện đặc biệt: Hà Nội cần cấm buôn bán và tiêu thụ thịt chó và mèo. Đề xuất này nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ từ cộng đồng địa phương và các tổ chức bảo vệ động vật quốc tế.
Theo thông cáo báo chí ngày 9 Tháng Tư của tổ chức In Defense of Animals, đã có hơn 2.900 ý kiến từ cư dân Los Angeles gửi đến HĐTP để ủng hộ đề nghị này. Bên cạnh đó, một bức thư vận động thiết lập quan hệ kết nghĩa đã thu hút gần 10.000 chữ ký.
Đề xuất được đưa ra bởi Nghị viên Bob Blumenfield (Địa hạt 3) và được Chủ tịch HĐTP Marqueece Harris-Dawson đồng bảo trợ. Theo nội dung đề nghị, trong quá trình đàm phán để thiết lập mối quan hệ kết nghĩa, các đại diện của Los Angeles cần lưu ý đến chính sách đã được xác lập trong Nghị quyết 19-0002-S101, phản đối việc buôn bán thịt chó và mèo tại một số quốc gia, trong đó có Việt Nam.

Tổ chức Global Anti-Dog Meat Coalition, trực thuộc In Defense of Animals, là một trong những đơn vị tích cực vận động cho sáng kiến này. Bà Fleur Dawes, Giám đốc truyền thông và đối tác quốc tế của tổ chức, cho biết: “Chúng tôi vô cùng kỳ vọng vào cơ hội xây dựng mối quan hệ với Hà Nội nhằm góp phần chấm dứt tình trạng buôn bán thịt chó mèo tàn bạo, và tạo tiền lệ cho các địa phương khác noi theo.”
Ông Jeffrey Mausner, đồng sáng lập Global Anti-Dog Meat Coalition, là người khởi xướng dự án “Sister City Project to End Dog and Cat Meat in Vietnam,” với mục tiêu đặt vấn đề phúc lợi động vật làm trọng tâm trong quan hệ kết nghĩa giữa hai thành phố.

Các cuộc khảo sát gần đây cho thấy quan điểm của người dân Việt Nam đang thay đổi rõ rệt. Một khảo sát do Nielsen thực hiện năm 2023 cho thấy 68% người Việt được hỏi ủng hộ việc cấm buôn bán thịt chó, và 71% ủng hộ lệnh cấm thịt mèo. Khảo sát của tổ chức FOUR PAWS cũng ghi nhận 95% người tham gia không coi việc ăn thịt chó, mèo là một phần của văn hóa Việt Nam.
Giới chuyên gia cảnh báo ngành buôn bán thịt chó và mèo không chỉ gây tranh cãi về mặt đạo đức mà còn đặt ra rủi ro lớn về sức khỏe cộng đồng, đặc biệt trong việc lây truyền bệnh dại.
Nếu được thông qua, đề nghị kết nghĩa giữa Los Angeles và Hà Nội có thể trở thành một bước tiến quan trọng trong việc thúc đẩy các chuẩn mực nhân đạo toàn cầu về phúc lợi động vật, đồng thời mở rộng hợp tác văn hóa, giáo dục và kinh tế giữa hai thành phố.


Mỹ điều thêm hàng không mẫu hạm đến Trung Đông giữa căng thẳng leo thang với Houthi và Iran

-Tình hình tại Trung Đông tiếp tục nóng lên khi Mỹ quyết định điều thêm tàu sân bay thứ hai tới khu vực, giữa lúc chiến dịch không kích nhằm vào lực lượng Houthi ở Yemen vẫn đang diễn ra gần như hằng ngày.
Ngày 11.4, Bộ Tư lệnh Trung tâm Mỹ (CENTCOM) thông báo tàu sân bay USS Carl Vinson đã có mặt tại Trung Đông, gia nhập đội hình cùng với tàu USS Harry S. Truman đang hoạt động ở đây từ trước. Đây là bước đi cho thấy sự tăng cường hiện diện quân sự rõ rệt của Mỹ trong khu vực, đồng thời phát đi tín hiệu mạnh mẽ về mức độ nghiêm trọng của những gì đang diễn ra trên vùng biển chiến lược này.
USS Carl Vinson không phải là một tàu sân bay thông thường. Đây là một trong những tàu hiện đại nhất của Hải quân Mỹ, được trang bị các tiêm kích tàng hình F-35C Lightning II – loại máy bay chiến đấu được đánh giá là vượt trội về khả năng tấn công và tàng hình. Việc cặp đôi Vinson – Truman cùng xuất hiện ở Trung Đông báo hiệu khả năng Mỹ sẵn sàng thực hiện các chiến dịch quân sự quy mô lớn nếu tình hình tiếp tục leo thang.

Trước đó, Lầu Năm Góc đã thông báo kế hoạch tăng cường hiện diện hải quân trong khu vực, sau khi Houthi đẩy mạnh các đợt tấn công vào tàu thuyền thương mại và quân sự ở biển Đỏ, làm gián đoạn tuyến giao thương hàng hải huyết mạch toàn cầu. Từ ngày 15.3, Mỹ đã tiến hành hơn 100 đợt không kích, nhắm vào các cơ sở chỉ huy, sản xuất vũ khí và kho chứa đạn dược của Houthi tại những khu vực họ kiểm soát ở Yemen.
Tuy nhiên, lực lượng Houthi vẫn tiếp tục khẳng định họ đã và sẽ tiếp tục bắn phá các tàu Mỹ và tàu Israel đi qua biển Đỏ, bất chấp sức ép từ trên không của Washington.
Cùng lúc với sự hiện diện quân sự dày đặc hơn của Mỹ ở Trung Đông, một diễn biến ngoại giao đáng chú ý khác đang diễn ra: Mỹ và Iran chuẩn bị tiến hành đàm phán trực tiếp vào cuối tuần này tại Oman, nhằm tìm kiếm lối ra cho bế tắc liên quan đến chương trình hạt nhân của Tehran.

Ngoại trưởng Mỹ Marco Rubio xác nhận thông tin này vào ngày 10.4, đồng thời cho biết đặc phái viên Mỹ Steve Witkoff sẽ là người đại diện trong cuộc gặp với một quan chức cấp cao Iran. Đây là lần hiếm hoi hai bên ngồi lại với nhau kể từ khi quan hệ song phương căng thẳng trở lại.
Tuy nhiên, bầu không khí của cuộc đàm phán sắp tới lại không mấy lạc quan. Tổng thống Mỹ Donald Trump đã đưa ra lời cảnh báo cứng rắn rằng Iran sẽ “gặp nguy hiểm” nếu cuộc thương lượng thất bại, và yêu cầu quân đội sẵn sàng cho mọi kịch bản có thể xảy ra – bao gồm cả một chiến dịch quân sự quy mô lớn.
Việc Mỹ tăng cường hiện diện quân sự tại Trung Đông, trong khi vẫn giữ ngỏ kênh đối thoại với Iran, phản ánh chiến lược “vừa đánh vừa đàm” đặc trưng của Washington. Tuy nhiên, với các đợt tấn công không ngừng giữa Mỹ và Houthi, cùng những bất ổn trong mối quan hệ với Iran, khu vực Trung Đông đang ở trong thế “căng như dây đàn”.
Trong bối cảnh đó, cộng đồng quốc tế đang theo dõi sát từng bước đi của các bên, vì bất kỳ sai lầm chiến lược nào cũng có thể kéo theo hậu quả khó lường, ảnh hưởng không chỉ đến an ninh khu vực mà còn cả dòng chảy thương mại toàn cầu.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét