Nhìn Ra Bốn Phương

Thứ Năm, 2 tháng 5, 2024

NHẬN ĐỊNH VỀ BÀI VIẾT CỦA CÙ HUY HÀ VŨ: “NỘI CHIẾN VIỆT NAM: TỪ TRỊNH CÔNG SƠN & KHÁNH LY ĐẾN CÙ HUY HÀ VŨ VÀ ỨNG XỬ CỦA CHÍNH QUYỀN VIỆT NAM.” - Chu Tất Tiến

Ngày đầu tháng Năm, 2024, Cù Huy Hà Vũ đã gửi một bài viết khá quan trọng, khẳng định quan điểm của ông về cuộc chiến tranh Việt Nam mà ông cho là một cuộc Nội Chiến. Sau khi nhắc lại việc Khánh Ly bị nhà nước tẩy chay vì cô đã hát bài “Gia Tài Của Mẹ”, ông viết: “Như vậy, việc chính quyền cộng sản Việt Nam đình chỉ chuyến lưu diễn của Khánh Ly không gì khác hơn là một sự trừng phạt đối với người hát Trịnh Công Sơn lên án “nội chiến Việt Nam”, điều mà “bên thắng cuộc” luôn phủ nhận, cho dù Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Dương Văn Minh, người mà họ đã tuyên bố đầu hàng vô điều kiện vào ngày 30/4/1975, là một người Việt chính hiệu, không phải là người Mỹ hay người nước ngoài nào khác.” 

<!>

Ông cũng viết: “Gia tài của Mẹ” cho rằng cuộc chiến 20 năm ở Việt Nam kể từ 1945 là một cuộc “nội chiến” hay một cuộc chiến “huynh đệ tương tàn”, khiến Mẹ Việt Nam đau đáu “lũ con cùng cha quên hận thù”. Một nhãn quan mà Trịnh Công Sơn áp cho cả một thập niên sau đó, cho tới khi Chiến tranh Việt Nam kết thúc vào 30/4/1975.”

Khi nhận định về cuộc chiến tranh Việt Nam, ông viết như sau: “Theo tôi chiến tranh Việt Nam là cuộc chiến tranh của Hoa Kỳ được bắt đầu từ cuối cuộc chiến tranh của Pháp tại Đông Dương khi Hoa Kỳ quyết định tài trợ 80% chi phí cho cuộc chiến tranh này như đã đề cập. Tuy nhiên cuộc chiến tranh này của Hoa Kỳ lại dẫn đến cuộc chiến huynh đệ tương tàn giữa những người Việt. Vì vậy nói chiến tranh Việt Nam là một cuộc nội chiến là không sai nhưng đó chỉ là một cuộc chiến trong một cuộc chiến khác, cuộc chiến tranh do Hoa Kỳ tiến hành.”

Về hiệp định Paris 1973, ông cho rằng: “Trên thực tế, giai đoạn sau khi Hoa Kỳ rút quân khỏi Việt Nam vào năm 1973 theo Hiệp định Paris được các chuyên gia quốc tế gọi là giai đoạn “Việt nam hoá” chiến tranh của Hoa Kỳ. Chính vì vậy tôi cho rằng ngày 30/4/1975 là ngày kết thúc cuộc chiến tranh của Hoa Kỳ tại Việt Nam, đồng thời cũng là ngày kết thúc cuộc nội chiến giữa những người Việt.”

Đọc những dòng chữ trên của Cù Huy Hà Vũ, cá nhân tôi chủ quan nhận thấy rằng ông là một người yêu nước, một người luôn quan tâm đến vận mệnh đất nước, và cũng là một người can đảm khi dám nói ra nhận xét của mình, đi ngược lại toàn bộ những điều thất thiệt mà Đảng Cộng Sản Việt Nam vẫn thường rêu rao: “Chống Mỹ, cứu nước”. Điều quan trọng hơn nữa chứng tỏ ông là một người có khí phách khi viết: “Quan điểm “nội chiến” còn được được tôi khẳng định chính thức trong “Kiến nghị trả tự do cho tất cả cựu quân nhân và viên chức chính quyền Việt Nam Cộng hòa, lấy “Việt Nam” làm quốc hiệu để hòa giải dân tộc, gửi Quốc Hội Việt Nam ngày 30/8/2010.”

Theo những cuộc phỏng vấn qua điện thoại của cá nhân tôi với Cù Huy Hà Vũ năm 2009, cá nhân tôi rất đồng cảm với ông khi ông cho biết là ông cũng “yêu cầu Nhà Nước, Đảng Cộng Sản và Quốc Hội phải truy tặng danh hiệu Liệt Sĩ cho 58 Quân Nhân Việt Nam Cộng Hòa đã hy sinh trong trận chiến Hoàng Sa.” Theo lý luận của ông, thì việc phải hy sinh trong khi bảo vệ đất nước chống cuộc xâm lăng của nước ngoài, 58 chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa phải xứng đáng được Nhà Nước cho ghi khắc tên trên môt tượng đài tưởng niệm các anh hùng, liệt sĩ Việt Nam đã bỏ mình vì Tổ Quốc. Dĩ nhiên yêu cầu của ông bị bác cùng với đơn kiện Nhà Nước khi cho Trung Cộng chiếm Cao Nguyên Trung Phần làm “bâu xít”, thực tế là tạo chỗ đóng quân cho Trung Cộng.  Kết quả của đơn kiện cùng các yêu cầu của Cù Huy Hà Vũ là bản án tù 7 năm với tội danh “tuyên truyền chống Nhà Nước”. Sự việc ông bị bắt cũng rất đáng chú ý. Công An đã theo dõi ông và bắt ông tại một phòng khách sạn với một người phụ nữ khác, rồi cho đăng tin là Công An đã vớ được hai bao cao su đã qua sử dụng, chứng tỏ ông có quan hệ bất chính, nhưng sau vài ngày, khi cả nước cười rộ lên với bản tin trên, thì Công An lại sửa nội dung vụ bắt giữ, và xác nhận bắt ông vì tội chống chế độ.

Với bản tính khí khái, yêu nước như thế, Cù Huy Hà Vũ đã bị Công An gài bắt, nhưng với sự can thiệp mạnh của chính giới Hoa Kỳ, ông đã được trả tự do và ngay tức khắc, được thông hành qua Mỹ tị nạn chính trị. Từ khi ở xứ Tự Do này, Cù Huy Hà Vũ đã viết nhiều bài phổ biến trên mạng các quan điểm của ông về cuộc chiến, về sự điều hành đất nước một cách sai trái dưới sự chỉ đạo của Đảng Cộng Sản độc tài và ấu trĩ.

Tuy nhiên, trong bóng dáng của một người trung thực, một chữ “SAI LẦM” rất lớn trong toàn thể quan điểm của ông làm cho tư cách của ông bị xét lại:  Ông (và Dương Thu Hương) vẫn coi Hồ Chí Minh, kẻ tội đồ của dân tộc Viêt Nam như một “cha già dân tộc”, một người yêu nước thực sự. Quan điểm này là một suy nghĩ thiển cận, hẹp hòi, không mang tính khoa học, và trên hết là phản lịch sử. Cù Huy Hà Vũ vẫn coi trong Hồ Chí Minh, khi ông viết: “Thực vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Nuớc Việt Nam là Một, Dân tộc Việt Nam là Một – Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song Chân lý đó không bao giờ thay đổi”.

Câu nói này, nếu chỉ nghe mà không suy nghĩ, thì đích thật là Hồ Chí Minh yêu nước. Nhưng sự thực có đúng như vậy không? Thực tế, Hồ Chí Minh là MỘT ÁC QUỶ và MỘT KẺ BÁN NƯỚC đã dùng miệng lưỡi quỷ quái, lươn lẹo để lừa gạt đồng bào, che dấu hành vì Phản Quốc của họ Hồ.

1-HỒ CHÍ MINH, MỘT ÁC QUỶ. Theo lệnh của Mao Trạch Đông HỒ ĐÃ ĐÍCH THÂN RA LỆNH GIẾT CHẾT HÀNG TRĂM NGÀN NGƯỜI VIỆT, DƯỚI NHÃN HIỆU “CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT, TRIỆT HẠ ĐỊA CHỦ, PHÚ NÔNG, TRÍ THỨC”. Sau đó, khi thấy máu nhân dân tràn ngập ruộng đồng, Hồ lại giả bộ khóc lóc, ăn năn, rồi cho áp dụng việc SỬA SAI thực tế là GIẾT NGƯỜI, BỊT MIỆNG. Hồ đã cho nhốt hết tất cả các cán bộ Cải Cách Ruộng đất trong trại giam khủng khiếp như trại Lý Bá Sơ để họ chết dần tại các nơi này. Kết quả là gần 500,000 người Việt bị giết trong hai đợt “đấu tố” và “sửa sai”. Ngoài ra, Hồ Chí Minh cũng là kẻ vô cùng bạc ác, nhẫn tâm khi đem bắn người ÂN NHÂN của mình là bà Cát Hanh Long, người đã cung cấp tiền bạc, phương tiện cho họ Hồ sống sót những năm tháng đầu hoạt động. Theo nhiều tài liệu trên mạng, thì khi bắn bà Cát Hanh Long, Hồ chí Minh đã giả dạng một ông già đến dự, để xem người Ơn của mình bị du kích bắn nát thây rồi nhét xác vào trong cái hòm gỗ. Khi thấy hòm quá nhỏ, không để lọt xác, thì hai tên du kích đã nhẩy lên bụng người chết, vừa chửi vừa dẫm đạp mãi cho gẫy hết xương cốt, cho lọt vào hòm. Các hành vi bạo ngược này cho thấy Hồ Chí Minh có tâm địa ác độc ngang ngửa với Staline, và không kém gì Hitler, những ác quỷ của chiến tranh thế giới lần 2.

2-HỒ CHÍ MINH, KẺ BÁN NƯỚC.

A-Hồ Chí Minh ký 2 hiệp ước bán nước cho Thực Dân Pháp:

a)Hiệp Định Sơ Bộ Pháp Việt: (1)

Sáng ngày 6-3-1946, một cuộc họp đặc biệt của Hội đồng Chính phủ đã họp với sự có mặt của Hồ Chí Minh – Chủ tịch Chính phủ; các Bộ trưởng: Huỳnh Thúc KhángPhan AnhChu Bá PhượngĐặng Thai MaiTrương Đình TriVũ Đình HòeTrần Đăng Khoa; Cố vấn tối cao Vĩnh ThụyNguyễn Văn Tố – Trưởng ban Thường trực Quốc Hội; Võ Nguyên Giáp – Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến; Vũ Hồng Khanh – Phó Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến; Hoàng Minh Giám – Thư ký Hội đồng Chính phủ. Sau khi nghe Chủ tịch Hồ Chí Minh báo cáo, Hội đồng bàn bạc và nhất trí quyết định sẽ ký Hiệp định sơ bộ với Pháp theo các điều kiện đã được thỏa thuận. Vì Nguyễn Tường Tam vắng mặt nên Hội đồng Chính phủ cử Vũ Hồng Khanh thay mặt để cùng với Hồ Chí Minh ký bản Hiệp định sơ bộ với Pháp. Ngày 6 tháng 3 năm 1946, Hiệp định sơ bộ Pháp-Việt được ký kết giữa Jean Sainteny, đại diện chính phủ Cộng hòa Pháp, và Hồ Chí Minh cùng Vũ Hồng Khanh, đại diện chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Nội dung của Hiệp định bao gồm các điểm chính sau đây:[5]

-Chính phủ Pháp công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một quốc gia tự do trong Liên bang Đông Dương và trong khối Liên hiệp Pháp, có chính phủ, nghị viện, quân đội và tài chính riêng.

-Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đồng ý cho 15.000 quân Pháp vào miền Bắc thay thế cho 200.000 quân Trung Hoa Quốc dân đảng để làm nhiệm vụ giải giáp quân Nhật. Pháp hứa sẽ rút hết quân trong thời hạn 5 năm, mỗi năm rút 3.000 quân.

-Pháp đồng ý thực hiện trưng cầu dân ý tại Nam Kỳ về việc tái thống nhất với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

-Hai bên thực hiện ngừng bắn, giữ nguyên quân đội tại vị trí hiện thời để đàm phán về chế độ tương lai của Đông Dương, quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và nước ngoài và những quyền lợi kinh tế và văn hóa của Pháp ở Việt Nam.

-Quân đội Pháp có trách nhiệm hỗ trợ và huấn luyện cho Quân đội Nhân dân Việt Nam.[4] 

 

Ngày 16/4/1946, cùng lúc đoàn đại biểu Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đi Đà Lạt tham dự Hội nghị Đà Lạt 1946, một đoàn đại biểu Quốc hội khóa I Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Phạm Văn Đồng dẫn đầu đi Paris thăm hữu nghị Pháp theo lời mời của Quốc hội Lập hiến Quốc gia Pháp.[2] Đoàn gồm có 10 đại biểu: Phạm Văn Đồng là trưởng đoàn, Tôn Đức Thắng là phó đoàn, Trần Ngọc DanhĐỗ Đức DụcNguyễn Mạnh HàNguyễn Văn LuậnTrình Quốc QuangHuỳnh Văn TiểngHoàng Tích TríNguyễn Tấn Gi Trọng.[3] Các tùy viên bao gồm: Nguyễn Văn An, Nghiêm Tử TrìnhNgô Văn Mạnh.

Hội nghị chính diễn ra từ ngày 6-7 đến ngày 10-9 năm 1946 tại lâu đài Fontainebleau. Phái bộ Việt Minh đã ký kết hiệp ước này, và được gọi là Hiệp Ước Fontainebleau.  Từ Hiệp Ước này mà Pháp ráo riết thi hành chế độ Thực dân tại các vùng đã chiếm.

b)Tạm Ước 1946: (2)

Ngày 14/9/1946, Chủ tịch Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Hồ Chí Minh đến nhà riêng Bộ trưởng Bộ Hải ngoại Pháp là Marius Moutet ký kết với Ngoại trưởng Pháp bản Tạm ước Việt - Pháp 14 tháng 9 năm 1946 với những điểm chính sau đây:[15]

1.    Quyền bình đẳng cho Pháp kiều ở Việt Nam cũng như Việt kiều tại Pháp,

2.    Tài sản của người Pháp bị tịch thu sẽ được hoàn trả và quyền sở hữu tôn trọng,

3.    Đồng bạc Đông Dương lệ thuộc vào đồng franc Pháp,

4.    Thiết lập hệ thống thuế quan và tự do mậu dịch cho các xứ Đông Dương,

5.    Tái lập trật tự và ngưng bắn ở Nam Kỳ, trao đổi tù binh, và ngưng tuyên truyền kích động dân chúng.

 

B-Hồ Chí Minh, nô lệ Trung Cộng:

 

Việc này rõ như ban ngày. Với các khẩu hiệu như “16 chữ vàng” và “Bốn tốt”, đã thường xuyên được lặp đi lặp lại trong các cuộc hội nghị giữa CSVN và Trung cộng, đã chứng tỏ là Hồ Chí Minh là kẻ nô lệ của Trung Cộng. Một chứng cớ rõ ràng nữa là chính Hồ Chí Minh đã ra lệnh cho Phạm Văn Đồng ký Công Hàm Ngoại Giao xác nhận chủ quyền của Trung Cộng trên Trường Sa và Hoàng Sa. Cũng chính vì lệnh của Hồ, mà Hiệp Ước Thành Đô, dâng đất dâng biển cho Trung Cộng được ký kết. Trong cuộc chiến Việt Nam,  kể từ trận Điện Biên Phủ cho đến 1975, chính Trung Cộng là kẻ điều khiển, lèo lái chiến trận. Võ Nguyên Giáp chỉ là kẻ thừa hành. Đảng biết rõ như vậy, nên coi khinh Võ Nguyên Giáp cho đến khi kiếm được cớ để hủy bỏ Võ Nguyên Giáp thì làm nhục Đại Tướng họ Võ này bằng cách giao trọng trách đặt vòng xoắn ngừa thai cho Võ Nguyên Giáp. Trong cuộc chiến 1954-1975, Trung Cộng là kẻ cung cấp Cố Vấn Vĩ đại, thực phẩm, vũ khí cho Việt Cộng, với điều kiện sau này phải lệ thuộc Trung Cộng về chính trị và kinh tế. Vì thế mà sau này, khi Trung Cộng đàn áp ngư phủ Việt, Nhà Nước chỉ biết dùng hai chữ “Kẻ lạ, Tầu Lạ” để tránh trách nhiệm với nhân dân.

 

Trên đây, mới chỉ là sơ lược quan điểm và hành vi của Hồ Chí Minh, kẻ tội đồ của Dân Tộc, mà Cù Huy Hà Vũ vẫn kính ngưỡng.

 

Trở lại vấn đế Chiến Tranh Việt Nam, xin nhắc Cù Huy Hà Vũ một điểm quan trọng: Miền Nam thua trận và Miền Bắc thắng trận, không phải vì quân đội miền Nam yếu kém hơn miền Bắc, mà là do sự sắp xếp của các siêu cường, đặc biệt là Mỹ và Trung Cộng, xếp lớn của Việt Cộng.

 

Chính Trung Cộng là kẻ chủ động bắt tay với Mỹ qua việc “Ngoại Giao Bóng Bàn”. Ngày 7 tháng 4 năm 1971, Mao đã chỉ thị cho Triệu Chính Hồng nhân danh đội tuyển Trung Quốc chính thức phát đi lời mời Đội tuyển Bóng bàn Mỹ sang thăm Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa với toàn bộ chi phí được đài thọ. Sau đó, vài cuộc thi đấu bóng bàn đã được thực hiện. Thông qua cuộc “Ngoại Giao Bóng Bàn” mà Mỹ và Trung Cộng đã gặp nhau, bắt tay hợp tác.

 

Ngày 17/2/1972, Nixon qua Bắc Kinh, ký kết văn kiện, nhường toàn bộ Miền Nam cho Trung Cộng. Hãy đọc một bài báo tả lại cuộc tiếp đón Nixon tại Bắc Kinh (3):

Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai mặc áo khoác màu xanh đen và bộ đồ đại cán kiểu Mao màu xám,cùng với quyền chủ tịch chính phủ là Đổng Tất Vũ và Tống Khánh Linh, xuất hiện với gần 20 quan chức trong một buổi sáng lạnh lẽo và xám xịt. Họ đứng giữa một đoàn quân danh dự lẫn lộn màu áo xanh lá của quân giải phóng và màu xanh dương của hải quân. Ngôi sao đỏ rực sáng trên mọi chiếc mũ. Tại phi trường vắng tanh, nhân chứng duy nhất là những nhà báo Mỹ, họ đã có mặt tại chỗ từ trước đó mấy hôm để ghi lại sự kiện này. Còn đối với một số nhà ngoại giao phương Tây tỏ ý muốn tham dự lễ đón tiếp này, Chính phủ Trung Quốc không cấp giấy phép cho ai cả.

Sau buổi lễ chỉ kéo dài chừng 15 phút, các nhà báo quay trở lại xe buýt và các quan chức chui vào những chiếc Limousine màu đen. Trong xe, Chu Ân Lai quay qua nói với NixonBàn tay của ngài đã vượt qua đại dương lớn nhất thế giới: 25 năm vắng bóng đối thoại.

 Từ đó, mà Mỹ xoay chiều, bỏ rơi Việt Nam, nhường cho Trung Cộng thống lĩnh.

 Như vậy, Hồ Chí Minh có phải là người yêu nước không?

 Mong Cù Huy Hà Vũ tự mình nghiên cứu và xem xét vấn đề, để nhổ đi môt cái xà trong mắt mình là hình ảnh Cha Già dâm loạn Hồ Chí Minh. Từ đó sẽ thật sự trở về với cội nguồn dân tộc.

 

Chúc sức khỏe.

Lính già Chu Tất Tiến.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét