Nhớ lại những ngày cuối tháng tư năm 1975 báo chí ở Sài Gòn và radio hay nói về tình hình chiến sự mỗi ngày mỗi bi thảm hơn, người Mỹ đã có kế hoạch cho kiều dân và nhân viên của họ rời Việt Nam.Vì nhà gần Phi trường Tân Sơn Nhất nên đêm nào chúng tôi cũng nghe tiếng máy bay ù ù bay qua và cũng đoán được đó là những máy bay di tản các nhân viên của Mỹ trở về Mỹ, nghe tiếng máy bay hàng đêm mà long vô cùng lo lắng. Như thường lệ, mỗi thứ ba là ngày tôi đi dậy ở Tân Uyên nên ông xã đưa ra bến xe lửa tại ga Phú Nhuận.
Lúc này tình hình bắt đầu nghiêm trọng nên các lớp nhỏ đã được cho nghỉ, riêng vì phụ trách các lơp 12 là lớp đi thi nên tôi vẫn phải đến trường. Trường Tân Uyên nơi tôi dạy là một trường trung học công lập tại thị xã Tân Uyên thuộc Nha Học Chánh Biên Hòa.
Sáng hôm ấy, thứ ba ngày 22 tháng Tư 1975, nhà tôi đã sẵn sàng để đưa tôi ra bến xe lửa thì hai cô em đi chiếc Suzuki đến bảo” Ba nói Chị Hà ở nhà sửa soạn đi Mỹ”.
Nghe vậy tôi vội nói :”Đi Mỹ Tho hả?”, Quỳnh bảo: “Em nói thật đó, chị không tin thì về hỏi Ba”.
Nhà tôi nói thôi để anh đưa em ra ga xe lửa không trễ rồi, sau đó anh ghé về hỏi lại Ba.
Ra nhà ga, sau ít phút chờ đợi, xe lửa xình xịch tiến tới, tôi lên toa hành khách và đã thấy mấy cô bạn cùng đi xe lửa giữ chỗ sẵn sàng cho tôi.
Hoàng Điệp sẽ xuống ga Dĩ An trước, bạn Như thì đi tiếp sau khi tôi xuống.
Tôi xuống ga Chợ Đồn và đón một chiếc xe lam đi Tân Uyên. Qua những câu chuyện của các hành khách cùng xe, tôi được biết hôm thứ năm tuần trước Việt Cộng đã cho phá sập cây cầu bắc qua con sông nhỏ khiến cho các cô giáo thầy giáo phải xuống đò nhỏ để qua sông.
Tôi may mắn về trước một ngày và hôm nay họ đã sửa cầu nên xe vẫn qua lại bình thường.
Buổi học hôm nay anh hiệu trưởng và giám học cho gom 3 lớp 12 (gồm 12A, 12B và 12C) vào làm một, vì thế đáng lẽ phải dạy 6 tiếng, tôi chỉ dậy có 2 tiếng,
Sau khi giảng bài, như thường lệ tôi phát cho các em bài học tóm tắt mà tôi đã soạn và in Ronéo để các em về học.
Sau buổi học, tôi lại lên xe lam về Chợ Đồn, trên tuyến đường này lính địa phương quân dắp mô để ngăn xe tăng Việt Cộng, xe phải chạy uốn éo theo đường dích dắc nên đi rất chậm.
Đến ga Chợ Đồn, nghe nói không có xe lửa về lại Sài Gòn nên tôi phải đón xe lam ra xa lộ Biên Hòa và đứng đón ở ven đường, rất nhiều xe đò chạy qua nhưng xe nào cũng đầy ắp người, trên đó rất đông các sinh viên sĩ quan Thủ Đức, Võ Bị Đà Lạt.
Đứng đợi một hồi, may mắn có một xe đò đi đến, chú lơ xe giơ tay vẫy và nói tài xế ngừng cho cô giáo lên (vì tôi xách cặp có mấy quyển sách trong đó, chú lơ xe nhìn quen rồi nên biết là cô giáo).
Xe đò chạy về hướng Sài Gòn, khi đến góc ngã tư Phan Thanh Giản và Trương Minh Giảng, xe ngừng cho tôi xuống, sau đó tôi lên xe bus về nhà Ba Mẹ tại góc Trương Minh Ký và Huỳnh Quang Tiên.
Về đến nhà, Ba tôi bảo ngày mai đem giấy tờ và mấy tấm hình đến để Ba nộp cho ông boss làm giấy đi Mỹ, cũng nói thêm là thời gian đó Ba tôi làm cho DAO (Defense Attache Office) tức là Văn Phòng Tùy Viên Quốc Phòng tại Sài Gòn, là nột nhánh chỉ huy liên hợp và tùy viên quân sự của Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ (DOD The United States Department Of Defense) dưới sự kiểm soát của United States Support Activities Group (USSAG).
Sáng hôm sau hai vợ chồng tôi đem hình ảnh và giấy tờ đưa Ba, sau đó đến nhà ông bác trên đường Hòa Hưng chào Bà Ngoại và hai bác, Ngoại tôi ngậm ngùi:”Thế là các con bỏ Bà đi hả?” nghe Ngoại nói mà tôi muốn khóc.
Ba Mẹ tôi muốn đưa Ngoại đi cùng nhưng vì có một bác trai con cả của Ngoại còn kẹt ngoài Bắc có thể sẽ vào Nam để gặp Bà nên không dám đưa Bà đi.
Sau đó vợ chồng tôi lên Lăng Ông nhờ thầy đồ viết sớ cúng xin Đức Ông phù hộ cho chuyến đi được suông sẻ.
Ngày thứ năm, ông xã chở tôi đến nhà ông thư ký của trường để lãnh lương, nhưng vợ ông bảo ông đi vắng, chiều mới vê, tôi bảo bà ta là tôi sẽ đợi, thấy tôi lỳ, chừng nửa tiếng sau bà vô nhà và đem ra mốt số tiền
kêu tôi cầm đỡ, mai trở lại ông sẽ đưa nốt.
Sáng thứ sáu tức là ngày 25 tháng Tư, gia đình chúng tôi gồm Ba Mẹ, hai vợ chồng người anh lớn, hai vơ chồng tôi cùng 6 người em trai gái tất cả 12 người lên xe đến một biệt thự trên đường Trần Quý Cáp, đây là tư gia của Thống Tướng Westmoreland nhưng khi đó ông đã về Mỹ.
Chúng tôi ở đó hai ngày, Mẹ tôi sang thăm và chào hai Bác Tuân, anh con bà cô của Mẹ, ở gần đó khoảng hai căn biệt thự. Buổi chiều Bác gái cho người đem sang một mâm thức ăn và một nồi cơm cho gia đình, đó là bữa cơm cuối cùng của chúng tôi tại quê nhà Việt Nam.
Sáng thứ bẩy ngày 27 tháng tư, gia đình chúng tôi lên xe bus của DAO để vào phi trường Tân Sơn Nhất. Xe bus đưa chúng tôi đến khu vực tập trụng trước khi lên máy bay, một sĩ quan Mỹ nhân viên của DAO dặn chúng tôi ở đây chờ khi họ mở cổng thì đi vào để lên máy bay, rồi ôngcó việc phải đi.
Trong thời gian này, lâu lâu lại có vài người cảnh sát phi trường ghé vào hỏi thăm giấy tờ, một lần họ hỏi và nói anh trai và ông xã phải ở lại để chống giặc vì trong tuổi lính cần ở lại đế chiến đấu rồi họ đưa hai người ra một xe díp để sẵn sàng đưa về bót.
Mấy bà đứng gần nói ra đưa tiền hối lộ để họ thả, Ba Mẹ tôi ra nói chuyện với ho, sau đó Mẹ đưa họ 2 lạng vàng thế là họ thả anh và ông xã tôi cho về với gia đình phía trong.
Cuối cùng cũng đến lúc cổng mở, chúng tôi đi men theo lối nhỏ để lên máy bay. Trên đường đi bên tay phải có hàng rào, tôi nhìn qua hàng rào thì thấy vất nhiều áo lính trên cầu vai vẫn còn lon của các cấp tá,úy VNCH.
Lên được máy bay, mọi người ngồi bệt trên sàn máy bay, vì đây là một máy bay cargo chuyên chở vật dụng và vũ khí nên không có ghế ngồi cho hành khách. Trên gương mặt mọi người đều lộ vẻ lo lắng vì khoảng đầu tháng Tư đã có một máy bay chở Cô Nhi trong chương trình”Babylift” bị rơi gần phi trường. Tôi chắp tay cầu nguyện Đức Quán Thế Âm Bồ Tát gia hộ cho chuyến bay được mọi sự an toàn.
Cuối cùng thì máy bay cũng đáp xuống Guam an toàn, chúng tôi nối đuôi nhau xuống. Ra khỏi máy bay đã thấy những người phụ nữ Mỹ trong chiếc áo choàng trắng đón tiếp chúng tôi rất nồng hậu, rồi bánh kẹo, nước ngọt đầy bàn.
Sau đó họ chuyển chúng tôi lên xe bus về trại với những túp lều đã dựng sẵn, trong lều có những ghế bố của quân đội và những đồ dùng cá nhân như thuốc và bàn chải đánh răng, khăn tắm….
Qua một ngày mệt mỏi vì lo lắng, tôi ngủ say không biết gì, đến khi thức dậy, trời đã sáng hẳn, Ba tôi mở radio nghe đài VOA thì được biết Việt cộng đã vào đến Sài gòn, ai nấy òa khóc, đó là sáng ngày 30 tháng Tư năm 1975.
Thôi hết rồi! Hết đường trở lại quê nhà! Ôi quê hương ơi, thế là nghìn trùng xa cách, hết nẻo quay về!!....
Ngọc Hà
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét