The Fastest Gun Alive, movie poster
Bắn Chậm Thì Chết là tên một cuốn phim cao bồi Mỹ (The Fastest Gun Alive) trình chiếu tại các rạp chiếu bóng ở miền Nam trước năm 1975. Vai chính trong phim là Glenn Ford, diễn viên điện ảnh quen thuộc với khán giả yêu thích phim cao bồi miền Viễn Tây. Chuyện phim kể về một tay súng cừ khôi đã quyết định giải nghệ để sống cuộc đời bình dị bên vợ hiền con thơ trong ngôi làng nhỏ. Thế nhưng, cuộc đời không bình lặng như anh mong muốn. Một ngày kia, tên đầu sỏ khét tiếng của băng cướp dữ dằn quyết tìm đến anh để thách đấu tay đôi, một mất một còn. Kẻ sống sót là kẻ rút súng nhanh hơn đối thủ. Nếu anh không nhận lời thách đấu, hắn sẽ cho đốt phá, thiêu hủy cả ngôi làng. Câu chuyện gay cấn, ly kỳ đến phút chót.
Tấm ảnh hai bố con người lính
Đấy là chuyện phim, còn câu chuyện Bắn Chậm Thì Chết bên dưới là chuyện “người thật, việc thật” thời chiến tranh Việt Nam. Điểm hơi khác, hai đấu thủ đều không giỏi nghề bắn súng, không rút súng nhanh như chớp như câu chuyện trong phim. Ngược lại, trong giây phút căng thẳng đến nghẹt thở ấy cả hai đều… lọng cà lọng cọng, rút súng chậm rì.
Nhân vật chính trong câu chuyện là chàng lính Mỹ trẻ tuổi tham chiến ở Việt Nam, tên Rick. Đối thủ của anh là một người lính Bắc Việt, tên Ngọc. Rick không phải là tay súng lành nghề, anh chỉ mới 18 tuổi khi sang chiến đấu ở Việt Nam. Anh sống sót chỉ nhờ vận may, hay không bằng hên. Anh đã chậm mà ngón tay bấm cò súng của đối thủ lại còn chậm hơn anh.
Chuyện xảy ra giữa năm 1967, vào một ngày hè thật nóng bức trong một cánh rừng ở Chu Lai, tỉnh Quảng Nam. Chàng lính trẻ Rick thuộc Đại đội A, Tiểu đoàn 2, Sư đoàn Kỵ Binh Bay 101, vừa mới ra trường đã được thả vào thử sức tại chiến trường Việt Nam.
Sau một trận đụng độ nhỏ, Rick và các bạn chạy tản ra. Anh vừa chạy vừa lăm lăm khẩu M16 trên tay. Một lát, Rick ngồi thụp xuống dưới một gốc cây lớn, đảo mắt nhìn quanh, nghe ngóng. Anh không nghe động tĩnh gì, cũng không thấy bóng đồng đội nào, chỉ thấy quanh mình rừng cây rậm rạp. “Không khéo mình bị lạc mất,” Rick nghĩ. Anh ghìm chặt tay súng, thận trọng dò dẫm từng bước qua những bụi cây cao quá đầu người. Bỗng, trong cái im ắng rờn rợn ấy anh nghe những tiếng động khe khẽ, xào xạc. Rick giật mình, hướng mũi súng về phía phát ra tiếng động. Anh trông thấy những cành lá lay động, một cái gì đó động đậy.
Khom người xuống nhìn cho rõ hơn, Rick bỗng lạnh toát cả người. Chỉ cách anh vài mét, xuyên qua những cành lá, hai con mắt mở lớn đang nhìn xoáy vào anh, trừng trừng. Căng mắt ra nhìn kỹ, anh thấy thấp thoáng một khuôn mặt, một chiếc nón cối, một mầu áo cỏ úa, một thân người ngồi tựa gốc cây, khẩu AK trên tay. Trong khoảnh khắc, toàn thân Rick như bị tê cứng. Khẩu súng vẫn nắm chặt trong tay nhưng anh không biết phải làm gì. Mặt đối mặt, bốn mắt nhìn nhau chằm chằm. Nhác thấy tay cầm súng của người lính cử động, Rick như bừng tỉnh, anh siết mạnh cò súng. Loạt đạn nổ giòn. Rick nhìn thấy một thân người bật ngửa ra sau. Rồi anh nghe những loạt đạn nổ tiếp theo, tiếng chân người chạy rầm rập về phía mình lẫn tiếng la hét của đồng đội.
“Rick, Rick, cậu ở đâu?”
“Tôi đây, tôi ở đây.” Rick kêu lớn.
Rất nhanh, đồng đội chạy xộc đến chỗ anh. Tiếng súng nổ chát chúa, tiếng cành lá rớt rụng. Tất cả nhoài người xuống.
“Nằm xuống! Đồ ngốc.” Người nào đó xô Rick ngã sấp.
Lính Mỹ đâu lưng vào nhau, chĩa súng bắn vãi đạn ra chung quanh. Tiếng súng đối phương thưa dần, rồi im bặt.
Cả bọn cúi nhìn xác người lính Bắc Việt nằm ngửa, mắt trợn trừng. Jack, anh chàng vui tính, giơ ngón tay cái lên, dứ dứ về phía Rick.
“Tuyệt lắm!”
Ai đó cúi nhặt khẩu AK-47, lật nghiêng cái xác, lục lọi các túi quần áo. Một chiếc ví sờn cũ, ít giấy tờ nhàu nát bên trong, không có gì đáng giá. Một mẩu giấy nhỏ rơi xuống, Jack nhặt lên. Một tấm ảnh. Anh chàng liếc sơ qua, đưa cho Rick.
“Cậu quen người này chứ? Giữ làm kỷ niệm đi.”
Rick vẫn như kẻ mất hồn, anh nhìn kỹ tấm ảnh nhỏ, chỉ cỡ 1.5” x 2”. Ảnh chụp người lính bộ đội mặc quân phục và một đứa bé gái. Anh nhìn khuôn mặt người lính trong ảnh, nhìn khuôn mặt xác chết, rồi lại nhìn tấm ảnh. Đúng là người nằm chết dưới chân anh, dưới họng súng của anh. Đứa bé ấy là con anh ta? Không có thì giờ nghĩ ngợi nhiều, Rick nhét vội tấm ảnh vào túi áo, vội vã theo chân đồng đội thoát ra khỏi nơi ấy.
Dần dà Rick học cách làm quen với chiến trận sau ít lần đụng trận. Anh bị thương vài lần nhưng không nguy hiểm đến tánh mạng. Cho đến một hôm đơn vị của Rick bị phục kích, anh xông ra cứu một đồng đội ngã gục thì bị trúng đạn vào lưng, suýt chết. Vết thương mang anh về lại quê nhà.
Tấm ảnh, Rick vẫn cất giữ trong ví, cũng theo anh về Mỹ. Rick cắp sách đi học lại. Việc tình nguyện nhập ngũ giúp anh được hưởng những đặc quyền để theo đuổi việc học hành đến nơi đến chốn. Ít năm sau khi hoàn tất chương trình đại học, anh lập gia đình với Carol, cô bạn học xinh đẹp quen biết nhau từ thời trung học.
Rick có một việc làm ổn định ở Sở Cựu chiến binh Rochester, Illinois. Hai vợ chồng đã có những năm hạnh phúc bên hai đứa con gái xinh xắn. Cuộc sống bình lặng, êm đềm. Có lúc Rick tưởng đã quên đi tấm ảnh anh mang về từ Việt Nam, nhưng không hẳn. Đến lúc Amy, con gái đầu lòng của anh lên 5 tuổi, cứ mỗi lần nhìn ngắm đứa con trong vòng tay yêu thương của hai vợ chồng, anh lại nhớ tới đứa bé trạc tuổi con mình trong tấm ảnh ấy. Tim anh thắt lại.
Thỉnh thoảng Rick lấy tấm ảnh ra xem. Anh ngồi thừ người một lúc lâu, nghĩ ngợi lan man. Tấm ảnh toát lên một vẻ lành lạnh, buồn buồn. Rick không đoán được tuổi người lính, nhưng nếu đứa bé là con anh ta thì Rick hẳn kém anh vài tuổi. Người lính tóc hớt cao, khuôn mặt xương xương, trông hơi gầy ốm. Rick không đọc được cấp bậc trên cổ áo anh ta. Đứa bé trắng trẻo, mặc áo trắng, hai đuôi tóc thắt bím thả trước ngực, tựa vào một bên vai ông bố. Hai bố con đều nhìn thẳng vào máy ảnh, đều không có nụ cười nào trên môi. Tấm ảnh có lẽ được chụp trước khi người bố từ biệt gia đình, lên đường vào Nam chiến đấu, rồi không bao giờ về lại nữa.
Rick nhìn vào đôi mắt người lính Bắc Việt. Anh không sao quên được, đôi mắt ấy, từ khoảng cách có mấy thước, nhìn xoáy vào anh như thôi miên, khiến cả người anh như bị đóng băng. Rick tự hỏi người lính ấy trông thấy anh từ lúc nào. Anh ta nghĩ gì trong đầu vào khoảnh khắc ấy? Vì sao chỉ có một mình anh ta ở đấy? Vì sao anh ta không nổ súng khi vừa phát hiện ra Rick? Những câu hỏi và câu hỏi.
Rồi Rick chuyển cái nhìn sang đôi mắt đứa bé, anh ngỡ như mình bị hút vào đôi mắt ấy. Đôi mắt buồn buồn nhìn anh như oán trách, như gặng hỏi, “Vì sao? Vì sao chú lại làm thế? Bố cháu có làm gì chú đâu.” Anh không thể trả lời. Rick nghĩ anh có giải thích cách nào thì cô bé cũng không hiểu được và cũng không tha thứ cho anh. Cô chỉ biết anh là kẻ độc ác, kẻ đã giết bố cô, một người không quen biết, không thù oán. Giết người lính, anh đã biến cô bé thành đứa trẻ mồ côi bố, anh đã giằng tay cô ra khỏi người bố, chỗ dựa ấm áp của cô trong ảnh. Giết người lính, anh cũng giết chết niềm hy vọng của cô bé, của anh em cô, của bà mẹ cô ngày đêm mỏi mòn trông ngóng một ngày nào người chồng, người cha sống sót trở về.
Tấm ảnh ấy, đôi mắt ấy theo Rick vào trong giấc ngủ. Có đêm anh ú ớ, nói năng lảm nhảm. Có đêm anh la hét, giãy giụa, “Không không, đừng đừng!… Đừng nhìn tôi như thế.” Carol phải đập đập vai anh, lay dậy. Mồ hôi Rick toát ra như tắm. Cứ thế, ít có đêm nào anh được yên giấc. Carol nhận ra những biểu hiện bất thường nơi ông chồng mình. Nhiều lần cô tỏ ra lo lắng và gặng hỏi, Rick chỉ nói anh nằm mơ, giấc mơ kinh dị.
Từ lâu, Rick giữ kín câu chuyện tấm ảnh, anh chỉ kể cho vài người bạn thân và nhận được ở bạn mình những lời khuyên giống nhau, “Cậu đã làm đúng, quên chuyện ấy đi. Đấy là chiến tranh.” Anh không kể cho Carol vì không muốn một phụ nữ tính cách dịu dàng như cô phải khiếp hãi nghe chuyện bắn giết trong chiến tranh. Cho đến một hôm, anh nhờ Carol lấy giúp tấm thẻ tín dụng trong ví của anh. Khi cô rút tấm thẻ, tấm ảnh nhỏ rơi ra. Rick giật mình, hoa mắt. Trong một thoáng, anh tưởng như trông thấy tấm ảnh từ trong ví của người lính Bắc Việt rơi xuống dưới chân mình trong cánh rừng già ấy. Carol cúi xuống nhặt lên. Cô nhìn chăm chú tấm ảnh.
“Ai vậy?” Carol ngước lên nhìn Rick. “Em chưa thấy ảnh này bao giờ.” Cô hỏi và nhận thấy vẻ khác thường trên khuôn mặt chồng mình.
Rick biết là anh không thể giấu cô được nữa.
“Đấy là một người lính Bắc Việt,” Rick nói. “Em thấy người này như thế nào?”
“Làm sao em biết được,” Carol trả lời, “chỉ là tấm ảnh. Trông có vẻ hiền lành. Anh quen biết người này sao?”
Rick lại giật mình. Carol lặp lại đúng câu hỏi mà Jack, anh chàng đồng đội vui tính, hỏi anh khi cúi nhặt tấm ảnh bên cạnh xác người lính và đưa cho anh.
“Anh không quen,” Rick lắc đầu. “Anh chỉ gặp có một lần, thật ngắn ngủi.”
“Vậy sao anh lại hỏi em?”
“Anh đã giết người này.” Rick nói sau ít giây im lặng, và anh kể vắn tắt về cuộc chạm trán bất ngờ giữa hai người.
Carol sững sờ, chặn bàn tay lên ngực mình, kịp ngăn một tiếng kêu. Cô trố mắt chăm chăm nhìn chồng mình như nhìn người nào xa lạ, nhưng rồi cô kịp trấn tĩnh lại.
“Chỉ là tự vệ,” Carol thấp giọng, “anh đâu có chọn lựa nào khác. Nếu anh không nhanh tay hơn người lính ấy thì anh đâu còn ngồi đây được để kể em nghe chuyện này.”
“Nhanh tay hơn?” Rick cười, miệng méo xệch. “Em tưởng như vậy sao? Anh lính quýnh đến độ không biết phản ứng như thế nào. Người nổ súng trước lẽ ra phải là anh ta chứ không phải anh, vì anh ta trông thấy anh trước.”
“Vậy thì… vì sao anh ta không bắn anh?”
“Anh ước gì biết được câu trả lời,” Rick gục đầu. “Câu hỏi đó theo anh suốt từ ngày ấy đến nay.”
“Rick, nghe em nói này.” Carol nói, sau một lúc im lặng. “Anh không có lỗi gì cả. Đấy là chiến tranh. Hoặc anh, hoặc người lính Bắc Việt ấy, chỉ một người được sống. Em tin chắc người lính chiến nào cũng làm giống như anh. Anh phải quên tấm ảnh ấy đi. Đừng có tự dằn vặt mình như thế nữa.”
“Đấy là chiến tranh”, Rick từng nghe những bạn mình nói thế, có nghĩa là trong chiến tranh người ta được cấp giấy phép để có thể bắn giết kẻ đối đầu vô tội vạ. Đổ lỗi cho chiến tranh là cách tốt nhất để không phải bận tâm về những việc mình làm.
“Quên tấm ảnh ấy đi”, đã có đôi lúc Rick toan xé, đốt tấm ảnh ấy, nhưng rồi anh không thể. Cứ mỗi lần vừa lóe lên ý định ấy là anh lại bắt gặp ánh mắt nhìn của đứa bé, nửa buồn bã nửa trách móc, “Chú định làm gì vậy? Chú không làm vậy được đâu.” Rick tưởng nghe được giọng nói thì thầm, tưởng thấy được cái lắc đầu nhè nhẹ của đứa bé.
Rick chưa bao giờ gặp lại người lính trong giấc mơ anh, anh chỉ gặp có mỗi cô bé. Đứa bé trong ảnh bây giờ đã là cô gái xinh đẹp, chỉ có đôi mắt buồn buồn. Cô gái đứng xa xa, mỗi lần anh tiến lại gần định nói gì với cô thì cô từ từ biến mất. Cứ thế, những đêm trằn trọc, những tiếng kêu trong cổ họng, những lần choàng dậy trong cơn mơ. Carol cũng phờ phạc, mất ngủ theo anh. Rick trở nên ít nói hơn, nhiều lúc cô bắt gặp anh ngồi thẫn thờ nhìn thật lâu vào khoảng không.
“Hãy nghĩ lại đi, Rick.” Carol tìm mọi cách thuyết phục chồng. “Anh đã sống sót trở về, trong lúc bao nhiêu đồng đội khác lại không được may mắn như anh. Nếu anh không làm vậy thì anh đã mất mạng rồi và tên anh được khắc trên bức tường tưởng niệm lính Mỹ hy sinh trong chiến tranh Việt Nam.”
Câu nói của Carol làm Rick bất chợt lóe lên ý tưởng. Phải rồi. Anh sẽ mang tấm ảnh tới đó. Anh sẽ đặt nó dưới chân bức tường ấy, là cách người ta vẫn làm như đặt ở đấy những bó hoa, những kỷ vật thời chiến. Đấy sẽ là nơi thích hợp nhất cho tấm ảnh. Anh bộc lộ ý định ấy với vợ mình.
“Tuyệt!” Carol gật gật đầu. “Ý kiến hay đấy.” Tất nhiên là Carol tán thành, cô thúc giục Rick xúc tiến ngay việc ấy và chỉ sợ anh đổi ý.
Sau khi hội ý với vợ mình, Rick ngồi viết lá thư ngắn gửi người lính trong ảnh.
Thưa anh bạn,
Xin tạ lỗi với anh về việc tôi đã làm. Tôi tin là anh hiểu, tôi không còn cách nào khác hơn. Nếu anh biết rằng tôi đã sống những chuỗi ngày thật nặng nề trong nỗi ray rứt, dằn vặt. Cuộc chiến mà chúng ta tham dự vào từ hai phía đối nghịch đã chấm dứt từ nhiều năm qua, tôi mong nhận được ở anh sự tha thứ giúp tôi tìm được sự bình an trong tâm hồn bên những người thân yêu trong những ngày còn lại ở thế gian này. Tôi tin là chúng ta sẽ gặp lại nhau vào lúc nào đó, sẽ không giống như cuộc gặp nghiệt ngã giữa hai kẻ đối đầu trong chiến tranh.
Hôm nay tôi gửi lại nơi đây tấm ảnh trong ví của anh mà tôi đã giữ trong suốt 22 năm. Tôi luôn cầu nguyện mỗi ngày cho linh hồn anh được thảnh thơi ở bên kia thế giới.
Rick Littrell (ký tên)
Xong, anh cho lá thư và tấm ảnh vào một phong bì, bọc trong một túi nhựa zipper.
Ít hôm sau hai vợ chồng đã có mặt nơi Bức tường Đá đen (Vietnam Veterans Memorial) ở Washington D.C. Rick nhẹ nhàng đặt bó hoa và phong thư dưới chân bức tường. Anh thắp ngọn nến nhỏ và lâm râm cầu nguyện. Xong, anh thổi tắt ngọn nến, đứng im một lúc rồi lặng lẽ đưa tay chào như cử chỉ từ biệt người bạn thân thiết, gần gũi trong bao nhiêu năm.
Xong, anh nắm tay Carol, vội vã rời khỏi nơi ấy. Rick quay nhìn lần cuối. Bức tường Đá đen vẫn im lìm, câm lặng.
Cuộc chiến bây giờ mới kết thúc
Câu chuyện tưởng chấm dứt, nhưng vẫn chưa ngừng ở đó. Ít năm sau, một người bạn thân của Rick, cũng là cựu chiến binh chiến tranh Việt Nam, làm việc ở thư viện thành phố, tìm đến anh.
“Tôi có cái này cho cậu,” Don nói và đặt lên bàn làm việc của Rick cuốn sách bìa cứng. Tựa sách là Offerings at the Wall. Bìa trước là ảnh chụp Bức tường Đá đen và những bó hoa, những lá cờ, những vật lưu niệm đặt dưới chân tường.
“Chuyện gì vậy?” Rick hỏi.
“Cậu mở trang số 52 đi.”
Rick làm theo. Trang sách mở ra. Hình ảnh đập vào mắt anh là tấm ảnh quen thuộc, tấm ảnh người lính Bắc Việt và đứa bé gái. Bên dưới là hình chụp những dòng chữ trong một lá thư. Rick nhận ra ngay nét chữ của mình.
“Sao lại có chuyện này?” Rick giật nẩy người. “Tôi không hiểu gì cả.”
“Duke là người quản lý Phòng sưu tập nơi Bức tường Đá đen ấy,” Don kể. “Anh ta có ý định xuất bản cuốn sách giới thiệu những món kỷ vật đặc biệt thu nhặt được dưới chân bức tường. Trông thấy chiếc phong bì cậu để lại nơi đó, anh ta mở ra xem và quyết định đưa ngay vào cuốn sách này. Tôi nghĩ cần cho cậu biết.”
Rick ngồi chết lặng. Anh tưởng đã quên tấm ảnh, nhưng cô bé lại quay về với anh. Cô không chịu rời xa anh. Ánh mắt buồn buồn của cô nhìn xoáy vào anh như trách móc, “Sao chú làm vậy? Chú không thể làm vậy.”
Hai tay bưng lấy mặt, nước mắt Rick ứa ra.
“Cám ơn cậu nhiều, Don.” Rick nói, sau ít phút im lặng. “Tôi biết mình phải làm gì.”
Rick vẫn ngồi một mình bên trang sách sau khi Don rời đi. Cuốn sách in đẹp, trang trọng. Anh nhìn thật lâu tấm ảnh hai bố con người lính, tấm ảnh như chưa bao giờ rời xa anh.
“Này cô bé,” Rick thì thầm, “cô muốn gì ở tôi? Cô muốn tôi phải làm gì bây giờ?”
“Chú biết phải làm gì mà.” Rick nghe tiếng nói trong đầu mình.
Carol bước lại gần anh, cúi xuống trang sách mở rộng trên mặt bàn. Cũng như Rick, cô sững người. Cô ngồi xuống bên Rick, không ai nói với ai một lời.
“Anh biết mình phải làm gì,” một lúc sau Rick nói nhỏ. “Anh phải trả tấm ảnh này về đúng chỗ của nó.”
“Em không rõ ý anh?” Carol hỏi.
“Anh phải đi tìm đứa bé ấy,” Rick nói. “Tấm ảnh phải được trả về tận tay cô bé, trả về cho gia đình người lính ấy. Chính anh, không phải ai khác, phải làm việc ấy.”
“Để làm gì chứ?” Carol ngần ngừ, hỏi. “Anh không thay đổi được gì cả.”
“Có chứ, Carol. Anh sẽ tìm được viên thuốc ngủ tốt nhất và sự an bình khi rời bỏ thế giới này.”
Carol biết không gì có thể ngăn cản được Rick, làm như có tiếng gọi nào thôi thúc anh vậy. Cô cũng muốn một lần này nữa cho xong.
“Chuyện này cũng khó như mò kim đáy biển. Nhưng, nếu anh muốn vậy, em sẽ đồng hành với anh.” Sau cùng, Carol nói.
“Tốt lắm,” Rick khẽ nắm bàn tay cô, “chỉ cần em gật đầu. Anh luôn cần có em.”
Rick xúc tiến ngay việc ấy. Anh liên lạc với Duke, người biên soạn cuốn sách Offerings at the Wall, xin lại tấm ảnh. Sau đó anh tìm đến một nhà báo quen biết ở East St. Louis, thuật lại câu chuyện xoay quanh tấm ảnh ấy. Câu chuyện sau đó được đưa lên trang đầu tờ Sunday Post-Dispatch, tờ báo có nhiều độc giả ở địa phương.
Rick cắt trang báo ấy cho vào một phong bì, cùng với lá thư viết gửi về Đại sứ quán Việt Nam nhờ giúp đỡ tìm kiếm tin tức về gia đình người lính trong ảnh. Công việc xem ra không dễ dàng chút nào và Rick chỉ biết cầu nguyện. Rick đợi, đợi mãi, cho đến lúc anh ngỡ việc mình làm quả là chuyện “mò kim đáy biển” như lời Carol nói thì anh nhận được thư hồi đáp từ Đại sứ quán.
Tin ông rõ, chúng tôi vừa nhận được thư của một người tên là Nguyễn Văn Huy. Anh ta cho biết người lính trong ảnh là bố anh, tên Nguyễn Trọng Ngọc, và bé gái trong ảnh là chị của anh, tên Nguyễn Thị Loan, lúc 6 tuổi. Hai chị em hiện đang sống ở xã Đức Thắng, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang. Ông có thể liên lạc với gia đình chị Loan theo địa chỉ bên dưới…
Qua lá thư, Rick biết được câu chuyện dẫn đến việc lần ra tung tích người trong ảnh: Một tờ nhật báo ở Hà Nội đưa tấm ảnh ấy lên trang báo với dòng ghi chú vắn tắt, “Độc giả nào có thông tin gì về người trong ảnh, xin liên lạc tòa soạn.” Đến gần một năm sau, một cậu sinh viên xa nhà ở Hà Nội dùng tờ báo cũ để gói quà, gửi về cho mẹ mình ở làng quê. Bà mẹ nhận được quà, mở trang báo ra đọc, nhìn thấy tấm ảnh cha con người bộ đội, nhận ra người lính. Bà vội mang tờ báo sang làng bên cạnh, gõ cửa một căn nhà. Một người phụ nữ ra mở cửa. Bà cụ chìa tờ báo, chỉ tay vào tấm ảnh nói, “Ông này là bố của cháu đây.”
“Tạ ơn Trời,” Carol vỗ mạnh vào vai Rick. “Anh sắp tìm ra được ‘chiếc kim’ ấy rồi.”
Cỗ xe bắt đầu khởi động. Rick vội viết lá thư cho Huy, kể rõ câu chuyện về tấm ảnh và ngỏ ý muốn được đến thăm gia đình để trao lại tấm ảnh ấy. “Thư đi” khá lâu, không có “tin lại”. Rick hoang mang, không rõ phản ứng của gia đình người lính như thế nào hoặc thư có đến tay người nhận. Cho đến một ngày, anh nhận được lá thư từ Việt Nam, tên người gửi là Nguyễn Văn Huy. Thư chỉ vắn tắt ít dòng, nói gia đình đã nhận được thư và sẵn sàng đón tiếp vợ chồng Rick khi có dịp nào đến Việt Nam.
Bàn tay đã chìa ra, Rick chỉ mong có vậy. Anh và Carol đã sắp xếp sẵn mọi việc, chỉ chờ ngày lên đường. Với Rick, đấy còn là chuyến đi thăm lại một đất nước từng là “mảnh đất chiến trường xưa” ba mươi năm về trước, khi anh còn là người lính trẻ của một bên tham chiến. Với Carol, đấy là chuyến đi đến một đất nước xa lạ, con người và ngôn ngữ cũng xa lạ và những rủi ro nào khó mà biết trước được.
Rick thuê khách sạn ở Hà Nội. Nhờ sự trợ giúp của Đại sứ quán Mỹ, anh thuê được một chiếc xe, một người thông dịch tiếng Anh và tin đến gia đình Huy ngày anh và Carol đến thăm gia đình.
Hôm ấy không phải là ngày đẹp trời, xe khởi hành vào một sáng trời mây âm u. Người tài xế cho biết mất khoảng hai tiếng rưỡi từ đây đến một thôn làng nhỏ xa Hà Nội.
Xe chạy vòng vèo qua những con đường làng nhỏ hẹp, có lúc tài xế phải xuống xe hỏi thăm đường xá. Đến một lúc, anh ta chạy chậm lại, ra dấu, chỉ tay vào dãy nhà lụp xụp trước mặt. Từ xa, Rick đã trông thấy nhóm người, khoảng hơn hai chục người, đứng lố nhố, đón đợi trước sân nhà. Rick cố trấn tĩnh, hít một hơi thở sâu vào lồng ngực rồi thở ra từ từ. Anh không sao biết được những gì chờ đợi mình ở phía trước.
Xe đậu ở ven đường, tài xế mở cửa cho Rick và Carol bước ra, người thông dịch theo sau. Tay ôm bó hoa cúc vàng, tay cầm túi xách nhỏ, Rick sánh đôi Carol rảo bước về phía cổng nhà. Mọi cái nhìn đều đổ dồn về phía anh. Người thông dịch tiến đến trao đổi ít câu với người đàn ông và một phụ nữ đứng ngoài cùng. Rick dừng lại, lưỡng lự. Người phụ nữ chầm chậm bước lên giữa khoảng sân, nhìn chăm chăm vào Rick.
Rick khẽ rùng mình, tim anh đập mạnh. Anh tin chắc người phụ nữ đứng trước mặt mình là cô bé trong tấm ảnh năm xưa, tuy không tìm thấy nét gì quen thuộc giữa người và ảnh. Điều gì khiến anh tin vậy? Rick hiểu ra, chính là ánh mắt nhìn anh. Đôi mắt trông quen lắm. Đôi mắt gợn buồn, nhiều đêm theo anh vào trong giấc ngủ.
“Đây là chị Loan và anh Huy,” người thông dịch chìa tay về người phụ nữ và người đàn ông đứng sau. “Còn đây là ông Rick.”
Người đàn ông Mỹ tóc bạc trắng và người phụ nữ đứng sững nhìn nhau, bối rối. Rick quên mất mình nói gì, làm gì. Ít giây sau, như tỉnh người, anh bước lại gần hơn.
“Chào chị Loan,” Rick nói, trao bó hoa cho cô.
Người phụ nữ nói cám ơn, đưa tay đón bó hoa. Rick rút trong túi áo mảnh giấy ghi câu tiếng Việt anh học được từ người thông dịch.
“Thưa chị,” Rick bập bẹ, vừa nói vừa nhìn vào mảnh giấy. “Hôm nay tôi đến đây để xin hoàn trả lại chị và gia đình tấm ảnh mà tôi đã giữ suốt ba mươi năm. Xin tha thứ cho tôi.”
Người phụ nữ cúi mặt, quay đi giấu những giọt nước mắt ứa ra. Rồi cô bỗng nấc lên, tiếng khóc bật ra. Rick lúng túng, anh vỗ nhè nhẹ bàn tay cô cầm bó hoa. Hai chân muốn khuỵu xuống, cô ngã chúi vào Rick, ôm chầm lấy vai người đàn ông Mỹ xa lạ. Cô úp mặt vào ngực Rick, khóc rưng rức. Bàn tay Rick xoa xoa, vỗ vỗ vào lưng cô.
Một lát, đợi cho Loan trấn tĩnh lại, Rick ra hiệu cho Carol đưa cho anh chiếc túi xách. Anh lấy ra chiếc khung hình lồng tấm ảnh nhỏ, đưa cho Loan. Cô cầm lấy, mắt nhòe đi. Cô úp mặt vào khung ảnh, khẽ nấc lên. Trao chiếc khung ảnh cho người em đứng bên, cô lại dúi đầu vào ngực Rick, tiếng khóc vỡ òa. Rick cảm thấy bờ vai cô rung rung theo tiếng nấc nghẹn. Nước mắt cô thấm ướt ngực áo anh. Rick cố nén xúc động, anh không biết phải làm sao. Anh lại vỗ vỗ, xoa xoa vào lưng cô như cố xoa dịu một vết thương.
Carol bước lại gần đưa khăn giấy cho Loan, rồi quay nhìn hướng khác. Cô nhìn dãy nhà lợp tôn, cũ kỹ, lụp xụp. Cô nhìn những đứa trẻ lem luốc, đen đủi, giương to mắt nhìn cô và Rick. Cô nhìn nhóm người già trẻ đứng vây quanh, hẳn là những thân nhân, những người quen biết với gia đình này. Cô nhìn thấy vẻ hiền hòa trên những khuôn mặt, vừa tò mò vừa lộ vẻ xúc động.
“Cháu có oán hận tôi không?” Rick khẽ hỏi, qua người thông dịch.
Loan vẫn gục đầu lên ngực anh, khóc nức lên, không trả lời. Anh hỏi lại lần nữa. Cô ngước lên, nhìn Rick, ít giây sau cô nhè nhẹ lắc lắc đầu. Huy, người em cô, đến bên Rick.
“Chị Loan rất ít nói,” Huy nói. “Chị ấy không oán ghét gì chú đâu. Ngày trước thì có, bây giờ thì không còn nữa. Chú không có lỗi, đấy là chiến tranh.”
Đấy là chiến tranh. Carol từng nói vậy, những bạn bè anh từng nói vậy, và bây giờ Huy cũng nói vậy. Vẫn là mấy chữ ấy. Chỉ đơn giản là vậy sao?
“Chúng cháu oán ghét chiến tranh chứ không oán ghét chú,” Loan bỗng ngước lên nhìn Rick, mắt đỏ hoe.
“Hai cháu không biết đâu,” Rick trầm ngâm, “lẽ ra người chết phải là chú chứ không phải bố của hai cháu. Ông ấy nhìn thấy chú trước khi chú kịp nhìn thấy ông, nhưng không hiểu vì sao ông đã không bắn chú. Câu hỏi ấy theo chú suốt bao nhiêu năm nay.”
“Đấy là phần số của bố cháu,” Huy nói, sau mấy phút im lặng. “Chú đừng tìm kiếm câu trả lời nữa, chẳng thay đổi được gì đâu. Cháu cũng có nhiều câu hỏi và khi biết sẽ gặp chú hôm nay cháu cũng định hỏi chú, nhưng bây giờ thì… cháu không muốn hỏi nữa. Chiến tranh đã đi qua. Mọi chuyện đã kết thúc như chiến tranh đã kết thúc.” Anh quàng tay ôm siết vai chị mình, “Mọi người cần hướng về phía trước, cần sống cho những người thân yêu của mình.”
Rick khựng người, mở lớn mắt nhìn người đàn ông. Anh chàng này là ai mà đã cho anh những lời khuyên ấy? Anh ta nghĩ thế và nói thế, hay là anh ta nói thay cho bố mình?
“Cám ơn chú đến thăm và gửi chúng cháu tấm ảnh bố cháu,” Huy nói thêm. “Ảnh này rất quý đối với chúng cháu.”
“Chính chú mới phải cám ơn gia đình cháu đã tha thứ cho chú và cất dùm chú khối nặng đè trên ngực chú từ bao lâu nay,” Rick nói, áp bàn tay lên ngực mình.
Huy nói anh chưa nhìn thấy tấm ảnh này bao giờ. Cả mẹ anh, khi còn sống, cũng không giữ được ảnh này. Ngày bố xa gia đình, đi biệt, anh chỉ mới 6 tháng tuổi, nên hình ảnh người bố chỉ là tấm ảnh đen trắng mờ mờ bên ánh nến lung linh trên bàn thờ.
“Cô chú có muốn đi thăm mộ bố chị Loan?” người thông dịch ghé tai Rick. “Ở gần đây thôi.”
“Vậy sao?… Cậu hỏi giúp hai chị em xem có tiện không.”
Mộ người bố nằm giữa cánh đồng gần nhà. Huy đưa mọi người đến đó. Nấm mộ thấp, đơn sơ, chỉ một tấm bia nhỏ, khắc tên người lính.
Huy thắp nén nhang trao cho Rick. Anh đón lấy, vụng về làm theo động tác khấn vái của hai chị em. Xong, anh đứng thẳng người, chụm hai chân, đưa cánh tay lên chào, môi mấp máy một đôi lời với người dưới mộ.
Đã lâu lắm Rick mới tìm lại được cảm giác nhẹ nhõm như lúc này. Anh đứng yên một lúc, dõi mắt nhìn đồng cỏ rộng trải dài tận chân núi xa xa, nhìn những bông lau trắng phau đong đưa theo chiều gió và những bông hoa dại lay động nhẹ nhàng trên mộ người lính.
“Chú biết không?” Huy khẽ nói, “Khi thoạt nhìn thấy chú bước vào cổng nhà cháu, chúng cháu tin rằng linh hồn bố cháu ở trong chú, và ngày hôm nay bố đã trở về lại nhà mình sau chiến tranh.”
Rick lặng người. Anh muốn thốt ra câu gì đó nhưng nghẹn lời. Anh dang rộng cánh tay ôm chặt hai chị em một lúc lâu. Đến lúc ra xe, anh và Carol lần lượt ôm hôn từng người trong gia đình, nói lời từ giã. Xong, anh bước vội vào xe. Xe nổ máy, Rick ngoái lại nhìn. Loan úp mặt vào lòng bàn tay trong lúc Huy ôm vai chị mình, đứng nhìn theo.
Xe chạy chậm, để lại đám bụi nhỏ trên mặt đường gồ ghề. Từ lúc ấy cho đến khi ra khỏi con đường làng dẫn ra đường lớn, bốn người trên xe, Carol và Rick, người tài xế và người thông dịch, không ai nói với ai một lời nào.
Một lúc sau trời chuyển mưa, rồi cơn mưa nặng hạt rơi xuống. Rick chăm chú nhìn chiếc cần gạt nước chuyển động qua lại quét những màng nước chảy ràn rụa trên mặt kính xe. Carol ngồi sát vào anh hơn.
“Anh có tin là người chết có linh hồn?” cô hỏi khẽ.
Rick lặng thinh, không trả lời.
“Em nhớ Huy nói gì chứ?” một lúc sau, anh hỏi lại cô. “Đừng tìm kiếm câu trả lời nữa.” Anh nói và mỉm cười, tìm bàn tay Carol.
Trong bài trả lời cuộc phỏng vấn của báo Mỹ sau chuyến đi ấy, Rick có đoạn nói:
Trong nhiều năm, tôi luôn cảm thấy nặng nề và ray rứt trong lòng mỗi khi nghĩ tới gia đình người lính ấy; tuy nhiên, là một cựu chiến binh, tôi không hề hối tiếc việc mình từng tham dự vào cuộc chiến đó, cuộc chiến mà biết bao đồng đội tôi đã hy sinh. Đấy là hai chuyện khác nhau, nói rõ là vậy. Tôi tin là gia đình người lính và mọi người hiểu được điều đó. Mỗi bên tham chiến đều chiến đấu cho niềm tin của mình. Niềm tin ấy ở trong tôi đến nay vẫn không hề lay chuyển.
Ở dòng cuối bài phỏng vấn, Rick nói lời sau cùng, “Với tôi, kể từ phút ấy, giây phút tôi đưa cánh tay lên chào người lính nằm dưới nấm mộ, cuộc chiến tranh đó mới thực sự kết thúc.”
Lê Hữu
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét